Nâng cao tính chiến đấu, tính thuyết phục, hiệu quả công tác tư tưởng của Đảng, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn mới
1. Đảng Cộng sản Việt Nam thấm nhuần sâu sắc tư tưởng Hồ Chí Minh, luôn đề cao vai trò của công tác tư tưởng, coi đây là “công việc quan trọng nhất” trong toàn bộ quá trình lãnh đạo cách mạng
Ngay từ khi mới ra đời, dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta đã luôn chú trọng tới vai trò đặc biệt quan trọng của công tác tư tưởng, coi đây là một trong những lĩnh vực trọng yếu trong toàn bộ hoạt động lãnh đạo cách mạng của Đảng.
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi trọng vai trò của công tác tư tưởng trong sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc. Người nhấn mạnh: “Công tác lãnh đạo tư tưởng là quan trọng nhất. Trong Đảng và ngoài Đảng có nhận rõ tình hình mới, hiểu rõ nhiệm vụ mới, thì tư tưởng mới thống nhất, tư tưởng thống nhất thì hành động mới thống nhất. Nếu trong Đảng và ngoài Đảng từ trên xuống dưới, từ trong đến ngoài đều tư tưởng thống nhất và hành động thống nhất thì nhiệm vụ tuy nặng nề, công việc tuy khó khăn phức tạp, ta cũng nhất định thắng lợi”(1).
Ngược lại, nếu tư tưởng và hành động không nhất trí, thì khác nào một mớ cắt rời, “trống đánh xuôi, kèn thổi ngược”; như vậy, thì không thể lãnh đạo quần chúng, không thể làm cách mạng. Đồng thời, khi nhấn mạnh tới tầm quan trọng của việc giáo dục tư tưởng và lãnh đạo tư tưởng, Người cũng kiên quyết chống lại “căn bệnh” coi thường tư tưởng, lý luận: Giáo dục tư tưởng và lãnh đạo tư tưởng là việc quan trọng nhất của Đảng, phải kiên quyết chống cái thói xem nhẹ tư tưởng. Đảng phải tăng cường tư tưởng giai cấp công nhân và rửa gột những tư tưởng trái với nó. Đảng cần phải giáo dục và yêu cầu đảng viên ra sức học tập lý luận, mở rộng tự phê bình và phê bình, đấu tranh với những tư tưởng “phi vô sản”(2). Người yêu cầu Đảng phải thường xuyên tiến hành tổ chức nghiên cứu, học tập lý luận cho cán bộ, đảng viên và tuyên truyền lý luận cách mạng trong nhân dân.
Tuyên truyền, cổ động là những khâu quan trọng trong công tác tư tưởng của Đảng, nhằm phổ biến, truyền bá chủ trương, đường lối, quan điểm, lý tưởng của Đảng đến quần chúng nhân dân. Vì vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt lưu ý đến đối tượng, đặc điểm, phương pháp tuyên truyền sao cho thật “cụ thể, thiết thực”, phải làm sao “dễ hiểu, nói sao để người ta hiểu được, hiểu để làm”(3); ở đây, cũng cần chú ý đến phương pháp thuyết phục “có lý, có tình”, kết hợp với phương pháp nêu gương, vì “một tấm gương sống còn có giá trị hơn một trăm bài diễn văn tuyên truyền”(4).
Thấm nhuần và quán triệt sâu sắc tư tưởng Hồ Chí Minh, trong các giai đoạn cách mạng, Đảng ta luôn đặc biệt coi trọng vai trò của công tác tư tưởng, nhấn mạnh công tác tư tưởng là “linh hồn” của mọi công tác, không chỉ nhằm thực hiện những nhiệm vụ cụ thể, cấp bách trước mắt, mà còn cả những nhiệm vụ lâu dài. Đảng luôn xác định công tác tư tưởng là một bộ phận cấu thành có tầm quan trọng bậc nhất trong toàn bộ hoạt động lãnh đạo cách mạng của Đảng; là lĩnh vực trọng yếu để xây dựng, bồi đắp niềm tin ở lý tưởng cách mạng, tuyên truyền, giáo dục, động viên và tổ chức nhân dân phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ cách mạng qua các thời kỳ.
