Giữ vững và nâng cao bản lĩnh chính trị của cán bộ, đảng viên
Công cuộc đổi mới ở nước ta đã thu được những thành tựu đáng khích lệ nhưng đồng thời cũng còn đứng trước những thách thức rất lớn: Tính chất phức tạp của cơ chế thị trường cùng với diễn biến phức tạp của tình hình chính trị trong nước và trên thế giới, nhất là sự chống phá quyết liệt của các thế lực phản động, thù địch đã tác động không nhỏ làm suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên. Tình hình trên đòi hỏi phải không ngừng giáo dục nâng cao bản lĩnh chính trị cho đội ngũ cán bộ, đảng viên để họ làm tốt vai trò “vừa là người lãnh đạo vừa là người đầy tớ trung thành của nhân dân”. Bản lĩnh chính trị đó là: trung thành với Đảng, với sự nghiệp cách mạng, kiên định lập trường chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với CNXH; tin tưởng, ủng hộ và quyết tâm thực hiện thắng lợi đường lối đổi mới của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Vì vậy, tăng cường giáo dục chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, mục tiêu, lý tưởng của Đảng cho toàn thể đội ngũ cán bộ, đảng viên là hết sức cần thiết.
Đảng ta đã xác định chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam hành động của Đảng và của cách mạng Việt Nam. Mục tiêu, lý tưởng của Đảng là độc lập dân tộc gắn liền với CNXH nhằm giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp tiến tới giải phóng triệt để con người mà giai đoạn trước mắt là làm cho dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Đây là những vấn đề có tính nguyên tắc "bất di bất dịch" đã được khẳng định nhiều lần trong các văn kiện và nghị quyết của Đảng, bởi vì, trong khi đại đa số cán bộ, đảng viên trung thành với mục tiêu, lý tưởng của Đảng, kiên định lập trường chủ nghĩa Mác-Lênin, thấm nhuần tư tưởng Hồ Chí Minh, tin tưởng vào sự thành công của công cuộc xây dựng CNXH của Đảng, thì vẫn còn có một bộ phận cán bộ, đảng viên tỏ ra thiếu tin tưởng, thiếu kiên định và thậm chí, không trung thành. Theo kết quả khảo sát của Trung tâm Xã hội học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh tháng 7.2004, một bộ phận cán bộ, đảng viên được hỏi tỏ ra phân vân khi đánh giá về tính đúng đắn của chủ nghĩa Mác - Lênin (3,8%); về tính tất yếu của CNXH (18,2%); về khả năng thực hiện thành công mục tiêu XHCN (18,2%). Thậm chí, có người còn phủ nhận hoàn toàn về tính tất yếu của CNXH (2,8%); về khả năng thực hiện thành công mục tiêu XHCN (4,3%)(1). Trong thực tế vẫn có cán bộ, đảng viên cho rằng, bây giờ chỉ nên nói tư tưởng Hồ Chí Minh, không nên nói chủ nghĩa Mác - Lênin vì đã lỗi thời; lại có người nói độc lập dân tộc gắn liền CNXH bây giờ không còn đúng, chỉ cần độc lập dân tộc thôi là đủ v.v.. Có nhiều nguyên nhân, nhưng một trong những nguyên nhân của hiện tượng trên là những cán bộ, đảng viên đó không được trang bị đầy đủ, đúng đắn về những vấn đề cốt lõi trong hệ thống lý luận chính trị của Đảng, nhất là về chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; về mục tiêu, lý tưởng của Đảng.
