Nhận diện và phản bác các quan điểm sai trái, thù địch về vấn đề bất bình đẳng dân tộc
Bình đẳng giữa các dân tộc là nguyên tắc cơ bản, nhất quán trong xây dựng và thực thi chính sách dân tộc của Đảng, Nhà nước Việt Nam. Nhờ vậy, trong những năm qua đời sống của đồng bào các DTTS được nâng lên đáng kể, diện mạo vùng DTTS và miền núi ngày càng thay đổi theo hướng tích cực.
Tuy vậy, so với mặt bằng chung của cả nước, đời sống của đồng bào các DTTS vẫn còn nhiều khó khăn, kinh tế - xã hội vùng DTTS và miền núi phát triển còn chậm. Lợi dụng điều này, các thế lực thù địch, phản động ra sức rêu rao rằng, đồng bào các DTTS đang chịu bất bình đẳng dân tộc so với đồng bào đa số, cụ thể là:
Thứ nhất, trên lĩnh vực kinh tế:
Lợi dụng sự chênh lệch về trình độ phát triển kinh tế- xã hội giữa dân tộc Kinh và đồng bào DTTS và những bất cập trong quá trình thực hiện chính sách dân tộc ở một số địa phương, các thế lực thù địch đã xuyên tạc rằng, Đảng, Nhà nước đối xử không công bằng, chỉ chăm lo cho người Kinh mà không chăm lo cho đồng bào DTTS, khiến cho cuộc sống của đồng bào khó khăn, nghèo đói (?!).
Khi Đảng, Nhà nước đầu tư các nguồn lực để xây dựng các công trình, dự án ở vùng đồng bào DTTS chúng lại rêu rao rằng, việc đầu tư đó chủ yếu tập trung ở các thị trấn, thị tứ, thành phố với mục đích là để phục vụ người Kinh và cán bộ, công chức trong chính quyền của người Kinh chứ không phải dành cho đồng bào DTTS (?!).
Chúng còn lợi dụng những hiện tượng cục bộ do lịch sử để lại để vu cáo Đảng, Nhà nước ta đã tạo điều kiện cho người Kinh cướp đất của đồng bào DTTS, do vậy, đồng bào mới thiếu đất ở, thiếu đất sản xuất và mới đói nghèo (?!).
Ở các vùng DTTS, cùng với những khó khăn về điều kiện địa lý, tự nhiên, môi trường là những hậu quả của chế độ phong kiến, thực dân để lại đã tạo ra sự chênh lệch về trình độ phát triển kinh tế - xã hội giữa người Kinh và đồng bào DTTS. Đảng và Nhà nước ta đã có rất nhiều cố gắng để rút ngắn khoảng cách chênh lệch này. Đảng ta khẳng định: “Huy động, phân bổ, sử dụng, quản lý hiệu quả các nguồn lực để đầu tư phát triển, tạo sự chuyển biến căn bản về kinh tế, văn hoá, xã hội ở vùng có đồng bào dân tộc thiểu số”(1).
Đặc biệt, Đảng, Nhà nước rất chú trọng phát huy tính tích cực, ý chí tự lực, tự cường của đồng bào DTTS trong phát triển kinh tế- xã hội. Nhờ vậy, đời sống của đồng bào DTTS, tình hình kinh tế - xã hội ở vùng DTTS ngày càng được cải thiện. Tính đến tháng 6/2021, 100% huyện vùng DTTS có đường đến trung tâm huyện; 98% xã có đường ô tô đến trung tâm xã, 100% xã và 97,2% thôn bản có điện lưới quốc gia; 93,9% hộ gia đình được sử dụng điện; 100 % xã có trường tiểu học và trung học cơ sở; 99,7 % xã có trường mần non; 99,3%; 99,3% xã có trạm y tế; 65,8% xã và 76,7% thôn có nhà văn hóa/nhà sinh hoạt cộng đồng(2). Tuy vậy, để đời sống của đồng bào DTTS và kinh tế - xã hội ở vùng DTTS phát triển ngang bằng với các vùng khác đòi hỏi phải có thời gian, không thể nôn nóng được.