Chỉ với gần 5 nghìn đảng viên, nhưng nhờ sự lãnh đạo đúng đắn, Đảng ta đã khơi dậy và phát huy chủ nghĩa yêu nước, ý chí tự lực, tự cường, khát vọng độc lập của dân tộc, tạo nên sức mạnh to lớn cuốn phăng thực dân, phát-xít và phong kiến tay sai; thực hiện thành công Cách mạng Tháng Tám năm 1945, khai sinh ra nước Việt Nam mới - nước Việt Nam do những người lao động làm chủ dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Trong các cuộc kháng chiến anh dũng chống xâm lược, công tác tư tưởng đã “truyền lửa” vào các thế hệ “lớp cha trước, lớp con sau/đã thành đồng chí chung câu quân hành”, làm nên chiến thắng vĩ đại chống thực dân Pháp, chống đế quốc Mỹ và tinh thần kiên cường chiến đấu bảo vệ từng tấc đất, sải nước thiêng liêng của Tổ quốc ở biên giới, hải đảo. Đặc biệt, trong công cuộc đổi mới đất nước, Đảng thường xuyên đề ra những chủ trương, nhiệm vụ, giải pháp để tăng cường và đổi mới công tác tư tưởng(5), nhằm tạo sự thống nhất cao về ý chí và hành động trong toàn Đảng, toàn dân và toàn quân, tạo nên sức mạnh tổng hợp để thực hiện thắng lợi những nhiệm vụ chính trị; qua đó, cũng thể hiện, khẳng định vị trí, vai trò lãnh đạo của Đảng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Kế thừa những quan điểm của các đại hội trước, bám sát tình hình mới, Đại hội XIII của Đảng đã làm rõ hơn vai trò đặc biệt quan trọng của công tác tư tưởng trên những phương diện cơ bản:
1- Quán triệt “Tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta là phải kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên định đường lối đổi mới của Đảng; kiên định các nguyên tắc xây dựng Đảng; bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi để xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Đây là vấn đề mang tính nguyên tắc, có ý nghĩa sống còn đối với chế độ ta, là nền tảng vững chắc của Đảng ta, không cho phép ai được ngả nghiêng, dao động”(6);
2- Xác định công tác tư tưởng là lĩnh vực trọng yếu để tăng cường sự đoàn kết, nhất trí, thống nhất về tư tưởng, chính trị trong Đảng, sự đồng thuận trong xã hội; phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, xây dựng, bồi đắp nền tảng chính trị, tinh thần của chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta, góp phần thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ chính trị ngày càng khó khăn, phức tạp.
Đồng thời, Đại hội XIII của Đảng cũng nêu rõ quan điểm chỉ đạo: “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ nội dung, phương thức công tác tư tưởng theo hướng chủ động, thiết thực, kịp thời và hiệu quả; nâng cao tính chiến đấu, tính giáo dục, tính thuyết phục trong tuyên truyền, học tập chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Nắm chắc, dự báo đúng, định hướng chính xác, xử lý đúng đắn, kịp thời các vấn đề tư tưởng trong Đảng, trong xã hội”(7) nhằm tạo sự thống nhất về tư tưởng và hành động trong toàn Đảng, toàn quân và toàn dân.
2. Phát huy những thành quả đã đạt được, quyết tâm khắc phục các khó khăn, hạn chế; tiếp tục nâng cao tính chiến đấu, tính thuyết phục, hiệu quả của công tác tư tưởng, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn mới
Văn kiện Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh, “đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”. Với tất cả sự khiêm tốn, chúng ta có quyền tự hào, công tác tư tưởng thời gian qua đã có đóng góp xứng đáng vào các thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử của đất nước. Cụ thể là: Công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, học tập chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh tiếp tục được đẩy mạnh, nội dung, hình thức đa dạng, phong phú hơn. Công tác đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị được đổi mới cả về nội dung và phương pháp; chất lượng đào tạo, bồi dưỡng được nâng lên; từng bước khắc phục tình trạng lười học, ngại học lý luận chính trị trong đội ngũ cán bộ, đảng viên. Việc nghiên cứu, học tập, quán triệt, triển khai thực hiện nghị quyết của Đảng có nhiều đổi mới, tạo sự thống nhất về nhận thức và hành động trong toàn Đảng, sớm đưa nghị quyết vào thực tiễn cuộc sống; chất lượng học tập, quán triệt được nâng lên, tiết kiệm được thời gian và kinh phí.
Công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn được đẩy mạnh. Đặc biệt, hệ thống lý luận về đường lối đổi mới, về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam tiếp tục được bổ sung, phát triển; góp phần đổi mới, bổ sung, phát triển tư duy lý luận, thống nhất nhận thức về những vấn đề lý luận chính trị nền tảng; khẳng định những giá trị bền vững của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh cũng như quá trình vận dụng sáng tạo vào thực tiễn; cung cấp luận cứ đấu tranh, phê phán, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, góp phần nâng cao tính chiến đấu, tính thuyết phục, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.
