Đẩy mạnh thực hành dân chủ, tiếp tục phát huy cao độ sức mạnh của nhân dân trong xây dựng và phát triển đất nước
Vai trò quan trọng của thực hành dân chủ, phát huy sức mạnh của nhân dân trong sự nghiệp cách mạng
Trong bất kỳ giai đoạn phát triển nào của lịch sử dân tộc, phát huy sức mạnh của nhân dân luôn là yếu tố sống còn quyết định sự thịnh suy của mọi triều đại, nhà nước. Thực tiễn đã minh chứng, quy tụ được lòng dân, phát huy sức mạnh của nhân dân là nguyên nhân quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Sức mạnh của nhân dân chính là nguồn gốc, điểm tựa vững chắc cho sự phát triển trường tồn, cường thịnh của đất nước. Sức mạnh của nhân dân sẽ được phát huy, nhân lên gấp bội nếu được kết nối thành một khối thống nhất, dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: Dân là gốc của nước, là cơ sở của mọi thắng lợi, là lực lượng tạo ra mọi của cải vật chất, tinh thần. Coi “dân là gốc” là phải tin ở dân, gần gũi với dân, kính trọng dân và biết dựa vào dân, nhận thức rõ: “có lực lượng dân chúng việc to tát mấy, khó khăn mấy làm cũng được. Không có, thì việc gì làm cũng không xong”(1).
Có thể nhận thấy, tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về phát huy sức mạnh của nhân dân thể hiện tập trung ở việc trong mọi chủ trương, đường lối, phải luôn thấm nhuần quan điểm: Dân là gốc. Vấn đề mấu chốt, chìa khóa để thực hiện tốt tư tưởng này của Người chính là thực hành dân chủ, phát huy quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm “là chủ” và “làm chủ” của nhân dân trong xây dựng, phát triển đất nước.
Ngay khi nước nhà giành được độc lập, để thể chế hóa tư tưởng dân là gốc, Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trương xây dựng nhà nước kiểu mới của dân, do dân và vì dân. Trên cương vị đứng đầu Đảng và Nhà nước, Người đã để lại một di sản to lớn về việc tổ chức, xây dựng nhà nước dân chủ mới ở nước ta. Tư tưởng của Người về xây dựng nhà nước của dân, do dân, vì dân là sự vận dụng sáng tạo học thuyết về nhà nước của chủ nghĩa Mác - Lê-nin; đồng thời, chọn lọc, kế thừa những tinh hoa tư tưởng về xây dựng nhà nước trong lịch sử dân tộc và nhân loại.
Chủ tịch Hồ Chí Minh quan niệm, một nhà nước vững mạnh, có hiệu lực phải là một nhà nước pháp quyền “mạnh mẽ và sáng suốt”, nhà nước đó “phải dựa vào nhân dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự kiểm soát của nhân dân”(2), theo tinh thần “nhân dân là người chủ, mà Chính phủ là người đày tớ trung thành của nhân dân”(3). Nhà nước ta phải phát huy dân chủ, phải làm cho việc thực hành dân chủ được thể hiện và thấm sâu vào tất cả lĩnh vực của đời sống xã hội, vì “thực hành dân chủ là cái chìa khóa vạn năng có thể giải quyết mọi khó khăn”(4). “NƯỚC TA LÀ NƯỚC DÂN CHỦ/ Bao nhiêu lợi ích đều vì dân./ Bao nhiêu quyền hạn đều của dân... Chính quyền từ xã đến Chính phủ trung ương do dân cử ra”(5), “tất cả quyền lực trong nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đều thuộc về nhân dân”(6).
Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Ở nước ta chính quyền là của nhân dân, do nhân dân làm chủ. Nhân dân bầu ra các hội đồng nhân dân, ủy ban kháng chiến hành chính địa phương, và Quốc hội cùng Chính phủ Trung ương... Nhân dân là ông chủ nắm chính quyền. Nhân dân bầu ra đại biểu thay mặt mình thi hành chính quyền ấy. Thế là dân chủ”(7). Dưới chế độ dân chủ cộng hòa, nhân dân có nghĩa vụ, đồng thời có quyền lợi; phụ nữ ngang quyền với nam giới về mọi phương diện; các dân tộc trong nước đều bình đẳng về quyền lợi.