Thứ hai, trên lĩnh vực chính trị
Các thế lực thù địch, phản động liên tục rêu rao rằng, đồng bào DTTS không được tham gia bình đẳng vào đời sống chính trị của đất nước như người Kinh, đồng bào DTTS không có quyền hành gì đối với đất nước (?!). Lợi dụng nhận thức chưa đầy đủ của một bộ phận đồng bào DTTS, chúng còn tuyên truyền, Đảng, Nhà nước Việt Nam khẳng định lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng tư tưởng nhưng thực chất đang làm trái với quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về quyền dân tộc tự quyết! Từ đó chúng đã kích động đồng bào các DTTS (Mông, Chăm, Êđê, Bana, Khơme) đòi tách ra thành lập nhà nước riêng để bảo đảm quyền lợi của mình.
Sau khi Liên hợp quốc thông qua “Tuyên ngôn về quyền của người bản địa” (2007), trong đó từ Điều 1 đến Điều 5 của Tuyên ngôn này nói rằng: Các dân tộc bản địa có quyền tự quyết. Trên tinh thần đó họ có quyền tự do quyết định tình trạng chính trị và tự do mưu cầu phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội. Các thế lực thù địch, phản động đã cố tình đánh tráo khái niệm, gọi một số dân tộc thiểu số tại chỗ như: đồng bào Chăm ở duyên hải miền Trung, đồng bào Khơme ở Tây Nam Bộ, đồng bào Êđê, Bana ở Tây Nguyên là các dân tộc bản địa và từ đó rêu rao rằng, các dân tộc bản địa này bị các nông, lâm trường của người Kinh và người Kinh cướp đất, vì vậy phải tách ra thành lập nhà nước riêng để đòi lại những gì “thuộc về” mình (?!).
Trên thực tế, Đảng, Nhà nước ta luôn tạo cơ hội, điều kiện để đồng bào DTTS tham gia xây dựng hệ thống chính trị, quản lý đất nước. Đặc biệt, Đảng, Nhà nước rất chú trọng đến chính sách phát triển đội ngũ cán bộ DTTS. Nhờ đó, đội ngũ cán bộ DTTS tham gia vào các cơ quan Đảng, Nhà nước ngày càng tăng về số lượng và nâng cao về chất lượng. Kết quả bầu cử tại 67 đảng bộ trực thuộc Trung ương nhiệm kỳ 2020-2025 có 11,68% cấp ủy viên người DTTS (cao hơn nhiệm kỳ trước 0,72%). Tại Đại hội XIII của Đảng có 13 Ủy viên Trung ương Đảng là người DTTS. Tại Quốc hội khóa XV có 89 đại biểu người DTTS, chiếm 17, 84% số đại biểu (là tỷ lệ cao nhất từ trước đến nay).
Chủ nghĩa Mác - Lênin về quyền dân tộc là nói đến quyền của các dân tộc quốc gia (nation) trong hoàn cảnh chủ nghĩa chủ nghĩa tư bản đã phát triển thành chủ nghĩa đế quốc đi xâm chiếm thuộc địa, các dân tộc thuộc địa (nation) có quyền tự quyết/tách ra để thành lập quốc gia độc lập. Việc các thế lực thù địch đánh tráo khái niệm dân tộc quốc gia (nation) với khái niệm dân tộc tộc người (ethnic) để rêu rao Đảng, Nhà nước ta làm trái với quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin là sự xuyên tạc trắng trợn.
Khái niệm “người bản địa” có nguốn gốc lịch sử gắn liền với thời kỳ chủ nghĩa đế quốc đi xâm chiếm, áp đặt sự thống trị ở các nước thuộc địa. Ở các nước này có 2 tầng lớp người: một là những “quan cai trị” và những người di cư đến làm ăn có quan hệ mật thiết với bộ máy cai trị và một là cộng đồng những người dân thuộc địa, bị thống trị được gọi là “người bản địa” hoặc “người bản xứ”. Ở Việt Nam, khi chế độ thực dân xâm lược bị đánh đổ thì khái niệm “người bản địa” cũng không còn cơ sở tồn tại. Đây là một sự thật lịch sử không thể bác bỏ.
