Ngành truyền thông trong làn sóng chuyển đổi số tại Việt Nam
Sức nóng của chuyển đổi số
Ngày nay, không thể phủ nhận sự phát triển của công nghệ trong kỷ nguyên số đã và đang ảnh hưởng trực tiếp tới mọi mặt của xã hội. Các chính phủ trên thế giới đều đã thừa nhận những diễn biến mạnh mẽ của làn sóng cách mạng công nghiệp lần thứ 4 mà ngọn cờ đầu là các công ty công nghệ lớn trên thế giới. Việt Nam cũng không nằm ngoài làn sóng này khi các cơ quan quản lý đã và đang có những động thái tích cực trong việc chú trọng đến phát triển các nền tảng số thực tế đi vào phục vụ đời sống xã hội:
“Đặc biệt, mới đây, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính đã phê duyệt Quyết định 06/QĐ-TTg về Đề án phát triển ứng dụng dữ liệu về dân cư, định danh và xác thực điện tử phục vụ chuyển đổi số quốc gia giai đoạn 2022-2025, tầm nhìn đến năm 2030. Một trong những nội dung quan trọng của Đề án là tới giai đoạn 2023-2025, 100% người dân, doanh nghiệp sử dụng dịch vụ công trực tuyến mức độ 4 được định danh và xác thực điện tử thông suốt, hợp nhất trên tất các các hệ thống thông tin của các cấp chính quyền từ Trung ương đến địa phương.” (Nguồn Báo Chính phủ).
Có thể thấy sự tăng trưởng người dùng Internet với tốc độ gần 10%/ năm, cùng sự phát triển của hàng loạt ứng dụng di động và các dịch vụ số đang thay đổi toàn bộ nhận thức và hành vi của xã hội theo nhiều chiều hướng. Từ các dịch vụ công diện rộng cho đến các dịch vụ tiêu dùng cá nhân vi mô cũng đều chịu sự ảnh hưởng bởi thay đổi về các hành vi công nghệ, từ đó tạo ra những sự chuyển dịch rất lớn về kinh tế của một địa phương hay cả một quốc gia. “Theo tính toán của chuyên gia, quy mô GRDP của nền kinh tế số TP.HCM năm ngoái là 191.768 tỷ đồng (tương đương 8,27 tỷ USD) tương đương tỷ trọng nền kinh tế số trong quy mô GRDP của TP.HCM năm 2021 vào khoảng 13,71% đến 15,72%.” (chuyên gia Phạm Bình An, Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu phát triển (HIDS) - ITC News). Do đó, các hoạt động truyền thông và công tác quản lý truyền thông trong bối cảnh chuyển đổi số cũng sẽ gặp nhiều sự thay đổi sâu rộng để thích ứng được với thị trường và xã hội.
Thập kỷ 2010-2020 chứng kiến sự thay đổi mạnh mẽ của thế giới trong mọi lĩnh vực nhờ sự phổ cập của smartphone. Hoạt động truyền thông chuyên nghiệp cũng dần thay đổi sang giai đoạn phân mảnh quá trình “tập trung” của công chúng, chuyển dịch từ các kênh truyền thông đại chúng (như báo chí, truyền hình, phát thanh,...) sang các kênh truyền thông cá nhân, đặc biệt là mạng xã hội. Các doanh nghiệp đang tự chủ được các kênh truyền thông bằng nội dung hiệu quả để làm cầu nối với khách hàng. Trong lĩnh vực truyền thông nhà nước, chính phủ và các tổ chức cũng đã sử dụng mạng xã hội như một kênh giao tiếp chính thống với người dân với các hình thức nội dung sáng tạo hơn.
