Mô hình kinh tế tổng quát thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam trong cuốn sách của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng
Đại hội XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam đã chỉ ra những nội hàm cơ bản về nền KTTT định hướng XHCN: “Đó là nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế, vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước. Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó: kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế tập thể, kinh tế hợp tác không ngừng được củng cố, phát triển; kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng; kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài được khuyến khích phát triển phù hợp với chiến lược, quy hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội”(1).
Văn kiện Đại hội XIII của Đảng đã bổ sung, phát triển một số quan điểm mới về nền KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam:
Thứ nhất, kế thừa những nội dung về phát triển KTTT định hướng XHCN trong Văn kiện Đại hội XII, Báo cáo chính trị Đại hội XIII nhấn mạnh cần phải tiếp tục thống nhất và nâng cao nhận thức về KTTT định hướng XHCN. Điểm mới của Văn kiện Đại hội XIII là ngay từ đầu đã nêu rõ nội hàm của KTTT định hướng XHCN của nước ta, trên cơ sở đó, nhấn mạnh những nội dung quan trọng để thống nhất nhận thức và thực hiện.
Thứ hai, Đại hội XIII nêu rõ mối quan hệ chặt chẽ giữa Nhà nước, thị trường và xã hội. Trong đó, nhân tố xã hội được bổ sung thêm, đồng thời, nêu rõ vai trò của Nhà nước, thị trường và xã hội trong mối quan hệ chung.
Thứ ba, Đại hội XIII xác định hoàn thiện đồng bộ thể chế KTTT nói chung, tập trung tháo gỡ những điểm nghẽn đang cản trở sự phát triển KTTT của nước ta và nâng cao chất lượng thể chế. Cụ thể là hoàn thiện, nâng cao chất lượng thể chế KTTT định hướng XHCN, giải quyết tốt hơn mối quan hệ giữa Nhà nước, thị trường và xã hội; nâng cao chất lượng, hiệu quả quản trị quốc gia, xây dựng và thực thi pháp luật, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch.
Thứ tư, xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ; nâng cao hiệu quả hội nhập kinh tế quốc tế. Điểm mới nổi bật ở nội dung này là xác định rõ mối quan hệ biện chứng giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế.
Trong cuốn sách Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khẳng định: “Đưa ra quan niệm phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một đột phá lý luận rất cơ bản và sáng tạo của Đảng ta, là thành quả lý luận quan trọng qua 35 năm thực hiện đường lối đổi mới, xuất phát từ thực tiễn Việt Nam và tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm của thế giới”(2).
Mô hình kinh tế tổng quát trong TKQĐ lên CNXH ở Việt Nam có thể khái quát ở ba điểm sau:
Một là, tuân thủ những đặc trưng của KTTT, bởi vì KTTT là một phương thức, một kiểu tổ chức kinh tế mà xã hội loài người sáng tạo ra, là thành quả của văn minh nhân loại, có thể tồn tại ở các hình thái kinh tế - xã hội khác nhau, các chế độ chính trị - xã hội khác nhau. KTTT ra đời, phát triển phụ thuộc vào các điều kiện như phân công lao động xã hội, sự phát triển của lực lượng sản xuất... Tuân theo các quy luật kinh tế khách quan như: quy luật giá trị, cạnh tranh, cung cầu, lưu thông tiền tệ... Tạo động lực phát triển kinh tế, phát triển lực lượng sản xuất, nâng cao năng suất lao động xã hội. Thực tiễn thế giới đã minh chứng, nhiều quốc gia không theo chế độ chính trị - xã hội TBCN vẫn sử dụng KTTT làm phương tiện tạo lập cơ sở kinh tế, sức mạnh kinh tế cho sự phát triển của quốc gia như: Trung Quốc, Lào...
