Một số kiến nghị nâng cao hiệu quả thi hành án dân sự trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư
Tác động của Cách mạng công nghiệp 4.0 đến thi hành án dân sự tại Việt Nam
Bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự là một trong những nội dung quan trọng đã được ghi nhận trong Hiến pháp năm 2013(1). Trên tinh thần của Hiến pháp năm 2013, Luật Thi hành án dân sự năm 2008 (sửa đổi, bổ sung năm 2014(2) quy định về cách thức tổ chức thi hành bản án, quyết định dân sự để vừa bảo đảm giữ gìn, bảo vệ kỷ cương, pháp chế xã hội chủ nghĩa, vừa hướng đến mục tiêu quan trọng là bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự. Hiện nay, thi hành án dân sự “là hoạt động quan trọng để các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của tòa án và các cơ quan tài phán được thực hiện trên thực tế, góp phần giữ vững kỷ cương phép nước, bảo đảm công bằng, thực thi công lý và củng cố lòng tin của người dân”(3). Như vậy, về bản chất, “thi hành án dân sự là quá trình thực hiện bản án, quyết định dân sự (bao gồm các lĩnh vực dân sự, kinh doanh, thương mại, lao động, hôn nhân và gia đình) của tòa án hoặc các chủ thể có thẩm quyền ra các phán quyết khác”(4).
Trong giai đoạn phát triển hiện nay, “cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 mang đến cho Việt Nam nhiều cơ hội để phát triển, trong đó, đặc biệt các thành tựu của khoa học - công nghệ đã tác động và ảnh hưởng rất lớn đến đời sống xã hội”(5). Nghiên cứu cho thấy, tại Việt Nam, kể từ khi “Internet xuất hiện, hình thành một môi trường đặc biệt - môi trường kỹ thuật số”(6). Nhờ vào các thành tựu của cách mạng khoa học, công nghệ, hầu hết các lĩnh vực liên quan đến quản lý nhà nước tại Việt Nam nói chung và lĩnh vực thi hành án dân sự nói riêng đã có nhiều thay đổi quan trọng.
Trước đây, tại các cơ quan thi hành án dân sự, việc tổng kết số liệu thi hành án hằng năm và lập các báo cáo thống kê luôn mất khá nhiều công sức, rắc rối, phức tạp và thường chiếm nhiều thời gian. Không những vậy, việc tiến hành thủ công với những cách tính toán cơ học có thể dẫn tới trường hợp xảy ra nhầm lẫn, sai sót, dẫn đến hiệu quả công việc thấp. Đó cũng chính là lý do, việc tổng kết, lập báo cáo được đánh giá là một trong những nhiệm vụ nặng nề, phức tạp của cơ quan thi hành án dân sự.
Tuy nhiên, nhờ việc triển khai hệ thống phần mềm công nghệ thông tin, việc lập các báo cáo, thống kê trở nên đơn giản, dễ dàng, thuận tiện và nhanh chóng hơn trước. Về cơ bản, các cán bộ, công chức của cơ quan thi hành án dân sự chỉ cần nhập vào máy tính các số liệu và nhanh chóng có được kết quả với độ chính xác gần như tuyệt đối. Hiệu quả công việc cũng cao hơn trước do hạn chế được sự nhầm lẫn. Cán bộ, công chức của cơ quan thi hành án dân sự đã rút ngắn được khá nhiều thời gian, công sức cho việc lập các báo cáo thống kê, tổng kết; nhờ đó có thêm thời gian, công sức để tập trung giải quyết những nhiệm vụ quan trọng khác của công tác thi hành án dân sự.
Đối với công tác chuyển giao các loại văn bản, tài liệu, giấy tờ, thông báo giữa cơ quan thi hành án dân sự với nhau hay giữa cơ quan thi hành án dân sự với tòa án nhân dân, viện kiểm sát nhân dân và các cơ quan, đơn vị nhà nước khác cũng trở nên đơn giản, nhanh chóng và thuận tiện hơn. Đây là một trong những nhiệm vụ rất quan trọng đối với tố tụng dân sự và thi hành án dân sự: “Tòa án, viện kiểm sát và cơ quan thi hành án dân sự có nghĩa vụ cấp, tống đạt hoặc thông báo các văn bản tố tụng cho những người liên quan đến vụ việc dân sự”(7).
