Đảng phải gắn bó mật thiết với nhân dân
1. Nhân dân là cội nguồn sức mạnh của Đảng
Hiểu sâu sắc những chỉ dẫn của V.I.Lênin: “Một trong những nguy hiểm lớn nhất và đáng sợ nhất” đối với Đảng là “tự cắt đứt mối liên hệ với quần chúng”(1) và Đảng Cộng sản là đội tiên phong của giai cấp vô sản, nhưng “chỉ là một bộ phận nhỏ của giai cấp vô sản và giai cấp vô sản lại cũng chỉ là một bộ phận nhỏ trong quần chúng nhân dân”(2), nên Đảng chỉ làm tròn sứ mệnh lịch sử của mình khi gắn bó với nhân dân, lãnh đạo nhân dân tiến hành sự nghiệp cách mạng, Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh khẳng định: “Cách mệnh Nga dạy cho chúng ta rằng muốn cách mệnh thành công thì phải dân chúng (công nông) làm gốc”(3).
Sự khẳng định của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Đảng ta đại biểu cho lợi ích chung của giai cấp công nhân, của toàn thể nhân dân lao động, chứ không mưu cầu lợi ích riêng của một nhóm người nào, của cá nhân nào”(4) và “nhiệm vụ của Đảng ta là một lòng, một dạ phụng sự Tổ quốc và nhân dân. Ngoài lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân, Đảng ta không có lợi ích gì khác”(5) chính là biểu hiện của sự thống nhất giữa mục tiêu và lợi ích của Đảng với lợi ích và nguyện vọng của nhân dân; là cơ sở, nền tảng vững chắc của mối liên hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân. Quan điểm này không chỉ làm rõ vị thế Đảng vừa là người lãnh đạo vừa là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân, thể hiện rõ sự thống nhất lợi ích giữa Đảng với nhân dân mà còn đồng thời khẳng định nhân dân chính là cội nguồn sức mạnh nội lực của Đảng, làm nên sức mạnh của Đảng.
Thực tế quá trình vận động thành lập Đảng cũng như xuyên suốt hơn 90 năm xây dựng và phát triển, Đảng Cộng sản Việt Nam - đội tiền phong của giai cấp công nhân và toàn thể dân tộc Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện đã luôn thấm nhuần quan điểm của V.I.Lênin: “Sống trong lòng quần chúng. Biết tâm trạng của quần chúng. Biết tất cả. Hiểu quần chúng. Biết đến với quần chúng, giành được lòng tin tuyệt đối của quần chúng(6) và những lời dặn của Hưng đạo Đại vương Trần Quốc Tuấn (“nước lấy dân làm gốc”, “khoan thư sức dân để làm kế sâu rễ bền gốc. Đó là thượng sách giữ nước”) và Nguyễn Trãi (“việc nhân nghĩa cốt ở yên dân”, “chở thuyền cũng là dân và lật thuyền cũng là dân”) để thực hiện nghiêm nguyên tắc tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân, coi đó là yêu cầu tất yếu, là nhu cầu tự thân của Đảng.
Từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà phụng sự, nên trong mọi hoàn cảnh, mọi thời điểm, chiến tranh hay hòa bình thì Đảng cũng luôn thấm nhuần quan điểm: “Nước ta là nước dân chủ, địa vị cao nhất là dân vì dân là chủ”(7) và mọi công tác của Đảng luôn phải đứng về phía quần chúng, nên “vô luận lúc nào, vô luận việc gì, đảng viên và cán bộ phải đặt lợi ích của Đảng ra trước, lợi ích của cá nhân lại sau. Đó là nguyên tắc cao nhất của Đảng. Đó là “tính Đảng”(8) của Chủ tịch Hồ Chí Minh để gắn bó mật thiết với nhân dân, phấn đấu cho lợi ích của nhân dân. Hơn nữa, Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiền phong của những người con ưu tú nhất của giai cấp và dân tộc, nên theo Người thì “bộ tham mưu” ấy khác với các đảng phái chính trị về bản chất. Vì “Đảng không phải là một tổ chức để làm quan phát tài. Nó phải làm tròn nhiệm vụ giải phóng dân tộc, làm cho Tổ quốc giàu mạnh, đồng bào sung sướng”(9) và đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng nói chung, cán bộ lãnh đạo, quản lý, người đứng đầu nói riêng phải vừa là người lãnh đạo vừa là người đày tớ thật trung thành của nhân dân, cho nên hướng về nhân dân, gắn bó mật thiết và phát huy dân chủ để động viên mọi lực lượng của nhân dân trong sự nghiệp cách mạng luôn được Đảng thống nhất trong tư tưởng cũng như hành động.