Facebook phải mất đến 8,7 năm để đạt đến 1 tỷ người dùng thì Tiktok chỉ mất 5,1 năm; dường như nhanh nhất thế giới khi không tính đến Messenger - ứng dụng phái sinh hưởng lợi rất nhiều từ ứng dụng mẹ Facebook. Và sự thành công của Tiktok không đến từ sự may mắn mà hoàn toàn là sự thành công của công nghệ lõi: Trí thông minh nhân tạo (AI). Toàn bộ nội dung của Tiktok được phân phối bởi các robot AI tới người xem. Công nghệ máy học (machine learning hay deep learning) khiến cho các robot này liên tục cập nhật các hành vi, thói quen của người xem, dẫn đến việc các nội dung tiếp theo được phân phối ngày càng đúng nhu cầu và sở thích của công chúng hơn. Ngay sau đó là Youtube cũng ra mắt tính năng Short vào tháng 7.2021 và Facebook cũng thử nghiệm Reels vào tháng 9.2021, tất cả đều là định dạng nội dung video ngắn. Có thể thấy, người làm truyền thông chỉ trong vòng 1 thập kỷ qua đã phải liên tục thích ứng với các kênh truyền thông mới được phát triển liên tục với tốc độ cao từ các nhà phát triển công nghệ. Cũng chính sự chuyển dịch này đã tạo ra rất nhiều bài toán mới cho những người quản lý truyền thông trong các tổ chức, doanh nghiệp.
Bài toán mới của truyền thông trong kỷ nguyên số hóa
Các hoạt động quản lý truyền thông từ trước đến nay đã rất phức tạp khi bị chi phối bởi các yếu tố đặc thù về xã hội: văn hóa, con người, mối quan hệ xã hội, kinh tế, chính trị,... nhưng ngày nay các hoạt động đó đang đứng trước những thách thức mới về công nghệ. Trong những lần cách mạng công nghiệp, khi các công cụ sản xuất và các phương thức, quan hệ sản xuất mới được hình thành, truyền thông và tiếp thị cũng đã phải thay đổi theo từng nhịp bước của chúng và lần cách mạng công nghiệp thứ 4 này cũng không ngoại lệ.
Có thể kể đến những thách thức điển hình dành cho quản lý truyền thông trong bối cảnh chuyển đổi số như:
Công chúng có thể tương tác trực tiếp với các nội dung trực tuyến, tốc độ phản hồi nhanh chóng nên việc kiểm soát được những thông tin tiêu cực là thách thức không nhỏ. Cùng với đó là yếu tố liên văn hóa khi phạm vi truyền thông dễ dàng mở rộng ra các đối tượng trong và ngoài khu vực bản địa;
Việc phụ thuộc vào các nền tảng số quốc tế đồng nghĩa với việc phải chấp nhận các quy định và chế tài của các dịch vụ và nền tảng đó;
Xuất hiện thêm các nghiệp vụ mới và vị trí nhân sự mới về kỹ thuật viên sử dụng công cụ quảng cáo, nhà phân tích dữ liệu,... Những vị trí này cũng đòi hỏi những nhà quản lý nắm được chuyên môn để tổ chức và vận hành;
Về mặt khách quan, các thuật toán, tính năng của các công cụ và nền tảng liên tục được cập nhật ảnh hưởng trực tiếp tới các nghiệp vụ kỹ thuật cần đổi mới theo;
Sự liên kết và đồng bộ liên bộ phận trong một tổ chức, doanh nghiệp để quản lý như CRM (Hệ thống quản trị khách hàng), ERP (Hệ thống hoạch định nguồn lực doanh nghiệp), CMS (Hệ thống quản trị nội dung),... Các hệ thống này đã vượt ngoài biên giới của lĩnh vực IT và yêu cầu những nhà quản lý truyền thông có cái nhìn đi từ tổng quan đến sâu sắc hơn;
Kiểm soát khối lượng lớn các dữ liệu số đòi hỏi các nhà quản lý truyền thông cần hiểu và khai thác được các giá trị hữu quan; suy luận và đưa ra các quyết sách đúng đắn cho các chiến lược truyền thông dựa trên các chỉ số thực tế;
Nắm bắt và hiểu được các hành vi số và ý thức số của công chúng đang dần thay đổi trực tiếp tới các mô hình truyền thông đương thời;
Và bên cạnh đó là rất nhiều các thách thức khác trong bối cảnh chuyển đổi số đang diễn ra nhanh chóng, sâu và rộng trong xã hội. Các khó khăn và thách thức này diễn ra trong mọi khía cạnh và nghiệp vụ truyền thông. Không chỉ thế, nó còn ảnh hưởng tới các tổ chức ở bất kỳ quy mô nào: từ chính phủ, các tập đoàn, các tổ chức phi chính phủ, các doanh nghiệp SME, cá nhân,...