Hai là, giữa KTTT và định hướng XHCN thể hiện hai khía cạnh chủ yếu là sử dụng “phương tiện” KTTT để đạt “mục đích” định hướng XHCN của nền KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam. Về mặt lý luận cũng như kinh nghiệm thực tiễn của thế giới đã được kiểm chứng và khẳng định, KTTT là “phương tiện tốt nhất” tạo lập cơ sở kinh tế, sức mạnh kinh tế cho sự phát triển của mỗi quốc gia. Giữa định hướng XHCN và KTTT ở Việt Nam không có sự loại trừ, mâu thuẫn nhau mà là sự dung hợp, gắn kết, hỗ trợ lẫn nhau trong chỉnh thể thống nhất “KTTT định hướng XHCN”. Điều đó có nghĩa rằng, tính định hướng XHCN của nền KTTT hay tính định hướng trong phát triển nền KTTT là hoàn toàn đúng đắn, phản ánh mục tiêu, phương thức phát triển, phân phối của cơ chế quản lý kinh tế ở nước ta; nhờ đó khai thác tốt nhất mặt tích cực của thị trường, đồng thời khắc phục và hạn chế mức thấp nhất những khuyết tật, rủi ro của nó nhằm hướng đến các mục tiêu của CNXH.
Ba là, KTTT định hướng XHCN là kiểu tổ chức kinh tế xã hội phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh lịch sử của Việt Nam. Trước hết, Việt Nam đi lên CNXH từ xuất phát điểm rất thấp về kinh tế và con đường xây dựng CNXH là con đường quá độ, trải qua nhiều giai đoạn, bước đi khác nhau. Tất yếu khách quan Việt Nam phải phát triển KTTT với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế; trong đó có sở hữu tư nhân, thành phần kinh tế tư nhân và các hình thức sở hữu hỗn hợp khác còn phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Tất cả các thành phần kinh tế trong nền KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền XHCN, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo.
Đột phá lý luận về mô hình kinh tế tổng quát trong TKQĐ lên CNXH ở Việt Nam trong cuốn sách của Tổng Bí thư được thể hiện ở một số điểm sau:
Các nền KTTT hiện đại trên thế giới hiện nay đều có sự kết hợp giữa cơ chế thị trường và quản lý, điều tiết của nhà nước. Nhà nước vừa bảo đảm, tôn trọng, tạo môi trường hoạt động cho các quy luật KTTT, vừa hạn chế, khắc phục những tác động tiêu cực, hay còn gọi là các khuyết tật của nền KTTT, giữ môi trường ổn định cho phát triển kinh tế và hướng sự phát triển kinh tế vào các mục tiêu xã hội, bảo đảm công bằng xã hội, quan tâm đến an sinh xã hội. Tuy nhiên, trong chế độ TBCN thì bản chất của nền kinh tế TBCN là phục vụ cho lợi ích của giai cấp tư sản, không phải vì lợi ích của đại đa số nhân dân lao động. Chế độ chiếm hữu tư nhân TBCN về tư liệu sản xuất làm gia tăng mâu thuẫn đối kháng trong xã hội TBCN, điều đó làm những tác động tiêu cực của nền KTTT ngày càng gay gắt và sâu sắc hơn.
“Các phong trào phản kháng xã hội bùng nổ mạnh mẽ tại nhiều nước tư bản phát triển trong thời gian qua càng làm bộc lộ rõ sự thật về bản chất của các thể chế chính trị tư bản chủ nghĩa. Thực tế là các thiết chế dân chủ theo công thức “dân chủ tự do” mà phương Tây ra sức quảng bá, áp đặt lên toàn thế giới không hề bảo đảm để quyền lực thực sự thuộc về nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân - yếu tố bản chất nhất của dân chủ. Hệ thống quyền lực đó vẫn chủ yếu thuộc về thiểu số giàu có và phục vụ cho lợi ích của các tập đoàn tư bản lớn. Một bộ phận rất nhỏ, thậm chí chỉ là 1% dân số, nhưng lại chiếm giữ phần lớn của cải, tư liệu sản xuất, kiểm soát tới 3/4 nguồn tài chính, tri thức và các phương tiện thông tin đại chúng chủ yếu và do đó chi phối toàn xã hội. Đây chính là nguyên nhân sâu xa dẫn đến phong trào “99 chống lại 1” diễn ra ở Mỹ đầu năm 2011 và nhanh chóng lan rộng ở nhiều nước tư bản”(3).