Trước đây, việc chuyển giao các loại văn bản, tài liệu, giấy tờ giữa các cơ quan trên đều phải tiến hành thủ công, như gửi qua đường bưu điện, qua nhân viên chuyên vận chuyển các loại công văn giữa các cơ quan, đơn vị. Thế nhưng, giả thiết nếu khoảng cách địa lý quá xa hoặc do có sự cản trở bởi lũ lụt, thiên tai thì việc chuyển giao các loại tài liệu, giấy tờ giữa các cơ quan, đơn vị sẽ rất khó khăn và khó có thể thực hiện nhanh chóng, kịp thời. Trong khi đó, “đối với hoạt động tố tụng, cấp, tống đạt, thông báo văn bản tố tụng đem lại sự thông suốt cho cả quá trình tố tụng, chúng là các mắt xích quan trọng để tiến hành các trình tự tố tụng, chỉ cần các mắt xích đó “lỗi” hoặc “đứt” thì công tác tố tụng bị đình trệ, tắc nghẽn”(8).
Nhờ vào các thành tựu của cách mạng khoa học, công nghệ, việc liên lạc, trao đổi giữa các cơ quan trên diễn ra rất nhanh chóng, đơn giản và luôn có thể thực hiện được. Từ đó, ít nhiều hỗ trợ cho các cơ quan trên đỡ mất thời gian, công sức để tiến hành các hoạt động cấp, tống đạt, thông báo các loại công văn, giấy tờ và tài liệu liên quan đến quá trình xét xử giải quyết tranh chấp và thi hành án dân sự. Bên cạnh đó, hiện nay, chủ trương quan trọng của Đảng và Nhà nước là xã hội hóa thi hành án dân sự với sự khôi phục chế định pháp luật về thừa phát lại cũng đã góp phần quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả của công tác xét xử giải quyết tranh chấp và thi hành án dân sự. Trong đó, thừa phát lại được quyền tiến hành các hoạt động “tống đạt giấy tờ, hồ sơ, tài liệu cho tòa án, viện kiểm sát nhân dân, cơ quan thi hành án dân sự”(9). Khi liên lạc, trao đổi với các cơ quan trên, thừa phát lại cũng rất cần sự hỗ trợ từ các thiết bị công nghệ như máy tính, máy in, điện thoại, Internet… Do đó, có thể thấy rằng, những thành tựu quan trọng của khoa học - công nghệ đã và đang tác động tích cực đến hoạt động thi hành án dân sự tại Việt Nam.
Hoạt động ủy thác thi hành án dân sự là một trong những hoạt động thường xuyên diễn ra giữa các cơ quan thi hành án dân sự. Về nguyên tắc, thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự phải ủy thác thi hành án cho cơ quan thi hành án dân sự nơi người phải thi hành án có tài sản, làm việc, cư trú hoặc có trụ sở(10). Bởi lẽ, không phải mọi trường hợp, cơ quan thi hành án dân sự đều có thể tự giải quyết mọi vấn đề liên quan đến thi hành án. Trong rất nhiều trường hợp, để thuận tiện, dễ dàng và phù hợp với tình hình, hoàn cảnh của vụ, việc thi hành án, các cơ quan thi hành án dân sự phải ủy thác thi hành án cho nhau.
Trong quá trình ủy thác thường có rất nhiều vấn đề cần liên tục trao đổi để kịp thời nắm bắt tình hình giữa các cơ quan thi hành án. Do đó, nếu chỉ giao tiếp qua các công văn, giấy tờ thông qua nhân viên giao nhận hoặc bưu điện thì có lẽ việc thi hành án sẽ gặp rất nhiều cản trở, khó khăn, rắc rối, phức tạp và mất khá nhiều thời gian. Việc thi hành án càng có thể tiến hành nhanh chóng, khẩn trương bao nhiêu càng có thể hạn chế tình trạng người phải thi hành án tìm mọi cách tẩu tán, che giấu tài sản bấy nhiêu. Nói cách khác, trong rất nhiều trường hợp, hiệu quả thi hành án phụ thuộc vào sự khẩn trương, nhanh chóng, kịp thời của cơ quan thi hành án dân sự.
Nhờ có các thiết bị truyền thông hiện đại, việc liên lạc, trao đổi và thông tin giữa các cơ quan thi hành án, cho dù ở khoảng cách địa lý rất xa, luôn có thể liên tục, kịp thời và nhanh chóng. Khi có những vấn đề mới phát sinh trong quá trình tổ chức thi hành án thì cơ quan thi hành án nơi nhận ủy thác sẽ lập tức trao đổi với cơ quan thi hành án nơi ủy thác, để từ đó, kịp thời tìm ra cách giải quyết phù hợp với diễn biến của tình hình, hoàn cảnh. Nhờ thông tin được trao đổi thường xuyên, liên tục, kịp thời mà các cơ quan thi hành án dân sự có thể hỗ trợ, phối hợp thuận lợi với nhau để việc ủy thác thi hành án diễn ra hiệu quả và đúng pháp luật.