Để củng cố, giữ vững và phát huy nguồn sức mạnh nội lực của nhân dân và nhất là dựa vào nhân dân để xây dựng và chỉnh đốn Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ yêu cầu các cấp ủy, mỗi cán bộ, đảng viên phải thực hiện nghiêm các nguyên tắc xây dựng (trong đó có nguyên tắc tự phê bình và phê bình; gắn bó mật thiết với nhân dân) mà Người còn yêu cầu tất cả cán bộ các cơ quan Đảng, chính quyền, cán bộ đoàn thể và tất cả hội viên của các tổ chức nhân dân... đều phải tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân. Đồng thời, đội ngũ cán bộ, đảng viên phải luôn tu dưỡng đạo đức cách mạng, thực hiện “cần kiệm liêm chính, chí công vô tư”, để phòng và đấu tranh chống các tệ nạn/căn bệnh quan liêu, mệnh lệnh “Xa nhân dân… Khinh nhân dân… Sợ nhân dân… Không hiểu biết nhân dân… Không yêu thương nhân dân”(10), độc đoán, chuyên quyền, lợi dụng chức vụ, quyền hành được giao để hách dịch, sách nhiễu/ lừa phỉnh/ dọa nạt nhân dân.
Theo Người, để gắn bó mật thiết với nhân dân, đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng phải luôn thấm nhuần chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Đặt lợi ích của nhân dân lên trên hết; liên hệ chặt chẽ với nhân dân; việc gì cũng bàn với nhân dân, giải thích cho nhân dân hiểu rõ; có khuyết điểm thì thật thà tự phê bình trước nhân dân, và hoan nghênh nhân dân phê bình mình; sẵn sàng học hỏi nhân dân; tự mình phải làm gương mẫu cần kiệm liêm chính, để nhân dân noi theo… sẵn lòng cầu tiến bộ, sẵn chí phụng sự nhân dân”(11), để nhân dân tin yêu và gắn bó. Đồng thời, trong mọi mặt công tác, mỗi người cần phải quán triệt nguyên tắc thống nhất giữa nói và làm, nêu gương làm trước để không chỉ lãnh đạo, chỉ đạo đúng, tổ chức nhân dân thực hiện nhiệm vụ chính trị, phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội sát hợp thực tế, mà còn phải luôn luôn quan tâm đến tâm tư, nguyện vọng liên quan đến đời sống vật chất và tinh thần hàng ngày của nhân dân, để không ngừng nâng cao chất lượng đời sống cho nhân dân…
Luôn gắn bó mật thiết với nhân dân, học hỏi nhân dân, hết lòng, hết sức phục vụ nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân; đồng thời, phát huy sức mạnh to lớn của nhân dân trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đúng, trong 9 thập niên xây dựng và phát triển, Đảng Cộng sản Việt Nam đã nỗ lực phấn đấu làm tròn nhiệm vụ như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: Mục đích của Đảng được gói gọn “trong 8 chữ là: ĐOÀN KẾT TOÀN DÂN, PHỤNG SỰ TỔ QUỐC”(12).
2. Tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân để xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh
Gắn bó mật thiết với nhân dân là quy luật tồn tại, phát triển và hoạt động của Đảng Cộng sản, bởi đó là cội nguồn sức mạnh của Đảng, bảo đảm sự thành công của cách mạng. Là đội tiền phong của giai cấp công nhân và dân tộc Việt Nam, Đảng Cộng sản Việt Nam đã cổ vũ, tập hợp, đoàn kết, tổ chức và lãnh đạo toàn dân vượt qua muôn vàn khó khăn, thách thức để giành độc lập, tự do, thống nhất đất nước; đồng thời, kiên định đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội, thực hiện công cuộc đổi mới và hội nhập quốc tế sâu rộng, vì một nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, ngày càng phát triển phồn vinh và hạnh phúc.