Dân chủ cần luôn đi liền với cơ chế bảo đảm dân chủ, mà cơ chế này phải được luật hóa. Quan hệ giữa pháp luật và dân chủ trong nhà nước pháp quyền biểu hiện ở chỗ, để thực thi dân chủ cần có pháp luật bảo đảm; pháp luật phải được xây dựng và thực hành trên cơ chế dân chủ, bình đẳng. Tiến trình dân chủ hóa xã hội cũng là quá trình xây dựng và hoàn thiện không ngừng pháp luật của nhà nước. Dân chủ càng cao thì pháp luật càng chặt chẽ, khoa học. Pháp luật về thực thi dân chủ ở cơ sở là sự cụ thể hóa quan điểm, chủ trương của Đảng về vấn đề này, quy định và thể chế hóa các nội dung “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”; quy định cách thức, phương pháp để người dân thể hiện quyền làm chủ của mình.
Dân chủ xã hội chủ nghĩa là dân chủ của đại đa số nhân dân, gắn với việc thực hiện các quyền của nhân dân trên tất cả lĩnh vực của đời sống xã hội, được pháp luật bảo đảm dưới sự lãnh đạo của Đảng; là hình thức thể hiện quyền tự do, bình đẳng của công dân, xác định nhân dân là chủ thể của quyền lực nhà nước. Dân chủ xã hội chủ nghĩa thể hiện bản chất tốt đẹp của chế độ, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội; do vậy, xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền lực thực sự thuộc về nhân dân là một nhiệm vụ trọng yếu, lâu dài của cách mạng Việt Nam.
Nhà nước tôn trọng và bảo đảm toàn bộ quyền con người, quyền công dân, như quyền tự do báo chí, hội họp, đi lại, tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào, quyền bất khả xâm phạm về thân thể, quyền có nơi ở hợp pháp, học tập... Dân chủ gắn liền với kỷ luật, kỷ cương, quyền và nghĩa vụ công dân do Hiến pháp và pháp luật quy định. Nhà nước được tổ chức và hoạt động theo quy định của Hiến pháp và pháp luật, quản lý xã hội bằng pháp luật, thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ. Cốt lõi của dân chủ xã hội chủ nghĩa là khẳng định quyền lực của nhân dân, giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa quyền và lợi ích, quyền và nghĩa vụ, lợi ích và trách nhiệm của công dân.
Với quan niệm “dân chủ” nghĩa là “dân là chủ” và “dân làm chủ”, Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ đặt nhân dân ở vị thế chủ thể xã hội, mà còn chỉ rõ mối quan hệ mật thiết, không thể tách rời giữa vị thế đó với hành động làm chủ xã hội thực sự của nhân dân. Dân chủ và thực hành dân chủ không chỉ là mục tiêu và động lực của cách mạng, mà cùng với tập trung sẽ còn trở thành phương pháp, cách thức giải quyết mọi khó khăn, trở ngại của sự nghiệp cách mạng. Người nhắc nhở, Đảng ta coi việc củng cố và tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân là nhiệm vụ rất quan trọng, bảo đảm sự lãnh đạo toàn diện của Đảng và sự vững chắc của chế độ. Nhân dân là “mạch nguồn” dẫn dắt sự nghiệp cách mạng của Đảng, một khi sức dân được huy động, được tổ chức, được tập hợp dưới sự lãnh đạo của Đảng thì sẽ trở thành sức mạnh vô địch.
Theo đó, để thực hiện dân chủ thì phải triển khai trên nhiều phương diện, với sự tham gia của nhiều chủ thể có vị trí, vai trò, quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm khác nhau nhằm bảo đảm thực hiện quyền của người dân, như quyền sử dụng lá phiếu để bầu ra những người đại diện vào các cơ quan, tổ chức bộ máy nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội; quyền quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước; quyền tham gia vào các hoạt động của đời sống chính trị - xã hội, thể hiện ý chí, nguyện vọng, chính kiến của mình trong xây dựng và thực hiện chính sách, pháp luật; quyền tham gia vào các hoạt động giám sát, phản biện xã hội.