Từ thực tiễn quá trình đổi mới, nền KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam về cơ bản đã hội đủ các yếu tố của nền KTTT hiện đại theo các chuẩn mực quốc tế, như đa dạng các hình thức sở hữu, các thành phần kinh tế, tự do sản xuất, kinh doanh, lưu thông những hàng hóa mà pháp luật không cấm, các chủ thể kinh tế cạnh tranh bình đẳng, hệ thống các loại thị trường phát triển ngày càng đồng bộ...; Nhà nước đóng vai trò quản lý, điều tiết nền kinh tế bằng luật pháp, chính sách, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và sử dụng nguồn lực kinh tế của nhà nước, không can thiệp vào hoạt động sản xuất, kinh doanh của các chủ thể kinh tế, ổn định kinh tế vĩ mô, hạn chế, khắc phục khuyết tật của cơ chế thị trường...
Trong điều kiện đó, nền kinh tế được vận hành theo quy luật KTTT (quy luật cạnh tranh, quy luật giá cả, quy luật cung - cầu...); thị trường đóng vai trò trực tiếp điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hóa, điều tiết hoạt động của các chủ thể kinh tế, huy động và phân bổ các nguồn lực của sản xuất... Các yếu tố bảo đảm định hướng XHCN của nền KTTT gắn với vai trò quản lý của Nhà nước pháp quyền XHCN do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo để hạn chế, khắc phục những tác động tiêu cực của cơ chế thị trường, bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế, ổn định xã hội, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ tài nguyên thiên nhiên và môi trường, phát triển nhanh và bền vững đất nước...
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khẳng định: “Chúng ta cần một xã hội mà trong đó sự phát triển là thực sự vì con người, chứ không phải vì lợi nhuận mà bóc lột và chà đạp lên phẩm giá con người. Chúng ta cần sự phát triển về kinh tế đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội, chứ không phải gia tăng khoảng cách giàu nghèo và bất bình đẳng xã hội. Chúng ta cần một xã hội nhân ái, đoàn kết, tương trợ lẫn nhau, hướng tới các giá trị tiến bộ, nhân văn, chứ không phải cạnh tranh bất công, “cá lớn nuốt cá bé”, vì lợi ích vị kỷ của một số ít cá nhân và các phe nhóm. Chúng ta cần sự phát triển bền vững, hài hòa với thiên nhiên để bảo đảm môi trường sống trong lành cho các thế hệ hiện tại và tương lai, chứ không phải để khai thác, chiếm đoạt tài nguyên, tiêu dùng vật chất vô hạn độ và hủy hoại môi trường”(4).
Do đó, nội dung và phương thức quản lý của Nhà nước pháp quyền XHCN do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo không mâu thuẫn, đối lập, không cản trở hoạt động của các quy luật KTTT, mà tạo điều kiện phát huy mặt tích cực, hạn chế, khắc phục mặt tiêu cực của KTTT, để nền kinh tế phát triển nhanh, bền vững, hướng đến mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. “Và, chúng ta cần một hệ thống chính trị mà quyền lực thực sự thuộc về nhân dân, do nhân dân và phục vụ lợi ích của nhân dân, chứ không phải chỉ cho một thiểu số giàu có. Phải chăng những mong ước tốt đẹp đó chính là những giá trị đích thực của chủ nghĩa xã hội và cũng chính là mục tiêu, là con đường mà Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng ta và nhân dân ta đã lựa chọn và đang kiên định, kiên trì theo đuổi”(5).
Các thế lực thù địch, phần tử cơ hội chỉ căn cứ vào việc phát triển kinh tế tư nhân và điều tiết kinh tế bằng các quy luật của thị trường trong TKQĐ đi lên CNXH để quy chụp Việt Nam đi theo con đường TBCN là sai lầm, bóp méo bản chất, nội dung xây dựng CNXH ở Việt Nam trong từng giai đoạn cũng như trong cả chặng đường. Để xác định một hình thài kinh tế - xã hội là “xã hội chủ nghĩa” hay “tư bản chủ nghĩa” không thể dựa vào kinh tế tư nhân hay sự điều tiết của thị trường, mà là mục tiêu phát triển nền kinh tế; bản chất, nguyên tắc hoạt động của nền kinh tế; quá trình hình thành, phát triển của nền kinh tế...