Việc tuyên truyền, phổ biến đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đã góp phần tích cực vào việc nâng cao nhận thức, thống nhất ý chí và hành động trong đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, nhất là trên không gian mạng, đã được Đảng tập trung lãnh đạo, chỉ đạo và có những kết quả rõ rệt. Cùng với đó, công tác lãnh đạo, chỉ đạo các cơ quan báo chí, xuất bản cũng có những chuyển biến tích cực.
Bên cạnh những kết quả đã đạt được, chúng ta cũng phải thẳng thắn nhận diện rõ những hạn chế, yếu kém, bất cập để nhanh chóng có những biện pháp khắc phục kịp thời, sát hợp, hiệu quả. Cụ thể là:
Công tác tư tưởng có nơi, có lúc thiếu kịp thời, chưa sắc bén, tính thuyết phục chưa cao; việc giáo dục chính trị, tư tưởng cho cán bộ, đảng viên chưa thường xuyên; một bộ phận đảng viên chưa nắm vững chủ trương, đường lối của Đảng. Việc học tập lý luận chính trị tuy có nhiều cố gắng nhưng vẫn chưa đáp ứng yêu cầu. Công tác thông tin, tuyên truyền một số đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước còn chưa kịp thời, hình thức chưa phong phú. Đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch có lúc, có nơi tính chiến đấu chưa cao, còn bị động, lúng túng. Việc dự báo, nắm bắt tình hình tư tưởng của cán bộ, đảng viên, tâm tư, nguyện vọng của nhân dân và định hướng dư luận xã hội có lúc chưa kịp thời. Kết quả thực hiện một số chủ trương của Đảng về quản lý báo chí, truyền thông, xuất bản, quản lý internet, mạng xã hội chưa đáp ứng yêu cầu. Vai trò của văn học, nghệ thuật trong công tác tư tưởng chưa được phát huy đầy đủ. Công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận chưa được quan tâm đúng mức, chưa đáp ứng yêu cầu; một số vấn đề mới, khó, phức tạp thực tiễn đặt ra chưa được làm sáng tỏ(8).
Giai đoạn mới có nhiều điều kiện thuận lợi, đồng thời cũng đặt ra những yêu cầu mới, ngày càng cao đối với công tác tư tưởng. Đại hội XIII của Đảng chỉ rõ, trong những năm tới, tình hình thế giới và khu vực sẽ có nhiều thay đổi rất nhanh, phức tạp, khó dự báo, tác động trực tiếp đến nước ta, tạo ra cả thời cơ và thách thức đan xen nhau. Toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế tiếp tục tiến triển, cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư phát triển mạnh mẽ, tạo đột phá trên nhiều lĩnh vực, mang đến cả thời cơ và thách thức đối với mọi quốc gia. Khu vực châu Á - Thái Bình Dương tiếp tục có vị trí chiến lược ngày càng quan trọng. Tại Đông Nam Á, môi trường an ninh, tranh chấp chủ quyền trên Biển Đông còn diễn biến phức tạp. Ở trong nước, thế và lực, sức mạnh tổng hợp của đất nước tăng lên, uy tín quốc tế của nước ta ngày càng được nâng cao, thời cơ và vận hội phát triển mở ra rộng lớn. Tuy nhiên, nước ta vẫn đứng trước nhiều khó khăn, thách thức và hạn chế.
Bốn nguy cơ mà Đảng ta chỉ ra vẫn còn tồn tại, có mặt còn gay gắt hơn, nhất là nguy cơ tụt hậu, rơi vào “bẫy thu nhập trung bình” còn lớn; tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong một bộ phận cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức vẫn diễn biến phức tạp; tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, tiêu cực... vẫn chưa được đẩy lùi có hiệu quả. Các thế lực thù địch, phản động chống phá sự nghiệp cách mạng ngày càng quyết liệt, nhất là trên không gian mạng. Toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế sâu rộng, Cách mạng công nghiệp lần thứ tư không chỉ mang lại cơ hội, mà còn cả thách thức, nhất là trong xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, bảo vệ thị trường nội địa, giữ vững độc lập về chính trị, bảo vệ bản sắc văn hóa dân tộc, đề kháng có hiệu quả trước các hoạt động lợi dụng những thành tựu công nghệ để chống phá Đảng, Nhà nước, đặc biệt là chống phá trên lĩnh vực ý thức hệ, tư tưởng. Cùng với đó, dịch bệnh Covid-19 vẫn diễn biến rất phức tạp, vừa gây khó khăn, cản trở sự phát triển kinh tế - xã hội, vừa gây ra tâm lý bất ổn, khó lường trong xã hội.