Chủ nghĩa Mác - Lênin là lý luận tiên tiến của giai cấp vô sản toàn thế giới. Lý luận này là tiền đề cho sự ra đời các Đảng Cộng sản trên thế giới và đã từng là vũ khí lý luận quan trọng để góp phần vào sự hình thành một hệ thống XHCN trong thế kỷ XX. Ngày nay, mặc dù CNXH đang lâm vào khủng hoảng và thoái trào, song các nước XHCN còn lại vẫn kiên định Chủ nghĩa Mác - Lênin. Đảng Cộng sản Trung Quốc coi chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Mao Trạch Đông, lý luận Đặng Tiểu Bình và thuyết ''Ba đại diện'' là tư tưởng chỉ đạo của Đảng. Đảng Cộng sản Cu Ba lấy tư tưởng cách mạng triệt để của Jose Marti kết hợp với những nguyên tắc cơ bản của Chủ nghĩa Mác - Lênin. ở Việt Nam, ngay từ Hội nghị Trung ương tháng 10 năm 1930, Đảng ta đã xác định Chủ nghĩa Mác - Lênin là cái gốc của Đảng. Đến Đại hội II (1951) Đảng xác định Chủ nghĩa Mác - Lênin là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động của Đảng. Quan điểm đó được giữ vững cho đến tận ngày nay. Chủ nghĩa Mác - Lênin là lý luận tiên tiến không chỉ của giai cấp vô sản mà còn cả của thời đại ngày nay. Không ít học giả tư sản có uy tín đã và đang sống trong xã hội tư bản dự báo rằng, thế kỷ XXI là thế kỷ của học thuyết Mác. Chẳng hạn như: Rắccơ Đêriđa (Jacque Derrida) - nhà triết học nổi tiếng người Pháp, tác giả cuốn "Những bóng ma của Mác"; Rên Dơléclơ (Jean Zlegler) - giáo sư xã hội học, nghị viện Hội đồng dân tộc Thụy Sĩ, tác giả cuốn "Hẹn ngày mai gặp lại C.Mác"; giáo sư, tiến sĩ Chu Nguyên Chương - Việt kiều ở Mỹ, tác giả bài viết "ý nghĩa của một bài học lịch sử" v.v..
Tư tưởng Hồ Chí Minh được hình thành trên cơ sở kế thừa và phát triển các giá trị tốt đẹp của dân tộc Việt Nam và sự tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hoá, tư tưởng của nhân loại. Tư tưởng Hồ Chí Minh là đỉnh cao của truyền thống yêu nước, nhân ái, đoàn kết của dân tộc Việt Nam, là hệ thống quan điểm lý luận chính trị toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả sự vận dụng tài tình và sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cách mạng Việt Nam. Tư tưởng này đã chứng minh tính đúng đắn bằng việc dẫn dắt cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ IX khẳng định: '' Tư tưởng Hồ Chí Minh soi đường cho cuộc đấu tranh của nhân dân ta giành thắng lợi, là tài sản tinh thần to lớn của Đảng và của dân tộc ta''(2). Tư tưởng Hồ Chí Minh không chỉ là tinh hoa, tài sản tinh thần của dân tộc Việt Nam mà còn là tinh hoa của nhân loại. Hồ Chí Minh đã được UNESCO công nhận là danh nhân văn hoá thế giới.
Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là hệ thống lý luận không thể tách rời, đã được khẳng định bản chất cách mạng và khoa học trong quá trình cách mạng Việt Nam, nhất là trong quá trình đổi mới vừa qua. Đại hội VII của Đảng ta lần đầu tiên đã chính thức khẳng định sự song hành gắn kết giữa chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh tạo thành nền tảng tư tưởng vững chắc: ''Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động''(3). Nghị quyết 09 Bộ Chính trị (khóa VII) tiếp tục khẳng định, đó không chỉ là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam của Đảng mà còn của cả cách mạng Việt Nam: "Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động của Đảng ta và của cách mạng Việt Nam"(4). Bởi vì Đảng chính là đại diện cho lợi ích quốc gia, dân tộc và có vai trò lãnh đạo cách mạng bảo vệ lợi ích thiêng liêng đó. Đại hội Đảng lần thứ IX vẫn tiếp tục khẳng định nước ta kiên trì đi trên con đường xã hội chủ nghĩa dựa trên nền tảng tư tưởng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh: ''Đảng và nhân dân ta quyết tâm xây dựng đất nước Việt Nam theo con đường xã hội chủ nghĩa trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lên nin, tư tưởng Hồ Chí Minh''(5). Có thể nói, chủ nghĩa Mác - Lên nin, tư tưởng Hồ Chí Minh là sợi chỉ đỏ xuyên suốt chiều dài lịch sử cách mạng Việt Nam. Thực tế cách mạng Việt Nam cũng chứng minh hùng hồn rằng khi nào chúng ta vận dụng nhuần nhuyễn và sáng tạo hệ thống lý luận này thì gặt hái được nhiều thành quả, và ngược lại. Trong cách mạng dân tộc, dân chủ nhờ vận dụng sáng tạo lý luận này mà chúng ta đã đánh bại các thế lực thực dân, đế quốc và bè lũ tay sai để từ một nước thuộc địa, bị xâm chiếm, chia cắt trở thành một quốc gia độc lập, thống nhất đang trên đà phát triển. Trong thời kỳ cả nước cùng tiến hành cách mạng XHCN, đã có lúc chúng ta vận dụng chưa đúng lý luận chủ nghĩa Mác - Lên nin, tư tưởng Hồ Chí Minh nên đã có giai đoạn rơi vào khủng hoảng kinh tế - xã hội kéo dài (1975-1985). Sau đó cũng chính nhờ sự nhận thức đúng đắn về vai trò nền tảng của lý luận này và sự vận dụng sáng tạo nó trong thực tiễn mà chúng ta đã đưa đất nước thoát ra khỏi khủng hoảng và từng bước phát triển vững chắc.