Nền KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam đang trong TKQĐ lên CNXH, tất yếu tồn tại nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế nhằm huy động mọi nguồn lực để phát triển, trong đó có kinh tế tư nhân. Đảng ta đã xác định kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng, được khuyến khích phát triển ở tất cả các ngành, lĩnh vực mà pháp luật không cấm, bình đẳng trước pháp luật với các thành phần kinh tế khác. Tạo mọi điều kiện phát triển kinh tế tư nhân nhưng không đồng nhất với “tư nhân hóa” nền kinh tế trong nền kinh tế nước ta, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, là công cụ, lực lượng vật chất quan trọng để Nhà nước ổn định kinh tế vĩ mô, định hướng, điều tiết, dẫn dắt, thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội, giữ vững định hướng XHCN trong phát triển nền KTTT.
“Một đặc trưng cơ bản, một thuộc tính quan trọng của định hướng xã hội chủ nghĩa trong kinh tế thị trường ở Việt Nam là phải gắn kinh tế với xã hội, thống nhất chính sách kinh tế với chính sách xã hội, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước, từng chính sách và trong suốt quá trình phát triển. Điều đó có nghĩa là: không chờ đến khi kinh tế đạt tới trình độ phát triển cao rồi mới thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, càng không “hy sinh” tiến bộ và công bằng xã hội để chạy theo tăng trưởng kinh tế đơn thuần.
Trái lại, mỗi chính sách kinh tế đều phải hướng tới mục tiêu phát triển xã hội; mỗi chính sách xã hội phải nhằm tạo ra động lực thúc đẩy phát triển kinh tế; khuyến khích làm giàu hợp pháp phải đi đôi với xóa đói, giảm nghèo bền vững, chăm sóc những người có công, những người có hoàn cảnh khó khăn. Đây là một yêu cầu có tính nguyên tắc để bảo đảm sự phát triển lành mạnh, bền vững, theo định hướng xã hội chủ nghĩa”(6). Do đó, tuyệt đối không có cái gọi là “xoay trục” hay “chuyển hướng” trong phát triển KTTT ở Việt Nam như luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch.
Mặt khác, việc xác định một nền kinh tế định hướng XHCN hay TBCN không chỉ dựa vào sở hữu tư nhân, kinh tế tư nhân hay sự điều tiết của thị trường mà còn phải dựa vào mục đích cuối cùng phát triển nền kinh tế là vì ai, giai cấp, tầng lớp nào; nguyên tắc hoạt động của nền kinh tế đó là gì; quá trình hình thành, phát triển nền kinh tế đó như thế nào; ai là người chủ thực sự của nền kinh tế đó?... Do vậy, giữa nền KTTT TBCN và nền KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam có sự khác nhau căn bản và điểm khác biệt rõ nhất là, trong nền KTTT TBCN, người làm chủ là giới chủ tư bản, là giai cấp tư sản, còn trong nền KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam, người làm chủ là toàn thể nhân dân có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền XHCN, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, nhằm mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
“Những thành tựu đổi mới tại Việt Nam đã chứng minh rằng, phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa không những có hiệu quả tích cực về kinh tế mà còn giải quyết được các vấn đề xã hội tốt hơn nhiều so với các nước tư bản chủ nghĩa có cùng mức phát triển kinh tế. Những kết quả, thành tích đặc biệt đạt được của Việt Nam trong bối cảnh đại dịch Covid-19 và suy thoái kinh tế toàn cầu bắt đầu từ đầu năm 2020 được nhân dân và bạn bè quốc tế ghi nhận, đánh giá cao, thể hiện tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta”(7).