Việc phân tích số liệu, nhiều chỉ số, chắt lọc được dữ liệu truyền thông rất lớn từ nhiều nguồn đòi hỏi những kỹ năng phức tạp không kém như phân tích báo cáo tài chính. Để đưa ra một nhận định đúng đắn về hiệu quả truyền thông, so sánh với năng lực và thời gian mà nội bộ dành cho chiến dịch (KPI), so sánh với sự tăng trưởng về nhận thức, hành vi của công chúng và nhiều yếu tố khác là những thử thách rất lớn cho người làm truyền thông chuyên nghiệp.
Việc nâng cao các kỹ năng nghiệp vụ này cho các nhà hoạt động truyền thông hoàn toàn có thể, song việc áp dụng những kết quả truyền thông để định hướng song hành cùng vấn đề kinh doanh thực tiễn của doanh nghiệp hay thay đổi, cải tiến chính sách của nhà nước,... một cách đúng đắn cho những giai đoạn tiếp theo lại là một bài toán lớn hơn nữa.
Cơ hội mới cho người làm truyền thông
Bên cạnh những thách thức trên cũng là những cơ hội và các con đường mới cho những người làm truyền thông chuyên nghiệp. Chắc chắn những công nghệ mới ra đời để cải thiện và giảm tải sức lao động chân tay, các nghiệp vụ truyền thông cũng sẽ hưởng lợi từ những công cụ mới của thời đại.
Yếu tố “chuyên môn hóa” sẽ là chìa khóa để giải quyết câu chuyện chuyển đổi số ảnh hưởng tới các hoạt động quản lý truyền thông. Việc xuất hiện thêm các nghiệp vụ mới cũng sẽ tạo ra các vị trí nhân sự mới về kỹ thuật viên sử dụng công cụ quảng cáo, nhà phân tích dữ liệu,... Các nhà quản lý bên cạnh việc nâng cao nhận thức về chuyển đổi số cho bản thân, việc xác định yếu tố con người là then chốt cũng rất quan trọng. Việc chuyên môn hóa các nghiệp vụ có tính chất kỹ thuật và công nghệ sẽ giúp việc cập nhật các công nghệ quản lý mới, các hoạt động truyền thông mới diễn ra nhanh chóng và hiệu quả hơn.
Sự thuận tiện của công nghệ đang giúp các hoạt động quản lý truyền thông trở nên đơn giản hơn rất nhiều. Nếu ngày trước muốn đo lường hiệu quả truyền thông sẽ phải phụ thuộc vào các báo cáo của rating đài truyền hình, số lượng bản in báo giấy, lưu lượng truy cập bài báo điện tử,... đều do các chủ sở hữu kênh cung cấp, nay các tổ chức, doanh nghiệp đã có thể tự theo dõi và quản lý mọi hoạt động truyền thông theo thời gian thực (real-time management). Hiện nay, tất cả các kênh truyền thông số đều cung cấp những số liệu trực tuyến, báo cáo thời gian thực cho người làm truyền thông.