Về quá trình liên lạc, trao đổi giữa cơ quan thi hành án dân sự với các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan đến quá trình tổ chức thi hành án, như đã biết, thi hành án dân sự thường là quá trình khó khăn, rắc rối, phức tạp và luôn có sự liên quan đến khá nhiều chủ thể. Nói cách khác, đó không chỉ là quá trình thực hiện nội dung của bản án, quyết định liên quan trực tiếp đến quyền, nghĩa vụ của người được thi hành án, người phải thi hành án hay người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan mà còn có sự liên quan đến rất nhiều chủ thể, như tổ chức tín dụng nơi trực tiếp quản lý tài khoản của người phải thi hành án hoặc công ty tài chính, cửa hàng cầm đồ, người đang trực tiếp nắm giữ tài sản của người phải thi hành án, cơ quan chi trả tiền lương, tiền lương hưu… Do đó, để có thể thi hành theo đúng nội dung của bản án, quyết định, cơ quan thi hành án dân sự luôn cần có sự chung tay, phối hợp, hỗ trợ từ rất nhiều chủ thể liên quan đến thi hành án.
Trước đây, quá trình liên lạc, trao đổi giữa cơ quan thi hành án với các chủ thể trên khá mất thời gian vì chủ yếu được tiến hành qua việc các chấp hành viên ra các quyết định hay các yêu cầu gửi đến các chủ thể có liên quan đến thi hành án. Ngoài ra, có những trường hợp khi cơ quan thi hành án dân sự cần khẩn trương, nhanh chóng liên lạc với các cơ quan, tổ chức, cá nhân đang quản lý tài khoản, tài sản của người phải thi hành án để xác minh thu thập thông tin nhằm có đủ cơ sở cần thiết, từ đó, quyết định áp dụng các biện pháp bảo đảm như phong tỏa tài khoản hay tạm dừng việc đăng ký, chuyển dịch, thay đổi hiện trạng về tài sản…(11) Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp, việc liên lạc, trao đổi diễn ra khó khăn, chậm chễ và có thể dẫn tới việc người phải thi hành án tẩu tán các tài sản trước khi bị cơ quan thi hành án dân sự áp dụng các biện pháp ngăn chặn.
Hiện nay, nhờ vào việc áp dụng các thành tựu khoa học - công nghệ, cơ quan thi hành án dân sự có thể dễ dàng, nhanh chóng liên lạc, trao đổi với các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan đến thi hành án, để từ đó, kịp thời có các biện pháp ngăn chặn người phải thi hành án che dấu, tẩu tán tài sản. Nhiều trường hợp thông qua trao đổi bằng điện thoại, thư điện tử (Email) và các phương thức truyền tin phổ biến, như chat qua các phần mềm thông dụng Zalo, Messenger, Viber, Facebook… mà cán bộ, công chức của cơ quan thi hành án dân sự và các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan đến thi hành án đã kịp thời tương tác, trao đổi và truyền gửi cho nhau những thông tin và tài liệu quan trọng, cần thiết, như số dư trong tài khoản hay các bức ảnh, video về tài sản của người phải thi hành án. So với việc các cán bộ, công chức của cơ quan thi hành án dân sự phải tự mình đi đến tận nơi để xác minh hay thu thập thông tin thì nhờ các thiết bị công nghệ đã giúp quá trình ấy diễn ra nhanh chóng, dễ dàng, ít tốn kém cả về chi phí, thời gian và công sức. Từ đó, hiệu quả của công tác thi hành án được nâng cao.
Tuy nhiên, mặc dù Cách mạng công nghiệp 4.0 mang đến rất nhiều ưu thế và cơ hội thuận lợi cho ngành tư pháp nói chung và cơ quan thi hành án dân sự nói riêng nhưng cũng gây ra những khó khăn, thử thách đối với hoạt động thi hành án dân sự. Cách mạng công nghiệp 4.0 và sự tiến bộ của khoa học - công nghệ trong kỷ nguyên số cũng sẽ trở thành “con dao hai lưỡi” nếu chúng ta không kịp thời quản lý, ngăn chặn các hành vi độc hại và vi phạm pháp luật.