Từ những chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh; từ việc thấm nhuần sự gắn bó mật thiết với nhân dân là yêu cầu khách quan, nhất quán đối với Đảng cầm quyền và dựa vào nhân dân để xây dựng, chỉnh đốn Đảng, Đảng góp phần phòng, chống sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, sự “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong đội ngũ cán bộ, đảng viên, làm cho Đảng luôn trong sạch, vững mạnh, xứng đáng với vai trò tiền phong, Đảng Cộng sản Việt Nam đã chú trọng xây dựng văn hóa chính trị trong Đảng. Các cấp ủy, tổ chức cơ sở Đảng không chỉ “tăng cường giáo dục, rèn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là những cán bộ có chức có quyền ở các cấp, các ngành sống gương mẫu, có trách nhiệm với chức trách, nhiệm vụ; có trách nhiệm với dân, nói đi đôi với làm để nhân dân tin tưởng noi theo”(13) mà còn đồng thời thực hiện nghiêm ngặt các quy định về kiểm tra và giám sát, về thực thi kỷ luật Đảng, kiểm soát quyền lực trong Đảng, trong hệ thống chính trị, góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng...
Nhờ đó mà những thành tựu đạt được của Việt Nam về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhất là trong hơn 35 năm đổi mới và hội nhập quốc tế đã chứng minh trên thực tế là để giải phóng mình, để được sống tự do, hạnh phúc và thụ hưởng những giá trị cao cả nhất của quyền con người, quyền công dân trong một quốc gia hòa bình, độc lập và thống nhất, nhân dân rất cần Đảng dẫn đường, lãnh đạo. Đồng thời, để hoàn thành trọng trách vừa là người lãnh đạo vừa là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân, Đảng cũng cần phải gắn bó mật thiết với nhân dân - nguồn sức mạnh nội lực của Đảng. Thực tế, những thành tựu to lớn của cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng không chỉ làm cho đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân ngày một cải thiện; sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc ngày càng được củng cố, tăng cường; vị thế của Việt Nam trong khu vực, trên trường quốc tế ngày càng được nâng cao mà còn góp phần củng cố niềm tin yêu và gắn bó của nhân dân với Đảng, cũng như thừa nhận vai trò độc quyền lãnh đạo của Đảng.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được về công tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng nói chung, về việc Đảng phải gắn bó mật thiết với nhân dân nói riêng, thì tình trạng suy thoái về đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên với những biểu hiện: quan liêu, cửa quyền, tham ô, tham nhũng, sách nhiễu dân, nhóm lợi ích… trong các cơ quan công quyền, trong các tập đoàn kinh tế lớn và ngay tại các địa bàn cơ sở đã trở thành trở lực, lực cản đối với sự phát triển đất nước; đã làm xói mòn lòng tin của nhân dân với Đảng và chế độ, đe dọa sự tồn vong của Đảng và chế độ. Bộ phận không nhỏ những cán bộ, đảng viên suy thoái này đã không nghiêm túc thực hiện các nguyên tắc về xây dựng Đảng, không chú trọng rèn luyện phẩm chất đạo đức, không thường xuyên tự phê bình và phê bình… nên đã sa vào chủ nghĩa cá nhân. Họ không chỉ cho mình đặc quyền “ăn trên, ngồi trốc”, lợi dụng, lạm dụng quyền lực được trao để mưu cầu lợi ích cá nhân, lợi ích nhóm mà còn xa rời nguyên tắc Đảng phải gắn bó mật thiết với nhân dân, khiến nhân dân thất vọng.