Cần phải làm cho mỗi cán bộ, đảng viên hiện nay nhận thức sâu sắc về hệ tư tưởng vô sản mà trong đó chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nội dung cốt lõi, làm cơ sở cho tình cảm, niềm tin và hành động cách mạng thiết thực góp phần biến hệ tư tưởng này thành hiện thực trong xã hội ta.
Công tác tuyên truyền, giáo dục cần góp phần làm cho cán bộ, đảng viên hiểu đúng đắn và đầy đủ hơn thực chất học thuyết Mác - Lênin, biết phân biệt những luận điểm có tính khái quát cao, có giá trị bền vững (học thuyết Mác về hình thái kinh tế - xã hội, về giá trị thặng dư, về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân...). Một số luận điểm trước kia đúng nhưng do sự vận động, phát triển của thực tiễn nay không còn phù hợp, cần được bổ sung, phát triển (kinh tế tập trung, chế độ bao cấp...); Một số luận điểm đúng nhưng do ta nhận thức chưa đúng nay cần nhận thức lại (kinh tế thị trường, hàng hoá sức lao động...); thậm chí có cả những vấn đề mới mà từ thời Mác, Lênin chưa hề biết đến hoặc do hạn chế lịch sử chưa thể dự báo được (kinh tế tri thức, văn minh hậu công nghiệp...) Nếu nắm chắc những vấn đề này chắc chắn cán bộ, đảng viên sẽ không còn hoài nghi về tính đúng đắn của chủ nghĩa Mác - Lênin, không bị dao động trước những luận điệu xuyên tạc kiểu như chủ nghĩa Mác – Lênin đã lỗi thời, lạc hậu vì đã có cách đây hơn trăm năm; học thuyết Mác về hình thái kinh tế – xã hội không còn đúng bởi vì nó đã được thay thế bằng học thuyết về ba nền văn minh của các học giả tư sản; sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân theo tinh thần chủ nghĩa Mác - Lênin không còn phù hợp vì trong xã hội tư bản ngày nay công nhân cũng được mua cổ phiếu, góp cổ phần và do đó cũng được phân phối công bằng lợi nhuận; v.v.. Thực chất, trong các nước tư bản phát triển như Nhật, Mỹ... giai cấp công nhân vẫn bị bóc lột giá trị thặng dư lên đến 300%, số cổ phiếu, cổ phần mà họ có được chỉ chiếm tỷ lệ rất nhỏ bé không thể đưa họ lên vị trí làm chủ được.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là sự kết hợp tinh hoa dân tộc và nhân loại, là tài sản tinh thần quí báu của dân tộc thì không có lý do gì chúng ta lại không kế thừa, phát huy tài sản quí báu đó. Trước đây do điều kiện chiến tranh, chúng ta chưa thể đi sâu tìm hiểu để học tập, vận dụng đầy đủ, nay cần được nghiên cứu có hệ thống và truyền bá rộng rãi. Cần phải làm cho mọi cán bộ, đảng viên thấm nhuần tư tưởng của Người theo tinh thần Chỉ thị 23 của Ban Bí thư (khoá IX) là làm cho toàn Đảng, toàn dân, toàn quân nhận thức sâu sắc, nguồn gốc, nội dung , giá trị , vai trò của tư tưởng Hồ Chí Minh để vận dụng sáng tạo tư tưởng của Người. Cần đi sâu nghiên cứu và tuyên truyền những nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh: Mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền CNXH; Kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại; Xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc; Xây dựng nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân; Xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân; Không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân; Xây dựng đạo đức cách mạng cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư; Chăm lo, bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau; Xây dựng đảng trong sạch, vững mạnh, cán bộ, đảng viên vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ trung thành của nhân dân. Từ đó, mọi cán bộ, đảng viên biết kiên trì những nguyên tắc cơ bản nhưng năng động, sáng tạo trong vận dụng vào thực tiễn theo phương châm "dĩ bất biến, ứng vạn biến" của Hồ Chí Minh.