Muốn thực hiện được các quyền đó, nhân dân phải hiểu biết đúng đắn, đầy đủ về các quyền tự do, dân chủ của mình; nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của việc thực thi, phát huy dân chủ, chủ động và tích cực thực thi, sử dụng các quyền dân chủ, rèn luyện phương pháp thực hành dân chủ và có bản lĩnh thực hành dân chủ, thực hiện quyền làm chủ thực sự.
Một số kết quả nổi bật về thực hành dân chủ, phát huy sức mạnh của nhân dân qua gần 40 năm đổi mới
Qua các kỳ đại hội, Đảng ta ngày càng nhận thức sâu sắc và cụ thể hơn về dân chủ và thực hành dân chủ. Sau khi nước nhà thống nhất, tại Đại hội IV, Đảng ta khẳng định, để đưa sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa đến toàn thắng, thì một trong những điều kiện tiên quyết là phải thiết lập và không ngừng tăng cường chuyên chính vô sản, thực hiện và không ngừng phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động. Các kỳ đại hội tiếp theo của Đảng đều nhấn mạnh quan điểm chỉ đạo về dân chủ và quyền làm chủ của nhân dân.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011) khẳng định: Dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất của chế độ ta, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển đất nước. Xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm dân chủ được thực hiện trong thực tế cuộc sống, trên tất cả lĩnh vực là nhiệm vụ quan trọng. Dân chủ gắn liền với kỷ luật, kỷ cương và phải được thể chế hóa bằng pháp luật, được pháp luật bảo đảm.
Đại hội XIII của Đảng một lần nữa khẳng định: Đảng và Nhà nước ban hành đường lối, chủ trương, chính sách, pháp luật tạo nền tảng chính trị, pháp lý, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền làm chủ của nhân dân; đề cao vai trò chủ thể, vị trí trung tâm của nhân dân trong toàn bộ quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Quan điểm chỉ đạo của Đảng qua các thời kỳ đều nhất quán, khẳng định bản chất của chế độ xã hội ta “dân là chủ” và “nhân dân làm chủ”, trở thành một trong những đặc trưng của chế độ xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng. Thành tựu cách mạng có được dưới sự lãnh đạo của Đảng gần 94 năm qua chính là nhờ Đảng ta đã biết kế thừa, phát huy sức mạnh của quần chúng nhân dân trong công cuộc giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, trong xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị. Cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ” ngày càng được hoàn thiện.
Điểm nổi bật, thành công của Đảng ta trong xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa chính là nhận thức ngày càng sâu sắc hơn về dân chủ để có chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật phù hợp; là sự kết hợp hài hòa giữa lý thuyết về dân chủ với việc thực hành dân chủ trên mọi mặt của đời sống xã hội. Thực hành dân chủ chính là hình thành cơ chế, chính sách, quy định, nguyên tắc và biện pháp hữu hiệu để bảo đảm cho mọi người dân thực hiện quyền dân chủ, hiện thực hóa phương châm mà Đảng đã xác định.
Thực chất của việc thực hành dân chủ xã hội chủ nghĩa là phát huy vai trò chủ thể của Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân nhằm huy động mọi nguồn lực để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; qua đó, vừa phát huy tốt chế độ dân chủ đại diện, nâng cao chất lượng và hiệu lực hoạt động của Quốc hội, Chính phủ, hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân các cấp, vừa thực hiện tốt chế độ dân chủ trực tiếp ở cấp cơ sở để nhân dân bàn bạc và quyết định trực tiếp những công việc quan trọng, thiết thực, gắn liền với phát triển kinh tế - xã hội, tham gia xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh.
Kết quả đạt được sau gần 40 năm đổi mới trên lĩnh vực thực hành dân chủ có những bước tiến rất quan trọng, có thể khái quát ở các điểm nổi bật sau:
1- Thực hành dân chủ trong Đảng có bước phát triển mới, đề cao trách nhiệm của cấp ủy, sự gương mẫu của cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu các cấp; phát huy dân chủ; tăng cường đoàn kết thống nhất trong Đảng; tôn trọng sự khác biệt trong quan điểm, ý kiến cá nhân trên tinh thần xây dựng Đảng.