Bộ phận cán bộ, đảng viên suy thoái này đã quên mình phải là những người đầy tớ thật trung thành của nhân dân, đã quên đi trách nhiệm của “đầy tớ” là làm “công bộc” của dân, cho dân. “Công bộc” chính là phải gần dân, lắng nghe tâm tư, nguyện vọng của dân; là hết lòng, hết sức gánh vác việc nước, toàn tâm, toàn ý phụng sự nhân dân với tinh thần cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư chứ không phải là miệng nói vì dân, nhưng việc làm thì là “quan chủ”, là “quan phụ mẫu của dân”. Hơn nữa, trong cơ chế Đảng vừa lãnh đạo cầm quyền, các tệ nạn: Không chấp hành nghiêm các nguyên tắc tổ chức của Đảng; sa sút ý chí phấn đấu, không gương mẫu trong công tác, không còn ý thức hết lòng vì nước, vì dân, không làm tròn chức trách, nhiệm vụ được giao; quan liêu, xa rời quần chúng, không sâu sát cơ sở, thiếu kiểm tra, đôn đốc, không nắm chắc tình hình địa phương, cơ quan, đơn vị mình; độc đoán, chuyên quyền, lợi ích nhóm, tham ô, tham nhũng và đi liền cùng đó là sự quan liêu, lãng phí, thờ ơ, vô cảm, thiếu trách nhiệm trước những khó khăn, bức xúc và đòi hỏi chính đáng của nhân dân,... (vốn là con đẻ của chủ nghĩa cá nhân) đã từng được Chủ tịch Hồ Chí Minh cảnh báo nhiều lần. Vấn nạn này dường như chưa được ngăn chặn, đẩy lùi và tiếp tục được chỉ ra trong Văn kiện Đại hội XI, XII, XIII của Đảng, trong Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”; Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII về “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ”… và đó chính là hiểm họa, là tác hại khôn lường đến mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân.
Trong khi đó, các thế lực thù địch thường lợi dụng vấn đề dân chủ, nhân quyền, tôn giáo, dân tộc; thường khai thác tối đa các phương tiện truyền thông, mạng xã hội để tuyên truyền, kích động, khoét sâu một số hạn chế trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện, nhất là vin vào sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” của một bộ phận cán bộ, đảng viên nhằm chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc và chia rẽ mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân. Vì thế, một trong những bài học kinh nghiệm được rút ra trong 5 năm thực hiện Đại hội XII của Đảng chính là: “Trong mọi công việc của Đảng và Nhà nước, phải luôn luôn quán triệt sâu sắc, thực hiện nghiêm túc quan điểm “dân là gốc”; thật sự tin tưởng, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, kiên trì thực hiện phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng…; thắt chặt mối quan hệ mật thiết với nhân dân; dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng; lấy hạnh phúc, ấm no của nhân dân làm mục tiêu phấn đấu; củng cố và tăng cường niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa”(14).
3. Một số giải pháp cần tập trung triển khai thực hiện
Quán triệt sâu sắc bài học kinh nghiệm; đồng thời, tiếp tục cổ vũ, động viên, phát huy năng lực sáng tạo, sáng kiến, kinh nghiệm của nhân dân để huy động mọi nguồn lực “tài dân, sức dân” thực hiện khát vọng xây dựng đất nước phồn vinh, hạnh phúc và tăng cường sự gắn bó với nhân dân, dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng... Trên tinh thần đó, các cấp ủy Đảng từ trung ương đến địa phương cần phải chú trọng thực hiện một số giải pháp trọng tâm sau:
Một là, nâng cao nhận thức của mỗi cấp ủy, tổ chức cơ sở Đảng, của mỗi cán bộ, đảng viên, cán bộ lãnh đạo, quản lý, người đứng đầu mỗi địa phương, cơ quan, đơn vị về yêu cầu phải tiếp tục thực hiện nghiêm các nguyên tắc xây dựng Đảng, Điều lệ Đảng, kỷ luật Đảng và quan điểm “dân là gốc”. Trong từng tổ chức cơ sở Đảng, gắn việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII và Kết luận số 21-KL/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Về đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị; kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” với Chỉ thị 05-CT/TW của Bộ Chính trị khóa XII và Kết luận số 01-KL/TW của Bộ Chính trị Về tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; với Quy định số 37-QĐ/TW về những điều đảng viên không được làm; với các Quy định về nêu gương và coi đó là nhu cầu tự thân, trở thành nền nếp trong mọi hoạt động...