Với các tính năng sẵn có của các nền tảng ứng dụng trí tuệ thông minh nhân tạo trong việc phân phối nội dung, điều này có thể giúp việc quảng bá hình ảnh, thông tin của doanh nghiệp, tổ chức, chính phủ tới công chúng đích chuẩn xác hơn, không bị pha trộn bởi những tập công chúng khác. Bên cạnh đó còn là hàng loạt các thuận lợi của các công nghệ đang trong trứng nước như: VR (Thực tế ảo), AR (Thực tế ảo tăng cường), Metaverse,... sẽ là những môi trường rất tiềm năng cho những người làm truyền thông chuyên nghiệp khai thác và quản lý.
Cần làm truyền thông chuyên nghiệp
Có thể chỉ ra một số nhiệm vụ trọng tâm của những nhà quản lý truyền thông chuyên nghiệp như sau:
- Đào tạo và tự đào tạo bản thân và đội ngũ trong việc cập nhật các kiến thức về kỹ thuật, quy định, chế tài của các kênh truyền thông mới;
- Tập trung chuyên môn hóa các vị trí để đạt hiệu quả cao trong toàn bộ chu trình truyền thông và tiếp thị;
- Đổi mới tư duy số, ý thức số, chú trọng kết hợp và cập nhật các kiến thức từ các bộ phận, công ty công nghệ hữu quan để tìm ra các giải pháp truyền thông mới nhằm tối ưu nguồn lực và chi phí;
- Tối ưu hóa đa dạng nội dung truyền thông phù hợp với từng kênh tải và sẵn sàng cho các kịch bản truyền thông đa kênh;
- Cập nhật và đổi mới dần các nghiệp vụ, mô hình, phương thức truyền thông khi xã hội sản sinh ra các hành vi và ý thức mới do tác động của công nghệ.
Ở thời đại công nghiệp nào thì truyền thông và tiếp thị cũng cần tối ưu hóa để thích ứng và tất cả đều không nằm ngoài các hành vi của con người.
Với nền tảng lý thuyết về các vấn đề xã hội học trong truyền thông không hề thay đổi, những người làm truyền thông chuyên nghiệp hoàn toàn có thể hòa nhập cùng làn sóng chuyển đổi số để có thể cải tiến, nâng cấp các nghiệp vụ công tác quản lý truyền thông của mình trong tương lai. Song các yếu tố hữu quan như nguồn lực con người, thay đổi tư duy số, ý thức số hay sự nhìn nhận, phân tích dữ liệu đúng đắn… cũng là những thử thách lớn cho toàn ngành./.
Nguồn: Bài đăng trên Tạp chí Người Làm báo điện tử ngày 9.5.2022
Bài liên quan
- Quản trị truyền thông ứng phó với thiên tai của Đài Truyền hình Việt Nam trong bối cảnh truyền thông số hiện nay
- Công tác thông tin về thị trường chứng khoán và trái phiếu doanh nghiệp trên báo mạng điện tử Việt Nam hiện nay: Vấn đề đặt ra và một số khuyến nghị
- Quản trị truyền thông thương hiệu ngân hàng thương mại cổ phần vốn nhà nước chi phối ở Việt Nam
- Văn hóa tham gia truyền thông số hậu Covid-19 ở Việt Nam (từ tham chiếu khung lý thuyết của Jenkins)
- Hoạt động marketing bền vững của các thương hiệu Unilever và Coca Cola tại Việt Nam hiện nay
Xem nhiều
-
1
Phim Tài liệu: Video Khoa xây dựng Đảng 50 năm Xây dựng và Phát triển
-
2
Quản lý thông tin thị trường bất động sản trên tạp chí điện tử Việt Nam hiện nay
-
3
Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ các cơ quan chuyên trách, tham mưu giúp việc Đảng ủy đặc khu Bạch Long Vĩ, thành phố Hải Phòng hiện nay
-
4