Chỉ khi quán triệt tính chất biện chứng, bản chất cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, thì cán bộ, đảng viên mới vững tin hơn vào con đường XHCN mà Đảng ta đã chọn, tin tưởng hơn vào thắng lợi của sự nghiệp đổi mới do Đảng lãnh đạo và vững vàng hơn trước sự tấn công phá hoại của kẻ địch trong chiến lược "diễn biến hòa bình".
Mục tiêu, lý tưởng của Đảng ta là độc lập dân tộc gắn liền với CNXH. Sự lựa chọn hợp quy luật, hợp lòng người đó của Đảng ta được Hồ Chí Minh khởi thảo trong "Chính cương vắn tắt", được trình bày trong "Luận cương chính trị năm 1930" của Đảng, và được kiểm nghiệm tính đúng đắn trong thực tiễn cách mạng nước ta. Trong quá trình đổi mới, mặc dù tình hình trong nước và thế giới có nhiều biến động, song Đảng vẫn liên tục khẳng định sự lựa chọn đúng đắn đó. Đại hội VI của Đảng cụ thể hoá trong thời kỳ quá độ chúng ta phấn đấu thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh. Sau quá trình thực hiện mục tiêu trên, Đại hội IX bổ sung thêm 2 từ ''dân chủ'' và khẳng định rằng; ''Lợi ích giai cấp công nhân thống nhất với lợi ích toàn dân tộc trong mục tiêu chung là: độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh''(6) . Giáo dục mục tiêu, lý tưởng của Đảng cho cán bộ, đảng viên là làm cho họ nhận thức rằng, chỉ có độc lập thực sự mới tạo điều kiện để xây dựng thành công CNXH, và chỉ có xây dựng CNXH có kết quả thì mới đem lại độc lập bền vững cho Tổ quốc, tự do, hạnh phúc thực sự cho nhân dân. Bác Hồ cũng đã dạy rằng, nước được độc lập mà dân không được hưởng ấm no, tự do, hạnh phúc thì độc lập chẳng có ích gì. Như vậy chỉ có độc lập dân tộc thôi thì chưa đủ mà phải phấn đấu để xây dựng thành công CNXH. Thật vậy, dân có giàu thì nước mới mạnh; nước mạnh càng tạo điều kiện để nhân dân có cuộc sống ấm no, giàu có, và tự do, hạnh phúc chỉ thực sự có được trong một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Thực hiện mục tiêu đó tức là mỗi cán bộ, đảng viên phải tích cực tham gia vào hai nhiệm vụ chiến lược quan trọng là xây dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN. Cụ thể là, với khả năng và điều kiện của mỗi người cần ra sức phát triển kinh tế, chính trị, văn hóa - xã hội; tham gia giữ gìn trật tự, an toàn xã hội, giữ vững độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ Việt Nam; góp phần tích cực vào phong trào vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên toàn thế giới.