Thứ hai, tiếp tục đổi mới, tạo chuyển biến mạnh mẽ trong nhận thức và hành động của cả hệ thống chính trị về công tác dân vận; thắt chặt hơn nữa mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân trên tinh thần chủ động nắm vững tình hình, hiểu rõ tâm trạng, yêu cầu của nhân dân và phát huy vai trò của nhân dân trong xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền, xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh. Chú trọng chăm lo đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ chuyên trách làm công tác dân vận để nâng cao chất lượng tham mưu cho cấp ủy về công tác dân vận, đáp ứng yêu cầu và tình hình nhiệm vụ trong giai đoạn mới. Đồng thời, tạo điều kiện thực tế, có cơ chế cụ thể để nhân dân thực hiện quyền làm chủ của mình gắn với việc đôn đốc, giám sát và kiểm tra thực hiện các nghị quyết của Đảng về công tác dân vận, xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, để quyền làm chủ của nhân dân không chỉ dừng lại ở khẩu hiệu mà trở thành hiện thực sinh động.
Thứ ba, trên cơ sở chủ trương, đường lối của Đảng, các cơ quan chức năng cần tiếp tục thể chế hóa thành các văn bản quy phạm pháp luật để phát huy quyền làm chủ của nhân dân; để các hình thức thực hiện dân chủ từng bước được hoàn thiện, được bảo đảm bằng Hiến pháp và pháp luật. Tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính, cải cách tư pháp và phát huy vai trò của các cơ quan dân cử gắn với mở rộng dân chủ trong Đảng, trong các tổ chức nhà nước, đoàn thể và xã hội để việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, xử lý các hành vi vi phạm quyền dân chủ được kịp thời, khách quan, công bằng. Dựa vào nhân dân để lựa chọn, giới thiệu những người xứng đáng, có kinh nghiệm, uy tín để Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội bầu làm người đứng đầu của mình. Đồng thời, đa dạng hóa các hình thức tổ chức, tập hợp nhân dân và kịp thời nắm bắt tâm tư, nguyện vọng hợp pháp, chính đáng của các tầng lớp nhân dân đi liền với việc tạo điều kiện tốt nhất để các tầng lớp nhân dân tham gia góp ý xây dựng Đảng, chính quyền, hệ thống chính trị.
Thứ tư, tiếp tục cụ thể hóa phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng” gắn với việc “đổi mới và đẩy mạnh công tác vận động nhân dân thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật và trách nhiệm của công dân; đồng thời chống các biểu hiện dân chủ cực đoan, dân chủ hình thức, mị dân”(15) để phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong quá trình xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước. Đồng thời quán triệt yêu cầu “nâng cao bản lĩnh chính trị, trí tuệ, sự gương mẫu, tinh thần vì nhân dân phục vụ của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo chủ chốt và người đứng đầu các cấp”(16) trên tinh thần hướng về cơ sở, gần dân, hiểu dân, trọng dân, tin dân, học dân, dựa vào dân; đồng thời, thường xuyên đối thoại, lắng nghe, học hỏi, tiếp thu ý kiến để kịp thời giải quyết các khó khăn, vướng mắc, các yêu cầu chính đáng của nhân dân trong quá trình lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện nhiệm vụ chính trị của từng địa phương, cơ quan, đơn vị.
Thứ năm, động viên các tầng lớp nhân dân tích cực tham gia các phong trào thi đua yêu nước, thực hiện thắng lợi các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về phát triển kinh tế - xã hội gắn với các nhiệm vụ chính trị của đất nước, của địa phương. Đồng thời, nâng cao vai trò giám sát của nhân dân đối với cán bộ, đảng viên ở nơi công tác và địa bàn cư trú để kịp thời phát hiện, ngăn chặn, xử lý những hành vi lạm dụng, trục lợi từ quyền lực, những biểu hiện suy thoái, tiêu cực của cán bộ, đảng viên nói chung, cán bộ lãnh đạo chủ chốt, người đứng đầu nói riêng. Trên tinh thần “sẵn lòng cầu tiến bộ, sẵn chí phụng sự nhân dân” như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn, việc nêu gương trong mọi mặt công tác và cuộc sống đời thường của cán bộ, đảng viên, cán bộ lãnh đạo, quản lý, người đứng đầu các cơ quan, địa phương, đơn vị phải được thấu triệt trong suy nghĩ và hành động cụ thể; đồng thời, sự đánh giá của nhân dân phải là một trong những tiêu chuẩn, là thước đo chính xác để đánh giá, xếp loại công tác của cấp ủy các cấp, của đội ngũ cán bộ, đảng viên hằng năm theo đúng tinh thần “lấy kết quả công việc, sự hài lòng và sự tín nhiệm của nhân dân làm tiêu chí quan trọng để đánh giá chất lượng tổ chức bộ máy và chất lượng cán bộ, đảng viên”(17)./.