Điển hình là, tội phạm trong lĩnh vực công nghệ cao hoặc sử dụng công nghệ cao ngày càng phổ biến tại Việt Nam. Nhiệm vụ của cơ quan thi hành án dân sự là vẫn phải thi hành phần “quyết định dân sự trong bản án, quyết định hình sự, phần tài sản trong bản án, quyết định hành chính của tòa án”(12). Do đó, khi thực thi các bản án, quyết định liên quan đến tội phạm công nghệ cao hoặc sử dụng công nghệ cao thì cơ quan thi hành án dân sự luôn gặp nhiều khó khăn, phức tạp và trách nhiệm rất nặng nề. Bởi lẽ, để xác minh các nguồn tài sản, tài khoản của tội phạm công nghệ cao đòi hỏi cần có sự hiểu biết sâu sắc về các thiết bị công nghệ cũng như cách thức vận hành của chúng vì các chủ thể bị xử phạt luôn tìm mọi cách tẩu tán, che giấu các thông tin xác thực về tài khoản, tài sản. Mặt khác, đối với các vụ, việc thi hành án này thường có sự liên quan đến rất nhiều chủ thể và cơ quan thi hành án dân sự luôn cần có sự hỗ trợ, phối hợp từ cơ quan phòng, chống tội phạm công nghệ cao, cơ quan thuế, hải quan…
Bên cạnh đó, từ thực tế thi hành án dân sự cho thấy, không ít trường hợp, giữa các tổ chức tín dụng và khách hàng là người phải thi hành án cũng đã có sự móc ngoặc, bênh vực nhau. Rất nhiều trường hợp ngay khi người được thi hành án, chấp hành viên hay thừa phát lại tiến hành các biện pháp xác minh điều kiện thi hành án thì nhân viên của tổ chức tín dụng đã bí mật báo cho người phải thi hành án. Người phải thi hành án chỉ cần một số thao tác chuyển tiền đơn giản qua máy tính hoặc điện thoại di động đến các tài khoản khác nhau và có thể rút ra trước khi cơ quan thi hành án triển khai áp dụng các biện pháp bảo đảm.
Nhiều trường hợp người phải thi hành án hay những người thân thích của họ tìm mọi cách chống đối, cản trở việc thi hành án, như nhắn tin, gọi điện, gửi thư điện tử để đe dọa, vu khống, bịa đặt, xúc phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín của chấp hành viên hay của những cán bộ liên quan đến thi hành án. Thậm chí có những trường hợp sử dụng mạng xã hội để lôi kéo, kích động những thế lực chống đối, phản động về việc thi hành án dân sự tại Việt Nam, hòng gây nên những hệ quả không tốt và ảnh hưởng xấu đến uy tín của ngành thi hành án dân sự.
Tóm lại, Cách mạng công nghiệp 4.0 tác động và ảnh hưởng rất lớn đến công tác thi hành án dân sự tại Việt Nam. Tuy nhiên, sự phát triển khoa học - công nghệ là xu hướng chung của xã hội văn minh, hiện đại và Việt Nam không thể nằm ngoài xu thế đó. Vì vậy, cần kịp thời có các giải pháp ngăn chặn các hành vi vi phạm pháp luật; cũng như sử dụng các thành quả của khoa học - công nghệ để phục vụ cho quá trình tổ chức thi hành án dân sự. Có như vậy, hiệu quả của thi hành án dân sự mới được nâng cao và đáp ứng công cuộc cải cách tư pháp mà Đảng và Nhà nước đang hướng đến.
Một số kiến nghị
“Hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng trên nhiều cấp độ, đa dạng về hình thức, từng bước thích ứng với nguyên tắc và chuẩn mực của thị trường toàn cầu”(13) là chủ trương phát triển đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta trong giai đoạn phát triển hiện nay. Cùng với hội nhập về mặt kinh tế, hệ thống pháp luật nói chung và pháp luật về thi hành án dân sự nói riêng cũng đã và đang tích cực hội nhập quốc tế sâu rộng. Chính vì vậy, để cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 hỗ trợ đắc lực và nâng cao hiệu quả thi hành án dân sự, đồng thời hạn chế các tác động tiêu cực, cần thực hiện các giải pháp sau:
Một là, cần khẩn trương xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu liên quan đến việc chuyển giao các bản án, quyết định, tài liệu, giấy tờ giữa tòa án nhân dân, viện kiểm sát nhân dân và cơ quan thi hành án dân sự. Sở dĩ cần xây dựng một hệ thống cơ sở dữ liệu kết nối chung giữa ba cơ quan này bởi đây đều là các cơ quan tư pháp và trực tiếp liên quan đến hoạt động xét xử và thi hành án dân sự.
Trên thực tế, “xét xử giải quyết tranh chấp và thi hành án dân sự là một quá trình thống nhất diễn ra trên cơ sở kế tiếp nhau”(14). Nói cách khác, việc thi hành án dân sự được thực hiện trên cơ sở nội dung của bản án, quyết định và việc chuyển giao các văn bản tố tụng, tài liệu, giấy tờ giữa các cơ quan liên quan trực tiếp. Như đã phân tích, việc cấp, tống đạt, thông báo các văn bản tố tụng, tài liệu, giấy tờ giữa các cơ quan này do người trong các cơ quan đó thực hiện hoặc thuê khoán cho thừa phát lại, tuy nhiên việc chuyển giao thủ công không thể nhanh chóng, đơn giản, dễ dàng và kịp thời bằng việc sử dụng các phương tiện điện tử. Đơn giản như việc kết nối mạng giữa các cơ quan có thể giúp cho việc chuyển giao các thông báo diễn ra trong thời gian rất ngắn và còn bảo đảm vấn đề bảo mật thông tin vì không cần in ấn, đóng dấu và vận chuyển qua lại, rồi bảo quản, lưu trữ.