Tình hình nêu trên sẽ tác động mạnh, nhiều chiều đến tâm lý, tư tưởng của cán bộ, đảng viên và nhân dân, đòi hỏi công tác tư tưởng của Đảng phải nâng cao hơn nữa tính chiến đấu, tính thuyết phục và hiệu quả. Đồng thời, bối cảnh mới cũng đặt ra yêu cầu cấp thiết phải triển khai đồng bộ nhiều nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm để đưa công tác tư tưởng đi vào chiều sâu, cụ thể như sau:
Một là, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác tư tưởng; phối hợp chặt chẽ các “binh chủng” trên mặt trận tư tưởng, tạo sức mạnh tổng hợp, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới. Sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định nhất đến việc tăng cường tính chiến đấu, tính thuyết phục, hiệu quả của công tác tư tưởng trong giai đoạn mới. Để nâng cao hơn nữa tính chiến đấu, tính thuyết phục và hiệu quả của công tác tư tưởng, các cấp ủy, tổ chức đảng cần quán triệt sâu sắc, bám sát và triển khai kế hoạch để cụ thể hóa các nghị quyết của Đảng về công tác tư tưởng, nhất là Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa X, “Về công tác tư tưởng, lý luận và báo chí trước yêu cầu mới” và những quan điểm mới về công tác tư tưởng mà Đại hội XIII của Đảng đã đề ra.
Đặc biệt, cần tăng cường tuyên truyền, giáo dục chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc và lịch sử cách mạng vẻ vang của Đảng, sự đoàn kết, thống nhất của toàn dân tộc; không ngừng nâng cao trình độ lý luận chính trị cho cán bộ, đảng viên. Đổi mới căn bản chương trình, nội dung, phương pháp giáo dục lý luận chính trị theo phương châm “khoa học, thực tiễn, sáng tạo và hiện đại”. Đẩy mạnh tuyên truyền sâu rộng đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước gắn với đẩy mạnh các phong trào thi đua yêu nước, nhằm tạo chuyển biến mạnh mẽ, tạo sự đồng thuận về nhận thức, thống nhất hành động trong Đảng và nhân dân.
Hai là, tập trung tổng kết thực tiễn, gắn tổng kết thực tiễn với phát triển lý luận, nâng tầm lý luận của Đảng về đường lối đổi mới, về chủ nghĩa xã hội, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam và giải đáp được những vấn đề mới, khó mà thực tiễn đã và đang đặt ra. Phải khắc phục cho được một hiện tượng khá phổ biến trong công tác lý luận bấy lâu nay là, những vấn đề khó, phức tạp, nhạy cảm đều ngại đưa ra bàn luận, né tránh, thậm chí khất lần. Những “khoảng trống lý luận” nếu không được giải quyết thấu đáo sẽ tạo “lỗ hổng” cho các thế lực thù địch, phản động tấn công vào cơ sở lý luận của Đảng. Đối với các vấn đề lý luận khó, phức tạp, còn có những ý kiến khác nhau thì cần đưa ra thảo luận dân chủ rộng rãi, tranh luận đến cùng, từng bước thu hẹp dần khác biệt trước khi quyết định, tuyệt đối tránh thảo luận một cách hình thức, chiếu lệ. Việc nghiên cứu, vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh phải luôn gắn liền với đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, nâng cao tính chiến đấu trên mặt trận tư tưởng, lý luận; vì đây là hai mặt của công tác lý luận có quan hệ mật thiết, không tách rời nhau; phải trở thành nhiệm vụ hàng đầu và thường xuyên trong công tác chính trị, tư tưởng, lý luận của Đảng.