Việc các thế lực thù địch kích động lợi dụng sự hiểu biết chưa đầy đủ của một bộ phận đồng bào DTTS để kích động tư tưởng ly khai, tự trị, để đồng bào đòi tách ra thành lập quốc gia riêng là hành động gây chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc ở nước ta.
Thứ ba, trên lĩnh vực văn hóa - xã hội
Trước những thay đổi về văn hóa - xã hội ở các vùng DTTS theo hướng hiện đại, tiến bộ, các thế lực thù địch, phản động vu khống Đảng, Nhà nước Việt Nam không tôn trọng bản sắc, văn hóa truyền thống của đồng bào DTTS, cố tình “đồng hóa về văn hóa” ở vùng đồng bào DTTS theo văn hóa người Kinh để “Kinh hóa đồng bào DTTS” (?!).
Trước những khó khăn về y tế, giáo dục ở vùng đồng bào DTTS, chúng rêu rao rằng, chính quyền của người Kinh ngược đãi đồng bào DTTS, không chú ý đến việc chăm sóc sức khỏe, nâng cao dân trí ở vùng DTTS để “dễ bề cai trị” (?!).
Đảng, Nhà nước Việt Nam đã dành nhiều sự quan tâm để giữ gìn, phát triển văn hóa truyền thống của các DTTS, gắn với phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”. Đến nay, đã có 03 di tích quốc gia, 08 di tích lịch sử - văn hoá, danh lam, thắng cảnh liên quan đến đồng bào DTTS được xếp hạng di tích quốc gia; có 126 di sản văn hóa phi vật thể, 276 nghệ nhân ưu tú là người DTTS. Đã chính thức tổ chức dạy và học 06 thứ tiếng DTTS: Mông, Khmer, Chăm, Giarai, Bana, Êđê. Việc tổ chức dạy và học tiếng DTTS được triển khai ở 23 tỉnh, thành phố. Có 95% xã được phủ sóng phát thanh, truyền hình (có nhiều chương trình/kênh phát bằng tiếng DTTS)(3);100% xã có điện thoại cố định và di động; 81,5% số xã có hệ thống loa truyền thanh đến thôn.
Để tạo cơ hội, điều kiện cho con em đồng bào DTTS học tập, Đảng, Nhà nước đã triển khai các chính sách: cử tuyển, đào tạo có địa chỉ…, đầu tư xây dựng 3.126 trường phổ thông dân tộc nội trú tại 49 tỉnh, thành phố, 4 trường dự bị đại học, 1 trường phổ thông dân tộc nội trú có chương trình dự bị đại học và 3 khoa dự bị đại học cho con em đồng bào DTTS tại các trường đại học(4).
Những kết quả đáng ghi nhận này chứng minh tính đúng đắn, hiệu quả của các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước trong việc phát triển văn hóa - xã hội ở vùng DTTS, chứ không phải như luận điệu vu khống trắng trợn của các thế lực thù địch.
Những luận điệu hết sức thâm độc kể trên của các thế lực thù địch, phản động đã làm xói mòn niềm tin của một bộ phận đồng bào DTTS với Đảng, Nhà nước; phá vỡ khối đại đoàn kết dân tộc; tạo ra nhiều nguy cơ phức tạp về an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội, đe doạ đến an ninh quốc gia. Vì vậy chúng ta cần vạch rõ thực chất những luận điệu vu khống, xuyên tạc của chúng./.
(1) Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. CTQG ST, HN. , T.I, tr.170.
(2), (4) Ủy ban Dân tộc, Báo cáo 732/BC- UBDT ngày 10/6/221 về tổng kết chiến lược công tác dân tộc đến năm 2020.
(3) Chính phủ (2018): Báo cáo đánh giá kết quả 3 năm thực hiện chính sách hỗ trợ phát riển kinh tế - xã hội vùng dân tộc thiểu số và miền núi.