Do đó, đồng thời với việc cần thiết nhanh chóng nghiên cứu và xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu chung giữa ba cơ quan tư pháp, cần quy định bổ sung về hình thức cấp, tống đạt, thông báo các văn bản tố tụng, tài liệu, giấy tờ thông qua phần mềm máy tính. Bất cứ lúc nào, cơ quan thi hành án dân sự đều có thể truy cập cơ sở dữ liệu để nắm bắt đầy đủ, chính xác nội dung của bản án, quyết định và các văn bản tố tụng, thông báo, giấy tờ liên quan đến việc thi hành án. Cơ sở dữ liệu chung cũng giúp cho viện kiểm sát nhân dân dễ dàng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong quá trình xét xử giải quyết tranh chấp và việc tổ chức thi hành án dân sự. Không những vậy, việc sử dụng hệ thống cơ sở dữ liệu chung còn góp phần làm giảm bớt công tác giao nhận và bảo quản các loại tài liệu, giấy tờ. Điều này góp phần làm cắt giảm thủ tục hành chính cho cả ba cơ quan trên và đỡ tốn kém khi phải sắp xếp nhân lực hoặc thuê mướn thừa phát lại tống đạt các văn bản tố tụng, giấy tờ như hiện nay.
Đây là giải pháp hiệu quả mang lại đóng góp lâu dài và góp phần hiện đại hóa công tác chuyển giao các tài liệu, văn bản, giấy tờ giữa tòa án nhân dân, viện kiểm sát nhân dân và cơ quan thi hành án dân sự. Đồng thời, còn phù hợp với chủ trương phát triển công dân số, xã hội số và Chính phủ điện tử tại Việt Nam.
Hai là, cần xây dựng hướng dẫn về việc trao đổi, liên hệ, đưa ra các yêu cầu trong quá trình tổ chức thi hành án dân sự giữa cơ quan thi hành án với các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan đến thi hành án.
Việc sử dụng các tiện ích của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư giúp cho việc liên lạc, trao đổi giữa cơ quan thi hành án dân sự với các đương sự, cơ quan, tổ chức, cá nhân liên quan đến thi hành án diễn ra rất nhanh chóng, đơn giản, dễ dàng và ít tốn kém. Thậm chí, không ít trường hợp, còn giúp cho cơ quan thi hành án dân sự có thể nắm bắt, thu nhận được những thông tin quan trọng và cần thiết, nhờ đó, quá trình tổ chức thi hành án dân sự diễn ra thuận lợi, an toàn, hiệu quả. Tuy nhiên, vấn đề bất cập là vẫn chưa có hướng dẫn hay quy định về việc cơ quan thi hành án dân sự có thể yêu cầu đến các đương sự, cơ quan, tổ chức, cá nhân liên quan đến thi hành án thông qua các phương tiện điện tử, như gọi điện thoại, trao đổi thông tin qua Internet (chat), thư điện tử (Email)… Có thể do đây là các cách thức trao đổi mang tính chất cá nhân, có nhiều rủi ro hoặc còn quá mới lạ, vậy nên, pháp luật thi hành án dân sự của Việt Nam chưa kịp thời ghi nhận và có sự điều chỉnh.
Tuy vậy, trong kỷ nguyên cách mạng số, việc trao đổi qua các phương tiện điện tử có kết nối internet đã và đang trở nên hết sức phổ biến và hầu hết người dân Việt Nam hiện nay đều hằng ngày sử dụng Internet. Mặt khác, các tài khoản trên các phương tiện truyền thông xã hội cũng ngày càng được quản lý chặt chẽ để tránh các hành vi lợi dụng để vi phạm pháp luật. Chính vì vậy, cần nghiên cứu và xây dựng các hướng dẫn về việc cơ quan thi hành án dân sự có thể sử dụng các công cụ trên nền tảng internet, như trao đổi thông tin qua Internet (chat), thư điện tử (Email)… tới các đương sự, cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan đến thi hành án và các chủ thể này buộc phải chấp hành theo yêu cầu của cơ quan thi hành án dân sự. Ví dụ, cơ quan thi hành án dân sự quyết định áp dụng biện pháp bảo đảm phong tỏa tài khoản thì chỉ cần gọi điện cho các tổ chức tín dụng hoặc gửi thư điện tử thông báo và tổ chức tín dụng phải ngay lập tức thực hiện theo mệnh lệnh của cơ quan thi hành án dân sự.