Tác động của truyền thông thương hiệu đến giá trị cảm nhận và sự gắn bó của sinh viên tại các trường đại học kỹ thuật ở Hà Nội
-
5
Giải pháp tăng cường định hướng hành vi tiếp nhận thông tin báo chí trên nền tảng facebook của sinh viên hệ 9+
-
6
Tăng cường sự lãnh đạo của Thành ủy Hải Phòng trong phát triển dịch vụ logistics hiện nay
Liên kết
- Báo điện tử đảng cộng sản việt nam
- Báo nhân dân
- Báo Quân đội nhân dân
- Cổng thông tin điện tử Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Cổng thông tin điện tử Học viện Chính trị quốc gia hồ chí minh
- Tạp chí Cộng sản
- Tạp chí Giáo dục lý luận
- Tạp chí Giáo dục và Xã hội
- Tạp chí Khoa học xã hội và Nhân văn
- Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam
- Tạp chí Lý luận chính trị
- Tạp chí Nghiên cứu con người
- TẠP CHÍ Nghiên cứu dân tộc
- Tạp chí Người làm báo
- Tạp chí Nội chính
- Tạp chí Quản lý Nhà nước
- Tạp chí Tổ chức Nhà nước
- Tạp chí Tuyên giáo
- Tạp chí Xây Dựng Đảng
- Thư viện số Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Trang thông tin điện tử Hội đồng Lý luận Trung ương
Nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên Công an nhân dân đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục và đào tạo trong tình hình mới
Trong bối cảnh hội nhập quốc tế sâu rộng và cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0, sự nghiệp bảo vệ an ninh quốc gia, giữ gìn trật tự an toàn xã hội đang đứng trước nhiều cơ hội và thách thức lớn. Để đáp ứng yêu cầu thực tiễn đặt ra, ngành Công an nhân dân (CAND) phải không ngừng đổi mới, nâng cao chất lượng toàn diện các mặt công tác, trong đó, giáo dục và đào tạo (GD&ĐT) đóng vai trò then chốt. Thời gian qua, Đảng ủy Công an Trung ương, lãnh đạo Bộ Công an luôn dành sự quan tâm đặc biệt tới công tác GD&ĐT, nhất là nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên CAND. Thực hiện chủ trương và sự chỉ đạo tập trung thống nhất của Đảng ủy Công an Trung ương và lãnh đạo Bộ Công an, Cục Đào tạo cùng các đơn vị chức năng, các học viện, trường CAND đã thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp để nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới.
Quản trị truyền thông ứng phó với thiên tai của Đài Truyền hình Việt Nam trong bối cảnh truyền thông số hiện nay
Quản trị truyền thông ứng phó với thiên tai của Đài Truyền hình Việt Nam trong bối cảnh truyền thông số hiện nay
Bài viết tập trung phân tích hoạt động và hiệu quả quản trị truyền thông ứng phó với thiên tai của Đài Truyền hình Việt Nam (ĐTHVN) trong bối cảnh truyền thông số, dựa trên phân tích nội dung tác phẩm và khảo sát ý kiến công chúng theo dõi các kênh truyền thông của ĐTHVN. Nghiên cứu chỉ ra rằng: hệ thống truyền thông ứng phó với thiên tai của ĐTHVN đã đảm bảo tính chính xác và kịp thời, song vẫn còn thiếu cơ chế phản hồi hai chiều và quản trị dữ liệu liên thông. Từ đó, bài viết đề xuất mô hình “quản trị truyền thông ứng phó thiên tai bốn tầng”, hướng đến mục tiêu xây dựng năng lực quản trị thông tin quốc gia trong điều kiện số hóa toàn diện.