Ba là, thường xuyên nắm chắc tình hình tư tưởng trong Đảng, trong nhân dân, dự báo sát và đúng dư luận xã hội gắn với tích cực đổi mới việc học tập, quán triệt, tuyên truyền nghị quyết của Đảng. Muốn nâng cao tính thuyết phục, hiệu quả của công tác tư tưởng thì phải nắm chắc, dự báo đúng, định hướng chính xác, xử lý đúng đắn, kịp thời các vấn đề tư tưởng trong Đảng, trong xã hội; chú trọng nắm bắt, định hướng dư luận xã hội; từ đó, mới có định hướng đúng và sát hợp, bảo đảm thống nhất tư tưởng trong Đảng, sự đồng thuận cao trong xã hội. Trong quán triệt, tuyên truyền nghị quyết của Đảng, phải chú ý quán triệt, tuyên truyền những nội dung cơ bản, cốt lõi, những điểm mới trong nghị quyết; bám sát lĩnh vực, địa bàn, đối tượng, với những lợi ích thiết thực, chú ý tới những bức xúc, những mâu thuẫn nảy sinh trong quá trình phát triển của thực tiễn. Đa dạng hóa các phương thức học tập, quán triệt, tuyên truyền nghị quyết của Đảng, như kết hợp trực tiếp với trực tuyến để gia tăng tính thuyết phục, hấp dẫn, hiệu quả.
Bốn là, công tác tư tưởng phải tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, kiên quyết và thường xuyên đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, nhất là trên không gian mạng; chủ động cung cấp thông tin kịp thời, chính xác, khách quan, đúng định hướng để phòng, chống “diễn biến hòa bình”, những thông tin xấu, độc trên Internet, mạng xã hội. Muốn vậy, cần phải nhận diện rõ những luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch, phản động, những thông tin xấu, độc phát tán trên internet, mạng xã hội; đồng thời, tiến hành một cách bài bản, căn cơ công tác nghiên cứu nền tảng tư tưởng của Đảng. Tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác lý luận chuyên sâu, am hiểu sâu sắc và đủ trình độ đấu tranh có hiệu quả trên mặt trận tư tưởng, lý luận. Có như vậy, chúng ta mới gia tăng được tính chiến đấu, mới có thể bảo vệ hiệu quả nền tảng tư tưởng của Đảng, tăng cường được niềm tin của nhân dân và sự đồng thuận trong xã hội; đồng thời, không cho phép bất cứ hoạt động nào lợi dụng “tự do tư tưởng”, “tự do học thuật” để tuyên truyền quan điểm sai trái, thù địch, chống phá Đảng, Nhà nước, chế độ, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc, gây bất ổn xã hội, cản trở sự phát triển của đất nước.
Tiến hành đấu tranh, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng không chỉ bằng lập luận khoa học, lôgíc, mà còn phải bằng dữ liệu thực tế, qua những mô hình cụ thể, bằng gương người tốt, việc tốt; sử dụng các hình thức của truyền thông hiện đại, truyền thông đa phương tiện, kết hợp vận dụng các thành tựu khoa học - công nghệ của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư... Chính thực tiễn cuộc đấu tranh trên lĩnh vực đầy cam go, thử thách này đang đặt ra đòi hỏi cấp thiết về việc cần phải tăng cường hơn nữa tính chiến đấu và tính thuyết phục của những luận cứ; qua đó, mới đủ sức bẻ gãy tận gốc, bác bỏ một cách đanh thép nhất các quan điểm sai trái, thù địch, hòng phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng và những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử mà Đảng và nhân dân ta đã đạt được.
Năm là, phát huy hơn nữa vai trò của báo chí, văn học, nghệ thuật trên mặt trận tư tưởng và trong định hướng dư luận. Báo chí phải tăng cường hơn nữa tính chiến đấu, tính thuyết phục, hiệu quả; chủ động ứng phó kịp thời trước những sự cố khủng hoảng truyền thông; góp phần hình thành dư luận xã hội lành mạnh, biểu dương các tấm gương người tốt, việc tốt, tăng cường sự đồng thuận xã hội và củng cố, nâng cao niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng. Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh: “Tăng cường quản lý và định hướng hoạt động của các cơ quan báo chí; tập trung đào tạo, xây dựng đội ngũ cán bộ quản lý báo chí, phóng viên, biên tập viên có bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức trong sáng và tinh thông nghiệp vụ để nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền; xử lý nghiêm theo quy định của Đảng và pháp luật của Nhà nước đối với các cơ quan báo chí, phóng viên đăng tải thông tin chưa được xác minh, kiểm chứng, không có cơ sở, căn cứ, gây ảnh hưởng không tốt đến dư luận xã hội; phát huy hơn nữa vai trò của văn học, nghệ thuật trên mặt trận tư tưởng; đẩy mạnh ứng dụng thành tựu khoa học - công nghệ phục vụ công tác tuyên truyền, bảo đảm an ninh tư tưởng trên môi trường không gian mạng”(9).