Tất nhiên, khi nghiên cứu xây dựng các hướng dẫn thì cần chú ý đến rất nhiều vấn đề, như cách thức trao đổi, phương tiện dùng để trao đổi, liên hệ giữa các bên, thời hạn mà bên nhận được yêu cầu sẽ phải thực hiện theo mệnh lệnh của cơ quan thi hành án dân sự, chế tài xử phạt nếu bên nhận được yêu cầu nhưng cố tình không thực hiện… Ngoài ra, ngay cả cách thức chứng minh hành vi vi phạm pháp luật khi bên nhận được yêu cầu cố tình không thực hiện theo mệnh lệnh của cơ quan thi hành án dân sự cũng cần quy định và hướng dẫn chi tiết, đầy đủ, rõ ràng. Làm được như vậy sẽ góp phần hỗ trợ đắc lực cho cơ quan thi hành án dân sự và nâng cao hiệu quả thi hành án dân sự.
Ba là, cần tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước và nâng cao trình độ khoa học – công nghệ cho đội ngũ cán bộ, công chức chịu trách nhiệm tổ chức thi hành án dân sự.
Trong bối cảnh Cách mạng công nghiệp 4.0 đã và đang mang đến các tác động, ảnh hưởng tích cực và cả tiêu cực đối với hoạt động thi hành án dân sự, càng cần quán triệt và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước. Nói cách khác, hoạt động thi hành án dân sự chỉ có thể thành công nếu như đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Đảng và sự quản lý, điều hành của Nhà nước.
Cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 đòi hỏi các cán bộ, công chức của ngành thi hành án dân sự phải không ngừng nỗ lực cố gắng, trau dồi về kỹ năng, kinh nghiệm, nhất là phải liên tục cập nhật và nâng cao trình độ hiểu biết về công nghệ thông tin. Tổng cục Thi hành án dân sự cần có những chương trình, kế hoạch được nghiên cứu xây dựng bài bản, khoa học, hiện đại để có thể cập nhật, bồi dưỡng và nâng cao khả năng sử dụng các thiết bị công nghệ cho đội ngũ cán bộ, công chức thuộc ngành mình phụ trách. Ngoài ra, cũng cần có chủ trương tuyển dụng các chuyên gia trong lĩnh vực công nghệ thông tin để kịp thời hỗ trợ cho các chấp hành viên trong quá trình liên lạc, trao đổi, ra các yêu cầu hay xác minh điều kiện thi hành án. Có như vậy, hiệu quả của công tác thi hành án dân sự tại Việt Nam mới được tăng cường và quyền, lợi ích hợp pháp của các đương sự mới được bảo vệ./.
______________________________________
(1) Điều 14, Hiến pháp năm 2013.
(2) Luật Thi hành án dân sự năm 2008 (sửa đổi, bổ sung bởi Luật số 64/2014/QH13; sau đó lại được sửa đổi, bổ sung theo Luật Cạnh tranh số 23/2018/QH14 và hợp nhất thành Luật Thi hành án dân sự số 13/VBHN-VPQH ngày 29.6.2018). Bài viết thống nhất viết tắt là “Luật Thi hành án dân sự năm 2008 (sửa đổi, bổ sung năm 2014)” trên cơ sở quy định từ Luật Thi hành án dân sự số 13/VBHN-VPQH.
(3) Lê Thu Hà: Giáo trình Kỹ năng thi hành án dân sự, Phần chung, Học viện tư pháp, Nxb. Tư pháp, 2010, tr. 39.
(4) Nguyễn Vinh Hưng: “Quá trình bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trong tố tụng dân sự và thi hành án dân sự”, tạp chí Khoa học Kiểm sát, số 06, 2016, tr.4.
(5) Nguyễn Vinh Hưng và Phan Quốc Nguyên: “Sự tác động của nền kinh tế số đến hệ thống pháp luật sở hữu trí tuệ của Việt Nam”, tạp chí Nghề luật, số 10, 2020, tr.19.
(6) Nguyễn Thị Hải Vân: “Bảo hộ quyền tác giả trong môi trường kỹ thuật số - nghiên cứu kinh nghiệm áp dụng luật Hadopi của Cộng hòa Pháp”, http://www.agllaw.com.vn/bao-ho-quyen-tac-gia-trong-moi-truong-ky-thuat-so-nghien-cuu-kinh-nghiem-ap-dung-luat-hadopi-cua-cong-hoa-phapbao-ho-quyen-tac-gia-trong-moi-truong-ky-thuat-so-nghien-cuu-kinh-nghiem-ap-dung-luat/
(7) Đại học Quốc gia Hà Nội: Giáo trình Luật Tố tụng dân sự Việt Nam, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội, 2014, tr.191.
(8) Đại học Quốc gia Hà Nội: Giáo trình Luật Tố tụng dân sự Việt Nam, Sđd, tr.189 – 190.