Thực tế đó đã chứng minh và khẳng định sự đúng đắn, khoa học, hiệu quả của việc sử dụng KTTT định hướng XHCN làm “phương tiện” để xây dựng CNXH ở Việt Nam trên cả phương diện lý luận và thực tiễn. Những thành tựu này tạo tiền đề, điều kiện, nền tảng quan trọng để nước ta tiếp tục công cuộc đổi mới và phát triển trong thời gian tới; khẳng định chủ trương, quan điểm, nhận thức về phát triển nền KTTT định hướng XHCN; đặc biệt là những đột phá lý luận về mô hình kinh tế tổng quát trong TKQĐ đi lên CNXH ở Việt Nam qua cuốn sách của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng.
____________________________________________
(1) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, T.1, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr.128-129.
(2), (3), (4), (5), (6), (7) Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2022, tr.25, 20-21, 21, 21-22, 26-27, 33.
Nguồn: Bài đăng trên Tạp chí Lý luận chính trị điện tử ngày 17.7.2022
Bài liên quan
- Phát huy vai trò của tổ chức đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh trong quản lý nhà nước về văn hóa dân tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn
- Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao – Nhân tố then chốt trong quá trình xây dựng lực lượng sản xuất mới ở Việt Nam hiện nay
- Quản lý đối với hội ở Việt Nam: Khung pháp lý và yếu tố tác động đến hoạt động của hội
- Bảo đảm chủ quyền quốc gia trên không gian mạng nhằm phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia trong kỷ nguyên mới
- Phát huy vai trò của người có uy tín ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số trong phong trào “Toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc”
Xem nhiều
-
1
[Video] Dấu ấn Cách mạng Tháng Tám qua những hiện vật lịch sử
-
2
Tổng thống Vladimir Putin: Bốn nhiệm kỳ và hành trình phục hưng nước Nga
-
3
Tác động của quảng cáo sản phẩm trên mạng xã hội đến hành vi mua sắm của học sinh trung học phổ thông Hà Nội
-
4
Thông điệp “Ý Đảng, Lòng Dân” trong các chương trình xây dựng Đảng trên truyền hình
-
5
[Ảnh] Đại hội đại biểu Đảng bộ Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh lần thứ XV, nhiệm kỳ 2025-2030 (Phiên thứ nhất)
-
6
Phát huy vai trò của báo chí trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng
Liên kết
- Báo điện tử đảng cộng sản việt nam
- Báo nhân dân
- Báo Quân đội nhân dân
- Cổng thông tin điện tử Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Cổng thông tin điện tử Học viện Chính trị quốc gia hồ chí minh
- Tạp chí Cộng sản
- Tạp chí Giáo dục lý luận
- Tạp chí Giáo dục và Xã hội
- Tạp chí Khoa học xã hội và Nhân văn
- Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam
- Tạp chí Lý luận chính trị
- Tạp chí Nghiên cứu con người
- TẠP CHÍ Nghiên cứu dân tộc
- Tạp chí Người làm báo
- Tạp chí Nội chính
- Tạp chí Quản lý Nhà nước
- Tạp chí Tổ chức Nhà nước
- Tạp chí Tuyên giáo
- Tạp chí Xây Dựng Đảng
- Thư viện số Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Trang thông tin điện tử Hội đồng Lý luận Trung ương
Phát huy vai trò của báo chí trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng
Chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng của Đảng, “kim chỉ nam” dẫn dắt dân tộc Việt Nam vượt qua mọi khó khăn, thử thách, đưa sự nghiệp cách mạng đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Trong bối cảnh mới, công cuộc bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng là cuộc chiến của lý luận, để bảo vệ lý tưởng và củng cố niềm tin vào sự nghiệp cách mạng của dân tộc. Trước sự chống phá của các thế lực thù địch ngày càng gia tăng cả về quy mô lẫn mức độ tinh vi, nhiệm vụ bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trở nên cấp bách hơn; trong đó, báo chí đóng vai trò hết sức quan trọng.