Nguồn: Bài đăng trên trang Việt Nam thịnh vượng ngày 15/11/2022
Bài liên quan
- Giáo dục liêm chính cho đội ngũ cán bộ, công chức nhằm phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam hiện nay
- Vai trò của Đảng Hành động Nhân dân trong quá trình hiện đại hóa Singapore và giá trị tham chiếu đối với Đảng Cộng sản Việt Nam
- Nhận diện, đấu tranh, phản bác các quan điểm sai trái về nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
- Nâng cao chất lượng công tác giáo dục phẩm chất chính trị trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng cho sinh viên chuyên ngành Triết học
- Phát huy vai trò của báo chí trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng
Xem nhiều
-
1
Thông tin thích ứng với biến đổi khí hậu ở Đồng bằng sông Cửu Long trên truyền hình Việt Nam hiện nay
-
2
Trẻ tự kỷ trên báo chí: Từ hình ảnh “nạn nhân” đến người hùng - Một nghiên cứu phân tích khung truyền thông
-
3
Giáo dục liêm chính cho đội ngũ cán bộ, công chức nhằm phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam hiện nay
-
4
Vai trò của lòng biết ơn trong truyền thông giáo dục tại các trường học: Từ góc độ lý thuyết
-
5
Chính quyền Thành phố Hồ Chí Minh thực hiện chính sách nhà ở xã hội - Thực trạng và giải pháp
-
6
Giải pháp tăng cường vai trò lãnh đạo của Tỉnh ủy Phú Thọ trong phát triển kinh tế hiện nay
Liên kết
- Báo điện tử đảng cộng sản việt nam
- Báo nhân dân
- Báo Quân đội nhân dân
- Cổng thông tin điện tử Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Cổng thông tin điện tử Học viện Chính trị quốc gia hồ chí minh
- Tạp chí Cộng sản
- Tạp chí Giáo dục lý luận
- Tạp chí Giáo dục và Xã hội
- Tạp chí Khoa học xã hội và Nhân văn
- Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam
- Tạp chí Lý luận chính trị
- Tạp chí Nghiên cứu con người
- TẠP CHÍ Nghiên cứu dân tộc
- Tạp chí Người làm báo
- Tạp chí Nội chính
- Tạp chí Quản lý Nhà nước
- Tạp chí Tổ chức Nhà nước
- Tạp chí Tuyên giáo
- Tạp chí Xây Dựng Đảng
- Thư viện số Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Trang thông tin điện tử Hội đồng Lý luận Trung ương
Ảnh hưởng của tính minh bạch và cá nhân hóa trong nền tảng VieON đến sự hài lòng của người dùng
Nghiên cứu này kiểm định mô hình mối quan hệ giữa nhận thức về đề xuất nội dung, cảm nhận kiểm soát, mức độ hài lòng và ý định tiếp tục sử dụng, với trường hợp điển hình là VieON. Khảo sát trực tuyến được thực hiện với 224 người dùng, sử dụng các thang đo đã kiểm định qua Cronbach’s Alpha, EFA, phân tích tương quan và hồi quy tuyến tính, đồng thời kiểm soát các biến giới tính, độ tuổi và tần suất sử dụng. Kết quả cho thấy độ phù hợp và minh bạch (FT) là yếu tố quyết định cả sự hài lòng và ý định sử dụng, trong khi tính hữu ích của gợi ý (RU) chỉ có tác động bổ sung và không còn ý nghĩa khi dự báo sự hài lòng. Mức độ hài lòng (SAT) không giữ vai trò trung gian quan trọng, do ảnh hưởng trực tiếp mạnh mẽ từ FT và RU. Các đặc điểm nhân khẩu học cũng tạo ra khác biệt đáng kể. Nghiên cứu khẳng định minh bạch và cá nhân hóa trong hệ thống gợi ý là đòn bẩy chiến lược giúp các nền tảng OTT củng cố niềm tin và lòng trung thành của người dùng.