Sáu là, công tác tư tưởng phải cổ vũ, tăng cường trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ cấp chiến lược, người đứng đầu các cơ quan, địa phương, đơn vị; gắn với phòng, chống sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, thực hiện nghiêm túc, quyết liệt, triệt để Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 các khóa XI, XII, XIII. Công tác tư tưởng phải gia tăng, làm sâu sắc hơn nhận thức, có sức lay động đến con tim của mỗi người, đặc biệt là đội ngũ cán bộ, đảng viên, về danh dự, giá trị trong cuộc sống của một con người; phải có ý thức, trách nhiệm rất cao về lòng tự trọng, nhân cách làm người. Mỗi cán bộ, đảng viên phải luôn tự ý thức rằng, mình sống giữa nhân dân, vì nhân dân, thấu hiểu và cố gắng đáp ứng những yêu cầu, nguyện vọng chính đáng của nhân dân, để dân tin Đảng, yêu Đảng, đi theo Đảng, thực hiện một cách tích cực, sáng tạo chủ trương, đường lối, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Bảy là, có kế hoạch, chiến lược phát triển một cách căn cơ, bài bản đội ngũ cán bộ làm công tác tư tưởng, nhất là đội ngũ chuyên gia đầu ngành, đi đôi với xây dựng chính sách thu hút, đãi ngộ thỏa đáng, kịp thời. Trong điều kiện đội ngũ cán bộ, chuyên gia làm công tác tư tưởng còn mỏng, thì lại càng cần phải nhanh chóng có chiến lược và giải pháp đột phá cho vấn đề này. Thực tế cho thấy, không thể nâng cao được tính chiến đấu, tính thuyết phục, hiệu quả của công tác tư tưởng nếu không tập trung vào chiến lược phát triển đội ngũ cán bộ làm công tác tư tưởng. Cần xây dựng, phát triển đội ngũ cán bộ, lựa chọn chuyên gia theo tinh thần trọng dụng nhân tài, có chính sách hợp lý để khuyến khích cán bộ dám nghĩ, dám làm, đề xuất được các kiến nghị, giải pháp có tính đột phá để giải quyết những vấn đề tư tưởng quan trọng, cấp bách mà thực tiễn phát triển đang đặt ra. Tăng cường đào tạo, bồi dưỡng chuyên sâu và thường xuyên đội ngũ cán bộ làm công tác tư tưởng; tạo nguồn căn cơ, lâu dài cho việc phát triển đội ngũ này. Hoàn thiện chế độ, chính sách ưu tiên đặc biệt cho những người làm công tác tư tưởng, lý luận; có hình thức tôn vinh, khen thưởng bậc cao đối với những người có nhiều đóng góp xuất sắc, đi đôi với ra sức khơi gợi lòng tự hào, nâng cao trách nhiệm và đạo đức nghề nghiệp của đội ngũ cán bộ làm công tác tư tưởng.
Tám là, công tác tư tưởng hiện nay phải góp phần phát huy cao độ ý chí tự lực, tự cường, khơi dậy tinh thần sáng tạo, khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng. Tập trung nâng cao nhận thức, quán triệt thật sâu sắc, thường xuyên, liên tục cho đội ngũ cán bộ, đảng viên nắm vững nội dung những tư tưởng then chốt, thể hiện ở chủ đề của Đại hội XIII là: Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh; khơi dậy khát vọng phát triển đất nước, phát huy ý chí, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại; tiếp tục đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới; xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định; phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Để phát huy ý chí tự lực, tự cường, khơi dậy tinh thần sáng tạo, khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc theo tư tưởng Hồ Chí Minh, công tác tư tưởng phải hướng tới việc tăng cường cung cấp cho đội ngũ cán bộ, đảng viên những nhận thức mới, kiến thức, tư duy mới, quyết tâm cao để có thêm cơ sở, động lực phấn đấu hoàn thành các nhiệm vụ trọng tâm, những đột phá chiến lược mà Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng đã đề ra. Đây là việc làm thiết thực để mỗi cán bộ, đảng viên phát huy cao độ ý chí, trách nhiệm, tinh thần cống hiến, lao động sáng tạo, phụng sự Tổ quốc, dân tộc, phục vụ nhân dân trong sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc./.
_______________________________________
(1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, T.8, tr. 554 – 555.
(2) Xem: Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, T.8, tr. 279 - 280.