2- Thực hành dân chủ trong xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam được tăng cường. Hoạt động của Quốc hội trong việc thực hiện quyền lập hiến, lập pháp, quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối cao có nhiều đổi mới, chất lượng và hiệu quả được nâng cao. Hoạt động của Chính phủ được đổi mới theo hướng xây dựng Chính phủ kiến tạo, phát huy dân chủ trong thực thi hành chính công. Các cơ quan tư pháp tiếp tục được kiện toàn, hệ thống pháp luật được hoàn thiện một bước cơ bản. Vai trò của pháp luật và thực thi pháp luật ngày càng được chú trọng trong tổ chức và hoạt động của Nhà nước và đời sống xã hội, bảo đảm thượng tôn pháp luật, công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình.
3- Thực hành dân chủ trong hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội được chú trọng, ngày càng thực chất hơn; phát huy ngày càng tốt hơn vai trò đại diện quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của đoàn viên, hội viên và nhân dân; chủ động tham gia giám sát và phản biện xã hội; làm tốt vai trò cầu nối giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân; tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước và hệ thống chính trị.
Thực tiễn xây dựng và phát huy nền dân chủ xã hội chủ nghĩa đã khẳng định phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng” luôn là kim chỉ nam cho mọi hành động của Đảng, được mọi tầng lớp nhân dân đồng tình ủng hộ và ngày càng phát huy hiệu quả trên thực tế. Thể chế thực thi các quyền làm chủ của nhân dân được xác lập, cụ thể hóa và đi vào cuộc sống. Thông qua cơ chế dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện, vai trò “kiểm tra, giám sát” của nhân dân đã thật sự phát huy hiệu quả cao trong việc phát hiện một số vi phạm của cơ quan nhà nước, cán bộ, đảng viên, góp phần nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát của Đảng. Từ đó, niềm tin của nhân dân với Đảng và Nhà nước được củng cố, mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân ngày càng bền chặt.
Đại hội XIII của Đảng đã tổng kết: Sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố; dân chủ xã hội chủ nghĩa tiếp tục được phát huy, thực hiện ngày càng tốt hơn quyền làm chủ của nhân dân trong việc quyết định những vấn đề lớn và hệ trọng của đất nước. Tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền và nghĩa vụ của công dân theo Hiến pháp năm 2013; gắn quyền công dân với nghĩa vụ và trách nhiệm công dân đối với xã hội. Chú trọng thực hiện dân chủ cả trực tiếp và đại diện, nhất là ở cơ sở, bảo đảm công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình. Người đứng đầu ở nhiều cấp ủy, chính quyền đã tăng cường tiếp xúc, đối thoại, lắng nghe, tiếp thu, giải quyết những bức xúc và nguyện vọng chính đáng của nhân dân(8).
Dù vậy, bên cạnh kết quả quan trọng đã đạt được, vấn đề phát huy quyền làm chủ của nhân dân còn một số hạn chế. Một số tổ chức cơ sở đảng, một bộ phận cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức chưa gương mẫu, chưa thực sự tôn trọng ý kiến, kiến nghị của nhân dân, chưa kịp thời giải quyết đề xuất, kiến nghị chính đáng, hợp pháp của nhân dân. Quyền làm chủ của nhân dân ở một số nơi còn bị vi phạm, việc thực hiện dân chủ có lúc, có nơi còn mang tính hình thức, tách rời dân chủ với kỷ cương, pháp luật. Chất lượng, hiệu quả hoạt động giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội chưa đồng đều...