(9) Điểm a, khoản 1, Điều 32 của Nghị định số 08/2020/NĐ-CP, ngày 08.1.2020 về “Tổ chức và hoạt động của Thừa phát lại”.
(10) Khoản 1, Điều 55 của Luật Thi hành án dân sự năm 2008 (sửa đổi, bổ sung năm 2014).
(11) Khoản 3, Điều 66 của Luật Thi hành án dân sự năm 2008 (sửa đổi, bổ sung năm 2014).
(12) Điều 1, Luật Thi hành án dân sự năm 2008 (sửa đổi, bổ sung năm 2014).
(13) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2016, tr.40 – 41.
(14) Nguyễn Vinh Hưng: “Quá trình bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trong tố tụng dân sự và thi hành án dân sự”, Tlđd, tr.3 – 8.
Nguồn: Bài đăng trên Tạp chí Cộng sản điện tử ngày 26.07.2022
Bài liên quan
- Tổng thống Vladimir Putin: Bốn nhiệm kỳ và hành trình phục hưng nước Nga
- Đổi mới công tác cán bộ trong cuộc cách mạng tinh gọn bộ máy nhà nước ở Việt Nam hiện nay: Những vấn đề lý luận và thực tiễn
- Ứng dụng truyền thông số trong hoạt động công tác xã hội tại bệnh viện: Thực trạng và xu hướng
- Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến hành vi trì hoãn kết hôn của giới trẻ Việt Nam hiện nay
- Quản lý hình ảnh về phụ nữ dân tộc thiểu số Việt Nam trên các sản phẩm báo ảnh tại Thông tấn xã Việt Nam hiện nay
Xem nhiều
-
1
Đổi mới công tác cán bộ trong cuộc cách mạng tinh gọn bộ máy nhà nước ở Việt Nam hiện nay: Những vấn đề lý luận và thực tiễn
-
2
Những yêu cầu và nguyên tắc phát triển báo chí – truyền thông trong kỷ nguyên mới
-
3
Nâng cao chất lượng thực hành nghề nghiệp cho sinh viên ngành công tác xã hội tại Học viện Báo chí và Tuyên truyền
-
4
Tổng thống Vladimir Putin: Bốn nhiệm kỳ và hành trình phục hưng nước Nga
-
5
Phát huy vai trò của báo chí trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng
-
6
Truyền thông đại chúng trong kỷ nguyên số: động lực đổi mới mô hình phát triển xã hội Việt Nam hiện nay
Liên kết
- Báo điện tử đảng cộng sản việt nam
- Báo nhân dân
- Báo Quân đội nhân dân
- Cổng thông tin điện tử Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Cổng thông tin điện tử Học viện Chính trị quốc gia hồ chí minh
- Tạp chí Cộng sản
- Tạp chí Giáo dục lý luận
- Tạp chí Giáo dục và Xã hội
- Tạp chí Khoa học xã hội và Nhân văn
- Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam
- Tạp chí Lý luận chính trị
- Tạp chí Nghiên cứu con người
- TẠP CHÍ Nghiên cứu dân tộc
- Tạp chí Người làm báo
- Tạp chí Nội chính
- Tạp chí Quản lý Nhà nước
- Tạp chí Tổ chức Nhà nước
- Tạp chí Tuyên giáo
- Tạp chí Xây Dựng Đảng
- Thư viện số Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Trang thông tin điện tử Hội đồng Lý luận Trung ương
Những đột phá trong đối ngoại và hội nhập quốc tế của Việt Nam thời kỳ đổi mới
Từ tiền đề xuất phát với nhiều khó khăn, thăng trầm ở cả trong nước và thế giới; đối ngoại và hội nhập quốc tế của nước ta thời kỳ đổi mới gắn với quá trình “chuyển mình” của đất nước với những đột phá: Việt Nam muốn là bạn với các nước; là bạn, là đối tác tin cậy; là thành viên tích cực, có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế. Vì vậy, trong mỗi chặng đường, thế và lực, uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế được khẳng định. Đối ngoại và hội nhập quốc tế của nước ta đã minh họa về tầm tư duy lý luận sắc sảo của Đảng trong bang giao quốc tế, góp phần quan trọng trong xây dựng thế giới hòa bình, phát triển.