Theo quan điểm mácxít, xây dựng CNXH là một sự nghiệp thực chất mang tính chất kinh tế. Lênin đã từng chỉ ra rằng, CNXH có chiến thắng CNTB được hay không chính là ở năng suất lao động. Thực tế đã chứng minh rằng, tính ưu việt của CNXH hiện thực thể hiện rõ nét ở việc phát triển văn hoá, xã hội nhưng về phát triển kinh tế còn nhiều non kém so với CNTB. Việt Nam là một ví dụ, năm 2003, nếu xếp lọai chỉ số phát triển con người (HDI) nước ta đứng thứ 109 nghĩa là loại trung bình của thế giới, nhưng xếp loại về thu nhập bình quân tính theo đầu người (GDP/người/năm), nước ta đứng thứ 132 nghĩa là thuộc nước nghèo. Có thể nói, tụt hậu về kinh tế đang là một trong những nguy cơ lớn đối với độc lập dân tộc và CNXH ở Việt Nam. Nếu tính theo giá trị sức mua của đồng tiền, thu nhập bình quân tính theo đầu người ở Việt Nam năm 2003 kém so với Trung Quốc 2 lần; kém Thái Lan 3,5 lần; kém Hàn Quốc 12 lần. Do vậy, để củng cố vững chắc độc lập dân tộc, xây dựng thành công CNXH, vấn đề trung tâm có ý nghĩa quyết định là thực hiện thành công sự nghiệp CNH, HĐH nhằm trong một vài thập kỷ tới, biến nước ta từ một nước nông nghiệp lạc hậu thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất - kỹ thuật hiện đại. Để có thể biến điều đó thành hiện thực, phải làm cho toàn xã hội trước hết là cán bộ, đảng viên thấm nhuần các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về CNH, HĐH, trong đó phải thực sự coi khoa học - công nghệ cùng với giáo dục - đào tạo là quốc sách hàng đầu. Từ đó, động viên cán bộ, đảng viên nỗ lực hết sức trong hành động tích cực tham gia xoá đói, giảm nghèo, làm giàu chính đáng góp phần phát triển kinh tế cho đất nước.
Trong điều kiện thường xảy ra những biến động khôn lường của đời sống kinh tế, chính trị, tinh thần trong nước cũng như trên thế giới, muốn kiên trì con đường XHCN cần phải kết hợp tăng trưởng kinh tế, đi đôi với giữ vững ổn định chính trị nhằm ngăn chặn nguy cơ chệch hướng XHCN. Thực tiễn công cuộc đổi mới đất nước ta cho thấy, ổn định chính trị và phát triển kinh tế có quan hệ biện chứng, không thể tách rời: ổn định chính trị làm tiền đề để phát triển kinh tế, phát triển kinh tế là điều kiện bảo đảm ổn định chính trị bền vững hơn. Có thể nói, thành tựu nổi bật nhất của đổi mới thời gian qua là giữ được ổn định chính trị và tăng trưởng kinh tế ở mức độ nhất định. Song, ở nước ta hiện nay tốc độ phát triển kinh tế còn chậm và còn tiềm ẩn nhiều nhân tố có thể gây mất ổn định xã hội đòi hỏi cán bộ, đảng viên phải góp phần ngăn chặn, giải quyết. Các nhân tố "tiềm ẩn" đó là: tâm trạng lo lắng và chưa hài lòng về một số lĩnh vực mà Đảng và Nhà nước lãnh đạo và quản lý chưa có hiệu quả như mong muốn (chống tham nhũng và ngăn chặn suy thoái đạo đức, lối sống; chống tệ quan liêu và mất dân chủ; đảm bảo công bằng xã hội; thực hiện chủ trương cổ phần hoá...); tình hình kinh tế, xã hội ngày vẫn còn nhiều khó khăn; có những điểm nóng mới tạm ''yên'' chứ chưa thực sự ''ổn'' (ví dụ như Tây Nguyên). Vì vậy mỗi cán bộ, đảng viên hiện nay cần góp phần thiết thực ngăn chặn, giải quyết những yếu tố ''tiềm ẩn'' trên để góp phần xây dựng một xã hội công bằng hơn, dân chủ hơn, văn minh hơn.
Trong khi đẩy mạnh công cuộc đổi mới, đặt trọng tâm vào nhiệm vụ xây dựng CNXH, đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước, chúng ta không được lơi lỏng nhiệm vụ củng cố an ninh, quốc phòng sẵn sàng bảo vệ Tổ quốc. Kẻ địch vẫn không ngừng thực hiện âm mưu "diễn biến hòa bình" và luôn sẵn sàng gây bạo loạn, lật đổ chế độ XHCN của chúng ta khi có thời cơ. Nguy cơ đối với an ninh, quốc phòng ở nước ta không chỉ ở bên ngoài biên giới quốc gia mà còn tiềm ẩn trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội; không chỉ là giặc ngoài mà còn có cả thù trong. Củng cố an ninh, quốc phòng phải là nhiệm vụ của toàn dân trong đó nòng cốt là cán bộ, đảng viên. Do đó, cần giáo dục an ninh, quốc phòng trong cán bộ, đảng viên, làm cho họ có tri thức và ý thức về lĩnh vực an ninh, quốc phòng; nâng cao cảnh giác với mọi âm mưu và thủ đoạn xâm phạm an ninh quốc gia và độc lập, chủ quyền của đất nước; sẵn sàng tham gia bảo vệ Tổ quốc theo khả năng của mình.