Giải pháp để đẩy mạnh thực hành dân chủ, phát huy sức mạnh của nhân dân trong tình hình mới
Sau gần 40 năm đổi mới, đất nước ta đã đạt nhiều thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, vị thế, sức mạnh tổng hợp và uy tín trên trường quốc tế được nâng lên. Tuy nhiên, sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta vẫn đối diện với nhiều khó khăn, thách thức: Tình hình thế giới tiếp tục diễn biến nhanh, phức tạp, khó dự báo. Bốn nguy cơ mà Đảng đã chỉ ra vẫn còn tồn tại, có mặt còn gay gắt hơn; các mối đe dọa độc lập, chủ quyền, lợi ích chiến lược của đất nước, nhất là trên Biển Đông; vấn đề an ninh phi truyền thống, biến đổi khí hậu, ô nhiễm môi trường, dịch bệnh, cạn kiệt tài nguyên, xu hướng già hóa dân số; tình trạng suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ; sự chống phá quyết liệt của các thế lực thù địch, các tổ chức phản động... vẫn hiện hữu.
Tình hình trên cho thấy, phải đặc biệt coi trọng và đẩy mạnh hơn nữa công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị thật sự trong sạch, vững mạnh, lãnh đạo đất nước phát triển nhanh, bền vững trong những năm tới; trong đó, phát huy sức mạnh của nhân dân, thực hành dân chủ phải được coi là nhiệm vụ “hạt nhân”.
Sức mạnh của nhân dân chỉ được phát huy khi Đảng đánh giá đúng tiềm lực to lớn của nhân dân, coi trọng dân, gần dân, phát huy mạnh mẽ quyền làm chủ của nhân dân. Đảng muốn mạnh phải dựa vào dân; sức mạnh của lòng dân sẽ làm nên sức mạnh của Đảng; từ đó, hình thành nên các nhân tố vững chắc, bảo đảm cho sự vận động, phát triển của Đảng và của cách mạng Việt Nam. Điều đó có nghĩa là, sức mạnh nội sinh của Đảng phải xuất phát từ dân, vì dân, “đem tài dân, của dân, sức dân để làm lợi cho dân”.
Một trong 5 bài học đã được Đảng tổng kết tại Đại hội XIII là: Trong mọi công việc của Đảng và Nhà nước, phải luôn luôn quán triệt sâu sắc quan điểm dân là gốc; thật sự tin tưởng, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, kiên trì thực hiện phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”.
Quan điểm chỉ đạo trong Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng là: Khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc; phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và của nền văn hóa, con người Việt Nam, bồi dưỡng sức dân... tạo động lực mới cho sự phát triển nhanh và bền vững của đất nước. Phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh: Nhân dân đóng vai trò là chủ thể, giữ vị trí trung tâm trong chiến lược phát triển đất nước. Phát huy tính tích cực, quyền và trách nhiệm của nhân dân tham gia xây dựng, chỉnh đốn Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội, xây dựng đội ngũ đảng viên, cán bộ, công chức. Đồng thời, các điểm mới trong chỉ đạo của Đảng tập trung ở các vấn đề, nội dung sau:
Một là, thực hiện phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”. Tiếp tục cụ thể hóa, hoàn thiện thể chế thực hành dân chủ theo Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011) và Hiến pháp năm 2013, bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân.
Hai là, xác định rõ hơn vai trò của các chủ thể khi Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội làm nòng cốt để nhân dân làm chủ. Đảng và Nhà nước ban hành đường lối, chủ trương, chính sách, pháp luật tạo nền tảng chính trị, pháp lý, tôn trọng, bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân.
Ba là, khẳng định vai trò chủ thể, trung tâm của nhân dân trong chiến lược phát triển đất nước, trong quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Phát huy trí tuệ, tính tích cực, quyền và trách nhiệm của nhân dân trong xây dựng Đảng, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội.
Bốn là, cấp ủy, tổ chức đảng, các tổ chức trong hệ thống chính trị, đội ngũ đảng viên, cán bộ, công chức, viên chức phải nêu gương thực hành dân chủ, tuân thủ pháp luật, đề cao đạo đức xã hội. Xử lý kịp thời, nghiêm minh tổ chức, cá nhân lợi dụng dân chủ, gây rối nội bộ, làm mất ổn định chính trị - xã hội hoặc vi phạm dân chủ, gây hại đến quyền làm chủ của nhân dân.