Công tác thông tin về thị trường chứng khoán và trái phiếu doanh nghiệp trên báo mạng điện tử Việt Nam hiện nay: Vấn đề đặt ra và một số khuyến nghị
Công tác thông tin về thị trường chứng khoán và trái phiếu doanh nghiệp trên báo mạng điện tử Việt Nam hiện nay: Vấn đề đặt ra và một số khuyến nghị
Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 4/5/2025 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân, trong đó nhấn mạnh yêu cầu “đẩy mạnh công tác truyền thông, nâng cao chất lượng, hiệu quả thông tin tuyên truyền” cũng như “nghiêm cấm các hành vi đưa thông tin sai lệch, không chính xác, ảnh hưởng đến doanh nghiệp, doanh nhân”. Đây là vừa là định hướng chiến lược, vừa là yêu cầu đối với báo chí trong giai đoạn mới, trong đó, có hoạt động thông tin thị trường chứng khoán, trái phiếu doanh nghiệp (TTCK, TPDN). Hoạt động thông tin báo chí về TTCK, TPDN có vai trò quan trọng. Tuy nhiên, nghiên cứu thông tin về TTCK và TPDN trên báo chí nói chung, báo mạng điện tử (BMĐT) nói riêng là cần thiết nhằm góp phần nâng cao chất lượng truyền thông, định hướng dư luận xã hội, bảo vệ doanh nghiệp, nhà đầu tư và thúc đẩy thị trường phát triển theo hướng lành mạnh, bền vững.
Quản trị truyền thông thương hiệu ngân hàng thương mại cổ phần vốn nhà nước chi phối ở Việt Nam
Quản trị truyền thông thương hiệu ngân hàng thương mại cổ phần vốn nhà nước chi phối ở Việt Nam
Trong hệ thống tài chính - ngân hàng Việt Nam, các ngân hàng thương mại cổ phần (TMCP) có vốn nhà nước chi phối vừa là chủ thể kinh doanh, vừa thực thi mục tiêu ổn định vĩ mô, nên thương hiệu mang bản chất thể chế - thương mại, gắn với niềm tin về sự an toàn, minh bạch. Trong bối cảnh chuyển đổi số và cạnh tranh gia tăng, quản trị truyền thông (QTTT) thương hiệu của các ngân hàng này đối mặt “nghịch lý thể chế - tốc độ”: cơ chế quản trị nhiều tầng kiểm soát bảo đảm an toàn nhưng làm chậm phản ứng trước dòng chảy thông tin nhanh. Dựa trên khung lý thuyết về thương hiệu thể chế cùng dữ liệu khảo sát khách hàng và phỏng vấn cán bộ truyền thông do tác giả thực hiện, bài báo nhận diện ba biểu hiện của nghịch lý này và đề xuất tiếp cận QTTT thương hiệu như năng lực điều hành niềm tin thể chế, với ba trụ cột: quyền lực truyền thông; xây dựng hệ thông dữ liệu và cảnh báo sớm; thiết lập chế độ đối thoại với các nhóm công chúng.
Văn hóa tham gia truyền thông số hậu Covid-19 ở Việt Nam (từ tham chiếu khung lý thuyết của Jenkins)
Văn hóa tham gia truyền thông số hậu Covid-19 ở Việt Nam (từ tham chiếu khung lý thuyết của Jenkins)
Hai thập niên đầu thế kỷ XXI chứng kiến sự chuyển dịch mạnh mẽ từ mô hình truyền thông phát tán một chiều sang hệ sinh thái số tương tác, nơi công chúng không chỉ tiếp nhận mà còn đồng sáng tạo nội dung. Đại dịch Covid-19 (2020-2022) đã thúc đẩy quá trình chuyển đổi số, gia tăng mức độ tham gia của công dân trên các nền tảng trực tuyến. Dựa trên khung lý thuyết “văn hóa tham gia” của Henry Jenkins, bài viết hệ thống hóa khái niệm và các mức độ tham gia, mô tả bối cảnh truyền thông số hậu đại dịch trên bình diện toàn cầu và tại Việt Nam, đồng thời phân tích các biểu hiện, xu hướng, cũng như thách thức trong thực tiễn Việt Nam.
llcttt1994dientu@gmail.com
024.38348033
Bình luận