Tăng cường giáo dục chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, mục tiêu, lý tưởng của Đảng không chỉ ở nhận thức mà cả hành động, không chỉ ở lời nói mà cả việc làm sẽ góp phần thiết thực nâng cao bản lĩnh chính trị cho cán bộ, đảng viên, tạo “sự miễn dịch” với những ảnh hưởng, tác động, sự tấn công của các quan điểm, tư tưởng sai trái, thù địch./.
__________________________________
(1) Trung tâm XHH - Học viện CTQGHCM, báo cáo tổng hợp đề tài ''Sự suy thoái tư tưởng chính trị trong đội ngũ cán bộ đảng viên ở nước ta hiện nay - thực trạng và giải pháp”, 7.2004, tr.7-9.
(2), (5), (6) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb. CTQG, H.2001, tr.84, 83, 85-86.
(3) ĐCSVN, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH, NXB ST, H.,1991, tr.21.
(4) Đảng Cộng sản Việt Nam, Nghị quyết 09 - BCT (khóa VII), H., 1995, tr.6.
Nguồn: Bài đăng trên Tạp chí Báo chí và Tuyên tuyền số 6 (tháng 11+12)/2005
Bài liên quan
- Khơi dậy khát vọng phát triển đất nước, tự hào dân tộc cho thanh niên, sinh viên Việt Nam
- Xây dựng lối sống xã hội chủ nghĩa cho sinh viên Thủ đô Hà Nội hiện nay
- Quyết tâm xây dựng Đảng vững mạnh, nước Việt Nam giàu mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh
- Sự tham gia của người dân trong hoạch định chính sách công
- Đề cương về văn hóa Việt Nam năm 1943 khơi nguồn sáng tạo cho nền văn hoá, văn nghệ nhân dân trong thời đại mới
Xem nhiều
- 1 Mạch Nguồn số 56: Dấu ấn về mùa thu lịch sử
- 2 Chuẩn cơ sở giáo dục đại học của Học viện Báo chí và Tuyên truyền: Đánh giá và giải pháp, kiến nghị
- 3 Giáo dục văn hoá doanh nghiệp cho người lao động trong các doanh nghiệp nhỏ và vừa - góc nhìn từ thực tiễn thành phố Hà Nội hiện nay
- 4 Toàn văn phát biểu của đồng chí Tổng Bí Thư, Chủ tịch nước tại Lễ kỷ niệm 75 năm Ngày truyền thống Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh và đón nhận Huân chương Lao động Hạng Nhất
- 5 Tổ chức hoạt động truyền thông tại một số công ty du lịch vừa và nhỏ tại Việt Nam: Những hạn chế, thách thức và giải pháp
- 6 Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh kỷ niệm 75 năm truyền thống và đón nhận Huân chương Lao động hạng Nhất
Liên kết
- Báo điện tử đảng cộng sản việt nam
- Báo nhân dân
- Báo Quân đội nhân dân
- Cổng thông tin điện tử Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Cổng thông tin điện tử Học viện Chính trị quốc gia hồ chí minh
- Tạp chí Cộng sản
- Tạp chí Giáo dục lý luận
- Tạp chí Giáo dục và Xã hội
- Tạp chí Khoa học xã hội và Nhân văn
- Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam
- Tạp chí Lý luận chính trị
- Tạp chí Nghiên cứu con người
- TẠP CHÍ Nghiên cứu dân tộc
- Tạp chí Người làm báo
- Tạp chí Nội chính
- Tạp chí Quản lý Nhà nước
- Tạp chí Tổ chức Nhà nước
- Tạp chí Tuyên giáo
- Tạp chí Xây Dựng Đảng
- Thư viện số Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Trang thông tin điện tử Hội đồng Lý luận Trung ương
Chuẩn cơ sở giáo dục đại học của Học viện Báo chí và Tuyên truyền: Đánh giá và giải pháp, kiến nghị
Chuẩn cơ sở giáo dục đại học là cơ sở để quy hoạch, sắp xếp mạng lưới cơ sở giáo dục đại học; đánh giá và giám sát các điều kiện đảm bảo chất lượng, việc thực hiện trách nhiệm giải trình của các cơ sở giáo dục đại học theo quy định của pháp luật.