_________________________________________________
(1), (6) V.I.Lênin (1977), Toàn tập, Nxb. Tiến bộ Matxcơva, T.44, tr.426, 608.
(2) V.I.Lênin (1978), Toàn tập, Nxb. Tiến bộ Matxcơva, T.43, tr.274.
(3) Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, Nxb. CTQG Sự thật, T.2, tr.304.
(4) Hồ Chí Minh (2011), Sđd, T.11, tr.607.
(5) Hồ Chí Minh (2011), Sđd, T.9, tr.31.
(7), (10), (11), (12) Hồ Chí Minh (2011), Sđd, T.7, tr.434, 176, 177, 49.
(8), (9) Hồ Chí Minh (2011), Sđd, T.5, tr.290-291, 289.
(13) Nguyễn Thế Trung (2014), Tăng cường mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân trong thời kỳ mới, Nxb. CTQG Sự thật, tr.160 -161.
(14), (17) Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. CTQG Sự thật, T.I, tr.96-97, 192.
(15), (16) Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. CTQG Sự thật, T.II, tr.250, 242.
Nguồn: Bài đăng trên Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông số tháng 5/2022
Bài liên quan
- Nội dung chuyên đề của Tổng Bí thư Tô Lâm về kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc
- Phát triển nguồn nhân lực ở tỉnh Bến Tre: Thực trạng và giải pháp
- Những đóng góp của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đối với sự phát triển lý luận của Đảng Cộng sản Việt Nam về quyền con người trong thời kỳ đổi mới
- Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng - Nhà lãnh đạo lỗi lạc, trọn đời vì nước, vì dân
- Tính nhân văn của Đề cương về văn hóa Việt Nam - động lực xây dựng, phát triển văn hóa đất nước bền vững trong thời đại Hồ Chí Minh
Xem nhiều
- 1 Video Tư liệu: Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông 30 năm xây dựng và phát triển
- 2 Sử dụng công nghệ trí tuệ nhân tạo trong sản xuất chương trình truyền hình
- 3 Giữ gìn và bảo vệ giá trị văn hóa truyền thống các dân tộc ít người, góp phần củng cố, phát triển khối đại đoàn kết toàn dân tộc
- 4 Phát triển nguồn nhân lực ở tỉnh Bến Tre: Thực trạng và giải pháp
- 5 Sử dụng ChatGPT trong việc cải thiện kỹ năng viết cho sinh viên học tiếng Anh
- 6 Lễ kỷ niệm và Hội thảo khoa học “30 năm - Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông”
Liên kết
- Báo điện tử đảng cộng sản việt nam
- Báo nhân dân
- Báo Quân đội nhân dân
- Cổng thông tin điện tử Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Cổng thông tin điện tử Học viện Chính trị quốc gia hồ chí minh
- Tạp chí Cộng sản
- Tạp chí Giáo dục lý luận
- Tạp chí Giáo dục và Xã hội
- Tạp chí Khoa học xã hội và Nhân văn
- Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam
- Tạp chí Lý luận chính trị
- Tạp chí Nghiên cứu con người
- TẠP CHÍ Nghiên cứu dân tộc
- Tạp chí Người làm báo
- Tạp chí Nội chính
- Tạp chí Quản lý Nhà nước
- Tạp chí Tổ chức Nhà nước
- Tạp chí Tuyên giáo
- Tạp chí Xây Dựng Đảng
- Thư viện số Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Trang thông tin điện tử Hội đồng Lý luận Trung ương
Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của sinh viên về học tập tại Học viện Báo chí và Tuyên truyền
Nghiên cứu dựa trên các điều tra khảo sát hàng năm của khoa Xã hội học và Phát triển đối với sinh viên đang học tập tại Học viện Báo chí và Tuyên truyền nhằm đánh giá về nhiều vấn đề xã hội trong có đánh giá về giảng viên và cơ sở vật chất thông qua 48 biến số. Kết quả nghiên cứu năm 2024 với 734 sinh viên cho thấy, phần lớn sinh viên đánh giá ở mức cao hơn so với một số đánh giá của sinh viên tại các trường đại học khác. Có 7 nhóm yếu tố được đánh giá ảnh hưởng đến sự hài lòng của sinh viên về giảng viên và cơ sở vật chất gồm: Chất lượng giảng viên; Chuyên môn của giảng viên; Phương pháp dạy của giảng viên; Năng lực tổ chức môi trường học tập; Phẩm chất sư phạm của giảng viên; Cố vấn học tập; Cơ sở vật chất. Đối với biến phụ thuộc đo lường về sự hài lòng của sinh viên dựa trên thang đo niềm tin (được đánh giá với thang đo từ 0-9 điểm) thông qua 9 biến số về quản lý, giảng viên, cơ chế đào tạo, phương pháp giảng dạy, thư viện và cơ sở vật chất của giảng đường.