Phát huy vai trò của tổ chức đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh trong quản lý nhà nước về văn hóa dân tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn
Phát huy vai trò của tổ chức đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh trong quản lý nhà nước về văn hóa dân tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn
Tỉnh Lạng Sơn, nơi có đông đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống, giữ vị trí chiến lược trong công tác bảo tồn và phát huy văn hóa các dân tộc thiểu số. Trong thời gian qua, tổ chức Đoàn TNCS Hồ Chí Minh tỉnh Lạng Sơn đã có những đóng góp tích cực vào quá trình quản lý nhà nước về văn hóa DTTS thông qua các hoạt động tuyên truyền, giáo dục, phong trào thanh niên và tham gia giám sát chính sách. Những kết quả đạt được bước đầu thể hiện vai trò nhất định của Đoàn trong việc kết nối giữa chính quyền và thanh niên DTTS. Tuy nhiên, thực tiễn cũng cho thấy nhiều hạn chế như thiếu cơ chế phối hợp, chưa được thể chế hóa vai trò, năng lực cán bộ còn bất cập và thiếu nguồn lực bảo đảm hoạt động bền vững. Trên cơ sở phân tích thực trạng, bài viết tập trung làm rõ vai trò của tổ chức Đoàn trong quản lý nhà nước về văn hóa DTTS tại Lạng Sơn, đồng thời đề xuất một số giải pháp có tính khả thi nhằm phát huy hiệu quả hơn nữa vai trò này trong bối cảnh chuyển đổi mô hình quản trị hiện nay, góp phần thúc đẩy phát triển bền vững văn hóa vùng dân tộc.
Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao – Nhân tố then chốt trong quá trình xây dựng lực lượng sản xuất mới ở Việt Nam hiện nay
Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao – Nhân tố then chốt trong quá trình xây dựng lực lượng sản xuất mới ở Việt Nam hiện nay
Trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứTư và quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế tri thức diễn ra mạnh mẽ, việc xây dựng lực lượng sản xuất mới trở thành yêu cầu tất yếu đối với sự phát triển bền vững của Việt Nam. Trong đó, nguồn nhân lực chất lượng cao có vai trò then chốt, quyết định khả năng tiếp thu, ứng dụng và sáng tạo khoa học – công nghệ, thúc đẩy năng suất lao động, đổi mới mô hình tăng trưởng và nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia. Bài viết tập trung làm rõ vấn đề phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao hiện nay - nhân tố then chốt trong quá trình xây dựng lực lượng sản xuất mới ở nước ta.
Quản lý đối với hội ở Việt Nam: Khung pháp lý và yếu tố tác động đến hoạt động của hội
Quản lý đối với hội ở Việt Nam: Khung pháp lý và yếu tố tác động đến hoạt động của hội
Sự hình thành và phát triển của các hội là một phương thức cần thiết để các cá nhân và nhóm xã hội khác nhau có thể bày tỏ tiếng nói, ý kiến của mình trước cộng đồng xã hội, tạo sự hiểu biết, hiệp thương và đồng thuận nhằm giữ gìn sự ổn định xã hội. Ở Việt Nam, quyền lập hội của công dân đã được Hiến pháp quy định và trong thực tế Nhà nước đã tạo điều kiện cho hội hoạt động, phát triển qua việc ban hành nhiều văn bản pháp luật điều chỉnh việc tổ chức và hoạt động của các hội. Bài viết đề cập đến khung pháp lý và yếu tố tác động đến hoạt động của các hội trong bối cảnh phát triển ở Việt Nam hiện nay.
Bảo đảm chủ quyền quốc gia trên không gian mạng nhằm phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia trong kỷ nguyên mới
Bảo đảm chủ quyền quốc gia trên không gian mạng nhằm phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia trong kỷ nguyên mới
Bảo đảm chủ quyền quốc gia trên không gian mạng nhằm phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia có ý nghĩa to lớn, là yếu tố then chốt để thúc đẩy sự phát triển đất nước. Việc xây dựng và duy trì không gian mạng an toàn, ổn định và tự chủ sẽ là nền tảng vững chắc cho sự phát triển bền vững, cho sự vươn mình của dân tộc Việt Nam trong thời đại ngày nay.
Bình luận