Tổng thống Vladimir Putin: Bốn nhiệm kỳ và hành trình phục hưng nước Nga
Tổng thống Vladimir Putin: Bốn nhiệm kỳ và hành trình phục hưng nước Nga
Trong suốt hơn hai thập kỷ đầu thế kỷ XXI, tên của Tổng thống Vladimir Putin đã trở thành biểu tượng gắn liền với tiến trình phát triển và chuyển mình của Liên bang Nga. Từ một quốc gia đối mặt với khủng hoảng kinh tế - chính trị nghiêm trọng sau khi Liên Xô tan rã, nước Nga dưới sự lãnh đạo của Tổng thống Putin đã từng bước khôi phục ổn định, nâng cao vị thế quốc tế và củng cố bản sắc quốc gia. Dù vẫn còn không ít tranh cãi, không thể phủ nhận rằng Tổng thống Vladimir Putin đã để lại dấu ấn sâu đậm trong lịch sử nước Nga hiện đại như một nhà lãnh đạo có ảnh hưởng lớn lao và lâu dài. Bài viết được thực hiện với mục đích phân tích các giai đoạn cầm quyền của ông, từ đó làm rõ những đóng góp, lựa chọn chiến lược và quyết sách của Ông đối với vận mệnh quốc gia. Qua đó, góp phần lý giải vì sao Tổng thống Vladimir Putin được xem là “người sẽ cứu nước Nga” trong thời kỳ chuyển giao và định hình bản sắc, quyền lực quốc gia hậu Xô Viết.
Đổi mới công tác cán bộ trong cuộc cách mạng tinh gọn bộ máy nhà nước ở Việt Nam hiện nay: Những vấn đề lý luận và thực tiễn
Đổi mới công tác cán bộ trong cuộc cách mạng tinh gọn bộ máy nhà nước ở Việt Nam hiện nay: Những vấn đề lý luận và thực tiễn
Công cuộc tinh gọn bộ máy nhà nước là một trong những nhiệm vụ trọng tâm nhằm hiện thực hóa mục tiêu xây dựng nền hành chính nhà nước hiện đại, hiệu lực, hiệu năng, hiệu quả, phục vụ nhân dân. Trong tiến trình đó, công tác cán bộ đóng vai trò trung tâm, bởi cán bộ chính là người tổ chức và thực thi cải cách. Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy, công tác cán bộ hiện nay vẫn còn nhiều hạn chế, chưa thực sự tương xứng với yêu cầu đổi mới bộ máy nhà nước. Bài viết tiếp cận vấn đề từ nền tảng lý luận Mác, Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các văn kiện Đảng để phân tích những vấn đề lý luận, thực tiễn trong đổi mới công tác cán bộ, từ đó, đề xuất một số giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ đáp ứng yêu cầu cải cách hệ thống chính trị trong bối cảnh mới.
Ứng dụng truyền thông số trong hoạt động công tác xã hội tại bệnh viện: Thực trạng và xu hướng
Ứng dụng truyền thông số trong hoạt động công tác xã hội tại bệnh viện: Thực trạng và xu hướng
Trong bối cảnh chuyển đổi số y tế đang diễn ra mạnh mẽ trên toàn quốc, một số bệnh viện tuyến trung ương đã bước đầu ứng dụng truyền thông số hiệu quả trong tư vấn tâm lý – xã hội, kết nối cộng đồng và vận động nguồn lực, tuy nhiên, phần lớn bệnh viện tuyến tỉnh, huyện chưa có điều kiện triển khai đầy đủ. Bài viết đề xuất các giải pháp cụ thể nhằm tích hợp truyền thông số vào hoạt động công tác xã hội (CTXH) tại bệnh viện, góp phần định hướng phát triển CTXH bệnh viện theo hướng chuyên nghiệp, công bằng và thích ứng với bối cảnh số hóa y tế đến năm 2030.
Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến hành vi trì hoãn kết hôn của giới trẻ Việt Nam hiện nay
Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến hành vi trì hoãn kết hôn của giới trẻ Việt Nam hiện nay
Theo thống kê trong giai đoạn từ 2013 – 2023 cho thấy độ tuổi kết hôn trung bình của người dân đang có xu hướng tăng(1). Vì vậy, nhóm tác giả đã thực hiện nghiên cứu nhằm làm rõ những nhân tố ảnh hưởng tới hành vi này tại Việt Nam. Bài nghiên cứu chỉ ra sự thay đổi trong độ tuổi kết hôn của người dân Việt Nam, đồng thời phân tích rõ ảnh hưởng của những nhân tố như trình độ học vấn, nền tảng gia đình, địa lý, chi phí sinh hoạt, thu nhập, nghề nghiệp và truyền thông tới việc trì hoãn kết hôn, thông qua dữ liệu từ cuộc khảo sát gồm 736 người trong độ tuổi từ 18 – 35, trải rộng khắp các vùng miền của Việt Nam. Qua đó, nhóm tác giả nêu lên một số đánh giá về tác động của hành vi trì hoãn kết hôn của giới trẻ tới sự phát triển của kinh tế - xã hội. Sau cùng, nhóm tác giả đề xuất giải pháp để giải quyết vấn đề trì hoãn kết hôn của người trẻ Việt Nam hiện nay.
Bình luận