Trên tinh thần đó, để đẩy mạnh thực hành dân chủ, phát huy sức mạnh của nhân dân trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa trong tình hình mới, với mục tiêu “Tiếp tục phát huy truyền thống đại đoàn kết toàn dân tộc, tạo đồng thuận xã hội, khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, niềm tin, khát vọng cống hiến và xây dựng đất nước ta ngày càng giàu mạnh, phồn vinh, văn minh, hạnh phúc để thực hiện thành công mục tiêu đến năm 2030 Việt Nam là nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao; đến năm 2045 trở thành nước phát triển, thu nhập cao; phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI trở thành nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa”(9), cần tập trung thực hiện các giải pháp sau đây:
Thứ nhất, tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức, trình độ hiểu biết của cán bộ, đảng viên và nhân dân về dân chủ. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến, thực hiện chủ trương của Đảng về phát huy dân chủ, quyền dân chủ của nhân dân, gắn với phát huy vai trò của nhân dân trong xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh. Đổi mới, đa dạng hóa hình thức tuyên truyền, phổ biến chủ trương của Đảng về phát huy dân chủ phù hợp với tình hình mới hiện nay.
Thứ hai, làm tốt việc thể chế hóa, cụ thể hóa phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng” thành các quy định chặt chẽ, đồng bộ, cụ thể trong hệ thống pháp luật. Thực hiện đúng đắn, hiệu quả dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện, đặc biệt là dân chủ ở cơ sở. Quyền làm chủ của nhân dân được thể hiện trên tất cả lĩnh vực quan trọng của đất nước, như tham gia xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị; xây dựng đội ngũ đảng viên, cán bộ, công chức; phát triển kinh tế; quản lý và tự quản xã hội; xây dựng, quản lý, thụ hưởng văn hóa; xây dựng nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân, ngoại giao nhân dân gắn với thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân, “thế trận lòng dân”.
Tiếp tục thể chế hóa, cụ thể hóa cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”. Thực hiện tốt Quy chế dân chủ ở cơ sở trong các loại hình theo Chỉ thị số 30-CT/TW, ngày 18-2-1998, của Bộ Chính trị, “Về xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở”; Kết luận số 120-KL/TW, ngày 7-1-2016, của Bộ Chính trị, “Về tiếp tục đẩy mạnh, nâng cao chất lượng, hiệu quả việc xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở”; Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở (năm 2022).
Tăng cường công khai, minh bạch, dựa vào nhân dân để kiểm tra, giám sát, đánh giá, nhằm lựa chọn, xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên thực sự xứng đáng là người lãnh đạo, người đày tớ trung thành của nhân dân, “nói đi đôi với làm”, “tin dân, trọng dân, gần dân, hiểu dân, học dân, dựa vào dân, có trách nhiệm với dân”.
Thứ ba, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội tiếp tục đổi mới nội dung và phương thức hoạt động, phát huy vai trò chăm lo, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của đoàn viên, hội viên và nhân dân; chủ động tham gia giám sát và phản biện xã hội, làm tốt vai trò cầu nối, bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân, phát huy vai trò của nhân dân qua cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội làm nòng cốt để nhân dân làm chủ, tạo điều kiện để nhân dân thực hiện các quyền dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp trong xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị.
Thứ tư, phát huy dân chủ đi đôi với tăng cường kỷ luật, kỷ cương trong Đảng và trong xã hội; tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, kiên quyết và thường xuyên đấu tranh phê phán, bác bỏ các quan điểm sai trái, thù địch; đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, gắn với tăng cường cải cách hành chính, giảm phiền hà cho nhân dân; quan tâm lắng nghe, giải quyết kịp thời, hiệu quả những bức xúc, kiến nghị chính đáng của nhân dân; thực hiện chủ trương, chính sách “hợp lòng dân”, chăm lo đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, nhất là ở những vùng đang còn gặp nhiều khó khăn. Đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, củng cố lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ./.
_________________________________________
(1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 5, tr. 335
(2) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 12, tr. 375
(3) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 9, tr. 382
(4) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 15, tr. 325
(5) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 6, tr. 232
(6) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 12, tr. 375
(7) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 8, tr. 263
(8) Các văn bản quan trọng của Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội được ban hành với nhiều điểm mới về dân chủ và quyền làm chủ của nhân dân. Bộ Chính trị đã ban hành “Quy chế giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội” và “Quy định về việc Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị - xã hội và nhân dân tham gia góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền”...