Khơi dậy khát vọng phát triển đất nước, tự hào dân tộc cho thanh niên, sinh viên Việt Nam
Khơi dậy khát vọng phát triển đất nước, tự hào dân tộc cho thanh niên, sinh viên Việt Nam
Khơi dậy khát vọng phát triển đất nước là tiếp tục phát huy mạnh mẽ lòng tự hào, tinh thần dân tộc, tình yêu nước, ý chí tự lực, tự cường, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc trong mỗi người dân Việt Nam, đặc biệt là trong thế hệ trẻ, những thanh niên, sinh viên - lực lượng tiên phong trong công cuộc đổi mới, phát triển kinh tế - xã hội, trở thành chủ nhân tương lai của đất nước.
Xây dựng lối sống xã hội chủ nghĩa cho sinh viên Thủ đô Hà Nội hiện nay
Xây dựng lối sống xã hội chủ nghĩa cho sinh viên Thủ đô Hà Nội hiện nay
Thủ đô Hà Nội nghìn năm văn hiến – đầu não chính trị - hành chính quốc gia, trung tâm lớn về văn hóa, khoa học, giáo dục, kinh tế và giao dịch quốc tế của đất nước Việt Nam, là môi trường thuận lợi góp phần hình thành lối sống xã hội chủ nghĩa (XHCN) của một bộ phận không nhỏ sinh viên học tập trên địa bàn Thủ đô. Tuy nhiên, trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội (CNXH), việc xây dựng lối sống XHCN cho sinh viên Thủ đô cũng gặp không ít khó khăn thách thức. Bài viết đánh giá tầm quan trọng và trình bày nội dung của việc xây dựng lối sống XHCN cho sinh viên Thủ đô Hà Nội hiện nay.
Quyết tâm xây dựng Đảng vững mạnh, nước Việt Nam giàu mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh
Quyết tâm xây dựng Đảng vững mạnh, nước Việt Nam giàu mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh
Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam quang vinh, công cuộc đổi mới đất nước nhất định giành thắng lợi to lớn, Tổ quốc ta ngày càng cường thịnh, nhân dân ta ngày càng hạnh phúc, ấm no, đất nước ta ngày càng phát triển phồn vinh, hùng cường, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội. Tạp chí Cộng sản trân trọng giới thiệu bài viết của Đại tướng, GS, TS Tô Lâm, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam với tiêu đề: “Quyết tâm xây dựng Đảng vững mạnh, nước Việt Nam giàu mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”:
Sự tham gia của người dân trong hoạch định chính sách công
Sự tham gia của người dân trong hoạch định chính sách công
Sự tham gia của người dân trong quá trình hoạch định chính sách công là rất quan trọng và đem lại nhiều lợi ích. Khi người dân được tham gia đóng góp ý kiến, các chính sách công sẽ phù hợp hơn với nhu cầu và thực tế của cộng đồng. Điều này sẽ giúp nâng cao hiệu quả triển khai chính sách, tăng cường sự đồng thuận và ủng hộ của người dân. Sự tham gia của người dân mang lại sự minh bạch và trách nhiệm giải trình cao hơn cho chính phủ. Các quyết định chính sách được đưa ra dựa trên những thông tin và ý kiến đóng góp từ nhiều phía, giúp chính phủ ra quyết định sáng suốt hơn. Đồng thời, người dân cũng có cơ hội hiểu rõ hơn về các chính sách và có thể giám sát việc thực thi chính sách. Tuy nhiên, việc tham gia cũng cần được thực hiện một cách có hệ thống và hiệu quả. Chính phủ cần xây dựng các cơ chế tham gia phù hợp, đảm bảo sự đại diện đầy đủ của các nhóm dân cư khác nhau, và có biện pháp tiếp thu, xem xét các ý kiến đóng góp một cách công bằng và khách quan; học hỏi kinh nghiệm từ một số nước đã đi trước.
Bình luận