(3) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, T.14, tr. 159.
(4) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, T.1, tr. 284.
(5) Nghị quyết số 05-NQ/TW, ngày 28.11.1987, của Bộ Chính trị khóa VI, “Về đổi mới và nâng cao trình độ lãnh đạo, quản lý văn học, nghệ thuật và văn hóa, phát huy khả năng sáng tạo, đưa văn học, nghệ thuật và văn hóa phát triển lên một bước mới”; Nghị quyết số 07-NQ/TW, ngày 24.8.1989, của Hội nghị Trung ương 7 khóa VI, về “Một số vấn đề cấp bách về công tác tư tưởng trước tình hình trong nước và quốc tế hiện nay”; Nghị quyết số 16-NQ/TW, ngày 18.3.2002, Hội nghị Trung ương 5 khóa IX, “Về nhiệm vụ chủ yếu của công tác tư tưởng, lý luận trong tình hình mới”; Nghị quyết số 16-NQ/TW, ngày 1.8.2007, của Hội nghị Trung ương 5 khóa X, “Về công tác tư tưởng, lý luận và báo chí trước yêu cầu mới”; Nghị quyết số 35-NQ/TW, ngày 25.10.2018, của Bộ Chính trị khóa XII, về “Tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới”; Kết luận số 01-KL/TW, ngày 18.5.2021, của Bộ Chính trị khóa XIII, “Về tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW của Bộ Chính trị “Về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh””...
(6), (7) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, T.I, tr. 33, 181.
(8)Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, T.II, tr. 172 - 173.
(9) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, T.II, tr. 234.
Nguồn: Bài đăng trên Tạp chí Cộng sản điện tử ngày 18.8.2022
Bài liên quan
- Hệ thống chính trị Việt Nam truyền thống và hiện đại từ góc nhìn đổi mới
- Tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả
- Giữ gìn và bảo vệ giá trị văn hóa truyền thống các dân tộc ít người, góp phần củng cố, phát triển khối đại đoàn kết toàn dân tộc
- Xu hướng hòa bình, hợp tác, phát triển trên thế giới và vai trò của Việt Nam hiện nay
- Phát huy vai trò của ngành công nghiệp xuất bản trong việc gìn giữ bản sắc văn hóa dân tộc
Xem nhiều
- 1 Video Tư liệu: Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông 30 năm xây dựng và phát triển
- 2 Giữ gìn và bảo vệ giá trị văn hóa truyền thống các dân tộc ít người, góp phần củng cố, phát triển khối đại đoàn kết toàn dân tộc
- 3 Phát triển nguồn nhân lực ở tỉnh Bến Tre: Thực trạng và giải pháp
- 4 Sử dụng ChatGPT trong việc cải thiện kỹ năng viết cho sinh viên học tiếng Anh
- 5 Lễ kỷ niệm và Hội thảo khoa học “30 năm - Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông”
- 6 Lễ kỷ niệm và Hội thảo khoa học “Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông 30 năm xây dựng và phát triển”
Liên kết
- Báo điện tử đảng cộng sản việt nam
- Báo nhân dân
- Báo Quân đội nhân dân
- Cổng thông tin điện tử Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Cổng thông tin điện tử Học viện Chính trị quốc gia hồ chí minh
- Tạp chí Cộng sản
- Tạp chí Giáo dục lý luận
- Tạp chí Giáo dục và Xã hội
- Tạp chí Khoa học xã hội và Nhân văn
- Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam
- Tạp chí Lý luận chính trị
- Tạp chí Nghiên cứu con người
- TẠP CHÍ Nghiên cứu dân tộc
- Tạp chí Người làm báo
- Tạp chí Nội chính
- Tạp chí Quản lý Nhà nước
- Tạp chí Tổ chức Nhà nước
- Tạp chí Tuyên giáo
- Tạp chí Xây Dựng Đảng
- Thư viện số Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Trang thông tin điện tử Hội đồng Lý luận Trung ương
Mấy vấn đề cơ chế tài chính đáp ứng phục vụ nhiệm vụ chiến lược của Học viện Báo chí và Tuyên truyền hiện nay
Học viện Báo chí và Tuyên truyền (Học viện) là đơn vị sự nghiệp công lập, có chức năng đào tạo đại học, sau đại học các ngành lý luận chính trị, báo chí, truyền thông, kinh tế, xây dựng Đảng, quản lý nhà nước, quản lý xã hội…, bồi dưỡng nghiệp vụ cho cán bộ các cấp. Để thực hiện chức năng, nhiệm vụ được giao, Học viện cần có cơ chế tài chính phù hợp nhằm huy động tối đa nguồn lực tài chính và phân phối, sử dụng tiết kiệm, hiệu quả, tạo động lực thúc đẩy hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Trong những năm qua, thực hiện cơ chế tài chính ở Học viện đã có những chuyển biến tích cực, các nguồn thu đảm bảo chi, thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ của Học viện. Tuy nhiên, để đáp ứng nhu cầu nguồn lực tài chính cho chiến lược phát triển giai đoạn mới của Học viện, công tác thực hiện cơ chế quản lý tài chính cần tiếp tục đổi mới, hoàn thiện.