Giáo dục liêm chính cho đội ngũ cán bộ, công chức nhằm phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam hiện nay
Giáo dục liêm chính cho đội ngũ cán bộ, công chức nhằm phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam hiện nay
Trong những năm gần đây, công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng (PCTN) ở Việt Nam đã được đẩy mạnh, với quyết tâm chính trị cao, và trên thực tế cũng đã đạt nhiều kết quả khả quan. Tuy nhiên, vẫn xảy ra tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, công chức; tình trạng tham nhũng vẫn có những diễn biến phức tạp. Thực tế đó đặt ra yêu cầu phải tăng cường các biện pháp phòng ngừa tham nhũng từ gốc. Một giải pháp mang tính nền tảng là phải giáo dục liêm chính cho đội ngũ cán bộ, công chức. Đây được xem là chìa khóa giúp định hình phẩm chất “gốc” cho cán bộ, công chức, giúp xây dựng văn hóa “không muốn tham nhũng” ngay từ trong nhận thức của mỗi cá nhân.
Vai trò của Đảng Hành động Nhân dân trong quá trình hiện đại hóa Singapore và giá trị tham chiếu đối với Đảng Cộng sản Việt Nam
Vai trò của Đảng Hành động Nhân dân trong quá trình hiện đại hóa Singapore và giá trị tham chiếu đối với Đảng Cộng sản Việt Nam
Bài viết tập trung vào ba nội dung chính: (1) Phân tích sự hình thành và phát triển của Đảng Hành động Nhân dân, nhấn mạnh những yếu tố then chốt tạo nên sức mạnh và sự bền vững của Đảng; (2) Phân tích những ưu điểm nổi bật trong chủ trương, chính sách của Đảng Hành động Nhân dân đã giúp Singapore đạt được thành tựu như ngày nay; (3) Từ đó, rút ra những giá trị tham chiếu cho Đảng Cộng sản Việt Nam và đề xuất các giải pháp cụ thể để vận dụng những giá trị đó, nhằm thúc đẩy Việt Nam phát triển trong kỷ nguyên mới.
Nhận diện, đấu tranh, phản bác các quan điểm sai trái về nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Nhận diện, đấu tranh, phản bác các quan điểm sai trái về nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Trong bối cảnh toàn cầu hóa và bùng nổ thông tin, các thế lực thù địch gia tăng hoạt động chống phá, xuyên tạc và phủ nhận Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (XHCN) Việt Nam. Trước tình hình đó, việc nhận diện đúng các quan điểm sai trái của các thế lực thù địch là yêu cầu cấp thiết, tạo cơ sở lý luận và thực tiễn cho công tác đấu tranh, phản bác các quan điểm sai trái, bảo vệ Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam.
Nâng cao chất lượng công tác giáo dục phẩm chất chính trị trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng cho sinh viên chuyên ngành Triết học
Nâng cao chất lượng công tác giáo dục phẩm chất chính trị trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng cho sinh viên chuyên ngành Triết học
Trong bối cảnh hiện nay, các thế lực thù địch không ngừng tăng cường thực hiện những âm mưu, thủ đoạn nhằm chống phá nền tảng tư tưởng của Đảng, gây mất niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước. Do đó, việc giáo dục và rèn luyện phẩm chất chính trị cho thế hệ trẻ trở thành nhiệm vụ cấp thiết. Đặc biệt, với sinh viên chuyên ngành Triết học tại các trường đại học trên địa bàn Hà Nội- những người được học tập, nghiên cứu và được đào tạo chuyên sâu về lý luận sẽ là đội ngũ trực tiếp tham gia và có nhiều đóng góp trong công cuộc bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Vì vậy, yêu cầu nâng cao chất lượng giáo dục phẩm chất chính trị cho sinh viên chuyên ngành Triết học càng trở nên có ý nghĩa chiến lược. Bài viết tập trung phân tích thực trạng, chỉ ra những hạn chế, từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm tăng cường hiệu quả công tác giáo dục phẩm chất chính trị, góp phần bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng trong tình hình mới.
llcttt1994dientu@gmail.com
024.38348033
Bình luận