(9) “Nghị quyết số 43-NQ/TW, ngày 24-11-2023, Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII, về tiếp tục phát huy truyền thống, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, xây dựng đất nước ta ngày càng phồn vinh, hạnh phúc”, Báo Điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam, ngày 2-12-2023, https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/van-kien-tu-lieu-ve-dang/hoi-nghi-bch-trung-uong/khoa-xiii/nghi-quyet-so-43-nqtw-ngay-24112023-hoi-nghi-lan-thu-tam-ban-chap-hanh-trung-uong-dang-khoa-xiii-ve-tiep-tuc-phat-huy-truyen-4021
Nguồn: Bài đăng trên Tạp chí Cộng sản điện tử ngày 18/1/2024
Bài liên quan
- Hệ thống chính trị Việt Nam truyền thống và hiện đại từ góc nhìn đổi mới
- Tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả
- Giữ gìn và bảo vệ giá trị văn hóa truyền thống các dân tộc ít người, góp phần củng cố, phát triển khối đại đoàn kết toàn dân tộc
- Xu hướng hòa bình, hợp tác, phát triển trên thế giới và vai trò của Việt Nam hiện nay
- Phát huy vai trò của ngành công nghiệp xuất bản trong việc gìn giữ bản sắc văn hóa dân tộc
Xem nhiều
- 1 Video Tư liệu: Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông 30 năm xây dựng và phát triển
- 2 Xu hướng hòa bình, hợp tác, phát triển trên thế giới và vai trò của Việt Nam hiện nay
- 3 Sử dụng công nghệ trí tuệ nhân tạo trong sản xuất chương trình truyền hình
- 4 Giữ gìn và bảo vệ giá trị văn hóa truyền thống các dân tộc ít người, góp phần củng cố, phát triển khối đại đoàn kết toàn dân tộc
- 5 Phát triển nguồn nhân lực ở tỉnh Bến Tre: Thực trạng và giải pháp
- 6 Sử dụng ChatGPT trong việc cải thiện kỹ năng viết cho sinh viên học tiếng Anh
Liên kết
- Báo điện tử đảng cộng sản việt nam
- Báo nhân dân
- Báo Quân đội nhân dân
- Cổng thông tin điện tử Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Cổng thông tin điện tử Học viện Chính trị quốc gia hồ chí minh
- Tạp chí Cộng sản
- Tạp chí Giáo dục lý luận
- Tạp chí Giáo dục và Xã hội
- Tạp chí Khoa học xã hội và Nhân văn
- Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam
- Tạp chí Lý luận chính trị
- Tạp chí Nghiên cứu con người
- TẠP CHÍ Nghiên cứu dân tộc
- Tạp chí Người làm báo
- Tạp chí Nội chính
- Tạp chí Quản lý Nhà nước
- Tạp chí Tổ chức Nhà nước
- Tạp chí Tuyên giáo
- Tạp chí Xây Dựng Đảng
- Thư viện số Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Trang thông tin điện tử Hội đồng Lý luận Trung ương
Phát triển nguồn nhân lực ở tỉnh Bến Tre: Thực trạng và giải pháp
Phát triển nguồn nhân lực không những góp phần đẩy mạnh phát triển, ứng dụng khoa học, công nghệ, cơ cấu lại nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng mà còn góp phần đảm bảo phúc lợi cho người lao động. Vì thế, trong quá trình hội nhập, Đảng và Nhà nước ta luôn quan tâm đầu tư phát triển nguồn nhân lực – yếu tố then chốt để Việt Nam đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển toàn diện, nhanh và bền vững. Nhận thức rõ vai trò, vị trí quan trọng của nguồn nhân lực, Đảng bộ tỉnh Bến Tre đã có những chủ trương đúng đắn, phù hợp với điều kiện cụ thể của địa phương và đã đạt được những kết quả tích cực đối với phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân. Song, bên cạnh những thành tựu, vẫn con những hạn chế nhất định, vì vậy, cần xây dựng hệ thống giải pháp đồng bộ nhằm phát triển nguồn nhân lực chất lượng yếu tố quyết định thành công quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tạo lợi thế cạnh tranh của tỉnh hiện nay trong thời gian tới.