Hệ thống chính trị Việt Nam truyền thống và hiện đại từ góc nhìn đổi mới
Hệ thống chính trị Việt Nam truyền thống và hiện đại từ góc nhìn đổi mới
Nhìn toàn bộ tiến trình lịch sử chính trị của dân tộc, “Hệ thống chính trị” nước ta dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là một thiết chế chính trị mạnh, mô hình này phù hợp với hoàn cảnh Việt Nam và đúng với quy luật vận động của lịch sử. Và, cũng từ thực tế lịch sử, có thể thấy sức mạnh thực sự của Hệ thống chính trị mà chúng ta đang có chủ yếu không phải do tính chất nhất nguyên mà là do uy tín của Đảng, Nhà nước và lãnh tụ Hồ Chí Minh. Sức sống của hệ thống chính trị là sự phù hợp, thống nhất giữa mục đích của Đảng với nguyện vọng của nhân dân, với nhu cầu phát triển của đất nước. Hệ thống chính trị Việt Nam đương đại, trên cơ sở kết tinh các giá trị thiết chế truyền thống gắn với hiện đại không ngừng đổi mới phát triển khẳng định sức mạnh của Hệ thống tổ chức quyền lực Chính trị Việt Nam có vai trò quyết định thành công xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN.
Tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả
Tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả
Xây dựng tổ chức bộ máy hiệu lực, hiệu quả là công việc khó khăn, phức tạp, đòi hỏi sự đoàn kết, thống nhất, dũng cảm, sự hy sinh của từng cán bộ, đảng viên cùng với quyết tâm rất cao của toàn Đảng, cả hệ thống chính trị, trước hết là người đứng đầu cấp ủy, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và đoàn thể các cấp. Tạp chí Cộng sản trân trọng giới thiệu bài viết của đồng chí Tổng Bí thư Tô Lâm về xây dựng hệ thống chính trị với tiêu đề: “Tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả”:
Giữ gìn và bảo vệ giá trị văn hóa truyền thống các dân tộc ít người, góp phần củng cố, phát triển khối đại đoàn kết toàn dân tộc
Giữ gìn và bảo vệ giá trị văn hóa truyền thống các dân tộc ít người, góp phần củng cố, phát triển khối đại đoàn kết toàn dân tộc
Với cộng đồng 54 dân tộc anh em, Việt Nam là quốc gia có nền văn hóa đa dạng, phong phú, có những nét riêng, trở thành tài sản quý giá làm nên bản sắc văn hóa Việt Nam độc đáo, đặc sắc. Giữ gìn và bảo vệ các giá trị di sản văn hóa truyền thống chính là góp phần củng cố phát triển khối đại đoàn kết dân tộc - một sức mạnh nội sinh to lớn và vĩ đại, làm nên mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam, dưới lá cờ vẻ vang của Đảng.
Xu hướng hòa bình, hợp tác, phát triển trên thế giới và vai trò của Việt Nam hiện nay
Xu hướng hòa bình, hợp tác, phát triển trên thế giới và vai trò của Việt Nam hiện nay
Trong bối cảnh hiện nay sự cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn, chạy đua vũ trang, các cuộc xung đột tôn giáo, sắc tộc vẫn diễn ra ở nhiều nơi, đặc biệt là cuộc xung đột quân sự giữa Nga và Ukraina ở Đông Âu, giữa Israel và Palestine vùng các tổ chức hồi giáo ở Trung Đông diễn biến ngày càng căng thẳng đe dọa tới hòa bình, an ninh khu vực và thế giới. Tuy vậy, hòa bình, hợp tác và phát triển vẫn là mục tiêu hướng tới của các nước, là xu hướng chính trị -xã hội tất yếu của nhân loại, từ đó đặt ra vai trò, trách nhiệm của các quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam.
Bình luận