Nội dung chuyên đề của Tổng Bí thư Tô Lâm về kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc
Nội dung chuyên đề của Tổng Bí thư Tô Lâm về kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc
Chiều 31/10, tại Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Giáo sư, Tiến sỹ Tô Lâm, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam đã có buổi trao đổi một số nội dung về kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc với các học viên Lớp bồi dưỡng, cập nhật kiến thức, kỹ năng đối với cán bộ quy hoạch Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIV (Lớp 3).
Phát triển nguồn nhân lực ở tỉnh Bến Tre: Thực trạng và giải pháp
Phát triển nguồn nhân lực ở tỉnh Bến Tre: Thực trạng và giải pháp
Phát triển nguồn nhân lực không những góp phần đẩy mạnh phát triển, ứng dụng khoa học, công nghệ, cơ cấu lại nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng mà còn góp phần đảm bảo phúc lợi cho người lao động. Vì thế, trong quá trình hội nhập, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm đầu tư phát triển nguồn nhân lực – yếu tố then chốt để Việt Nam đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển toàn diện, nhanh và bền vững. Nhận thức rõ vai trò, vị trí quan trọng của nguồn nhân lực, Đảng bộ tỉnh Bến Tre đã có những chủ trương đúng đắn, phù hợp với điều kiện cụ thể của địa phương và đã đạt được những kết quả tích cực đối với phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân. Song, bên cạnh những thành tựu, vẫn con những hạn chế nhất định, vì vậy, cần xây dựng hệ thống giải pháp đồng bộ nhằm phát triển nguồn nhân lực chất lượng yếu tố quyết định thành công quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tạo lợi thế cạnh tranh của tỉnh hiện nay trong thời gian tới.
Những đóng góp của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đối với sự phát triển lý luận của Đảng Cộng sản Việt Nam về quyền con người trong thời kỳ đổi mới
Những đóng góp của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đối với sự phát triển lý luận của Đảng Cộng sản Việt Nam về quyền con người trong thời kỳ đổi mới
Trong suốt cuộc đời và sự nghiệp của mình, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã có những đóng góp sâu sắc đối với sự phát triển lý luận của Đảng về quyền con người. Những quan điểm của Tổng Bí thư sẽ tiếp tục là nguồn cảm hứng và định hướng quan trọng cho các hoạt động về quyền con người trong thời kỳ mới.
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng - Nhà lãnh đạo lỗi lạc, trọn đời vì nước, vì dân
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng - Nhà lãnh đạo lỗi lạc, trọn đời vì nước, vì dân
Theo thông tin từ Hội đồng chuyên môn bảo vệ sức khỏe cán bộ Trung ương, đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, sau thời gian lâm bệnh, mặc dù được Đảng, Nhà nước, tập thể các giáo sư, bác sĩ tận tình cứu chữa, gia đình hết lòng chăm sóc, nhưng do tuổi cao, bệnh nặng, Đồng chí đã từ trần lúc 13 giờ 38 phút, ngày 19-7-2024, tại Bệnh viện Trung ương Quân đội 108. Hưởng thọ 80 tuổi. Tạp chí Cộng sản trân trọng giới thiệu bài viết: “Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng - Nhà lãnh đạo lỗi lạc, trọn đời vì nước, vì dân” của Đại tướng Tô Lâm, Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam:
Bình luận