Hệ thống chính trị Việt Nam truyền thống và hiện đại từ góc nhìn đổi mới
Hệ thống chính trị Việt Nam truyền thống và hiện đại từ góc nhìn đổi mới
Nhìn toàn bộ tiến trình lịch sử chính trị của dân tộc, “Hệ thống chính trị” nước ta dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là một thiết chế chính trị mạnh, mô hình này phù hợp với hoàn cảnh Việt Nam và đúng với quy luật vận động của lịch sử. Và, cũng từ thực tế lịch sử, có thể thấy sức mạnh thực sự của Hệ thống chính trị mà chúng ta đang có chủ yếu không phải do tính chất nhất nguyên mà là do uy tín của Đảng, Nhà nước và lãnh tụ Hồ Chí Minh. Sức sống của hệ thống chính trị là sự phù hợp, thống nhất giữa mục đích của Đảng với nguyện vọng của nhân dân, với nhu cầu phát triển của đất nước. Hệ thống chính trị Việt Nam đương đại, trên cơ sở kết tinh các giá trị thiết chế truyền thống gắn với hiện đại không ngừng đổi mới phát triển khẳng định sức mạnh của Hệ thống tổ chức quyền lực Chính trị Việt Nam có vai trò quyết định thành công xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN.
Tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả
Tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả
Xây dựng tổ chức bộ máy hiệu lực, hiệu quả là công việc khó khăn, phức tạp, đòi hỏi sự đoàn kết, thống nhất, dũng cảm, sự hy sinh của từng cán bộ, đảng viên cùng với quyết tâm rất cao của toàn Đảng, cả hệ thống chính trị, trước hết là người đứng đầu cấp ủy, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và đoàn thể các cấp. Tạp chí Cộng sản trân trọng giới thiệu bài viết của đồng chí Tổng Bí thư Tô Lâm về xây dựng hệ thống chính trị với tiêu đề: “Tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả”:
Giữ gìn và bảo vệ giá trị văn hóa truyền thống các dân tộc ít người, góp phần củng cố, phát triển khối đại đoàn kết toàn dân tộc
Giữ gìn và bảo vệ giá trị văn hóa truyền thống các dân tộc ít người, góp phần củng cố, phát triển khối đại đoàn kết toàn dân tộc
Với cộng đồng 54 dân tộc anh em, Việt Nam là quốc gia có nền văn hóa đa dạng, phong phú, có những nét riêng, trở thành tài sản quý giá làm nên bản sắc văn hóa Việt Nam độc đáo, đặc sắc. Giữ gìn và bảo vệ các giá trị di sản văn hóa truyền thống chính là góp phần củng cố phát triển khối đại đoàn kết dân tộc - một sức mạnh nội sinh to lớn và vĩ đại, làm nên mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam, dưới lá cờ vẻ vang của Đảng.
Xu hướng hòa bình, hợp tác, phát triển trên thế giới và vai trò của Việt Nam hiện nay
Xu hướng hòa bình, hợp tác, phát triển trên thế giới và vai trò của Việt Nam hiện nay
Trong bối cảnh hiện nay sự cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn, chạy đua vũ trang, các cuộc xung đột tôn giáo, sắc tộc vẫn diễn ra ở nhiều nơi, đặc biệt là cuộc xung đột quân sự giữa Nga và Ukraina ở Đông Âu, giữa Israel và Palestine vùng các tổ chức hồi giáo ở Trung Đông diễn biến ngày càng căng thẳng đe dọa tới hòa bình, an ninh khu vực và thế giới. Tuy vậy, hòa bình, hợp tác và phát triển vẫn là mục tiêu hướng tới của các nước, là xu hướng chính trị -xã hội tất yếu của nhân loại, từ đó đặt ra vai trò, trách nhiệm của các quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam.
Bình luận