Nhìn lại chặng đường 91 năm xây dựng và trưởng thành ngành Công tác Dân vận của Đảng
Trong tác phẩm Sửa đổi lối làm việc, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Giữ chặt mối liên hệ với dân chúng và lắng tai nghe ý kiến của dân chúng, đó là nền tảng lực lượng của Đảng và nhờ đó mà Đảng thắng lợi”(1). Trong suốt quá trình hoạt động cách mạng, bằng tình cảm, trí tuệ, tâm huyết, sự gương mẫu và phong cách sống dân chủ, giản dị của mình, Người đã thu phục được lòng dân, huy động tối đa trí tuệ, tiềm năng, sức người, sức của, tinh thần và trách nhiệm của các tầng lớp nhân dân cho sự nghiệp cách mạng nước nhà thắng lợi. Quán triệt tư tưởng của Người về dân vận, trong từng giai đoạn cách mạng, Đảng ta đã chủ động và sáng tạo đề ra nhiều chủ trương, nghị quyết, chương trình hành động thiết thực.
Công tác dân vận của Đảng thời kỳ đấu tranh giành chính quyền (1930-1945)
Ngay sau khi thành lập, Đảng Cộng sản Việt Nam đã nhanh chóng tổ chức ra các đoàn thể cách mạng, hình thành bộ máy và cán bộ làm công tác dân vận. Xuất phát từ tình hình thực tế của nước ta lúc bấy giờ là nước thuộc địa nửa phong kiến, lại là nước nông nghiệp lạc hậu, để thực hiện mục tiêu cách mạng dân tộc dân chủ, Đảng đã tổ chức cho các đảng viên đi vào các giai cấp, tầng lớp nhân dân, tuyên truyền vận động, tổ chức và tập hợp quần chúng nhân dân, huấn luyện họ đấu tranh chống áp bức, bất công, bóc lột đòi dân sinh, dân chủ ở khắp mọi nơi.
Những cán bộ, đảng viên lớp đầu tiên của Đảng đã không quản gian lao, thực hiện chủ trương “vô sản hóa”, tiến hành “ba cùng” với dân, tuyên truyền, giác ngộ nhân dân lao động và thành lập các tổ chức quần chúng đoàn kết xung quanh Đảng, tạo sức mạnh và động lực cho cách mạng theo tư tưởng của Bác Hồ: đem sức ta mà giải phóng cho ta. Đảng ta cũng chỉ rõ: Một trong những trách nhiệm của đảng viên là “Tuyên truyền chủ nghĩa cộng sản và cổ động quần chúng theo Đảng”(2). Đảng ta khẳng định: “Điều cốt yếu trong công tác hằng ngày của Đảng là phải thâu phục quảng đại quần chúng để làm cho cuộc bạo động tương lai được thắng lợi”(3).
Để lãnh đạo công tác vận động, tập hợp quần chúng nhân dân, về xây dựng nội bộ, Đảng nêu rõ: Trong các đảng bộ (từ thành và tỉnh ủy trở lên) phải tổ chức ra các ban chuyên môn về các giới vận động: công nhân vận động, nông dân vận động, quân sự vận động, phụ nữ vận động… Hệ thống ban chuyên môn về các giới vận của Đảng đã được xác định bao gồm: Công vận, Nông vận, Thanh vận, Phụ vận, Quân đội vận, Mặt trận phản đế.
Sau cao trào cách mạng (1930 -1931), đến thời kỳ Mặt trận dân chủ Đông Dương (1936 -1939), phong trào Phản đế (1939 -1941) và phong trào Mặt trận Việt Minh (1941-1945), Đảng ta chủ chương mở rộng chính sách đại đoàn kết toàn dân và công tác Mặt trận. Quần chúng được tập hợp qua các hình thức đấu tranh công khai, hợp pháp, nửa hợp pháp. Đảng đã tập hợp đông đảo các tầng lớp nhân dân, bao gồm nhân sĩ, trí thức, tư sản dân tộc và cả ngoại kiều… đây thực sự là bước phát triển mới trong việc xây dựng lực lượng chính trị quần chúng.
Ngày 02.9.1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ lâm thời đọc bản Tuyên ngôn độc lập, tuyên bố khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Thắng lợi của cách mạng tháng Tám là thắng lợi của đường lối cách mạng đúng đắn, thắng lợi của chiến lược đại đoàn kết dân tộc, là thắng lợi của khoa học và nghệ thuật vận động quần chúng nhân dân. Đảng gắn bó với nhân dân, tin ở dân, dựa vào sức mạnh của nhân dân, tuyên truyền giác ngộ nhân dân hiểu rõ con đường giành độc lập tự do, giành quyền sống.
Công tác dân vận của Đảng trong hai cuộc kháng chiến giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc (1945-1975)
Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1945-1954), công tác dân vận của Đảng đã đánh dấu bước phát triển mới trên nhiều phương diện khác nhau; phong phú về nội dung, hình thức; đa dạng về các loại hình, mô hình và phương thức, phương pháp làm công tác dân vận. Các phong trào vận động nhân dân tham gia diệt giặc đói, diệt giặc dốt, diệt giặc ngoại xâm được lan toả đến từng thôn, bản; hũ gạo kháng chiến được lan rộng khắp nơi, vừa kháng chiến vừa kiến quốc, rào làng chiến đấu, tình nguyện tòng quân, tham gia thanh niên xung phong… đã khơi dậy được tinh thần yêu nước của nhân dân hướng về các mặt trận, mà đỉnh cao là chiến dịch Điện Biên Phủ toàn thắng, mở đầu cho sự kết thúc chủ nghĩa thực dân trên toàn thế giới.
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu mước (1954 -1975), với tinh thần xây dựng miền Bắc thành hậu phương vững chắc góp phần đấu tranh giải phóng miền Nam thống nhất đất nước, công tác dân vận ở miền Bắc đã bám sát chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước, nắm bắt tâm tư, nguyện vọng của nhân dân, thực hiện theo phương châm: bám ngõ, gõ từng nhà, vận động từng người dân tham gia các phong trào thi đua yêu nước, như: ba ngọn cờ hồng; thanh niên ba sẵn sàng, phụ nữ ba đảm đang; tay cày, tay súng; thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người; xe chưa qua nhà không tiếc; tất cả vì miền Nam ruột thịt, tất cả cho tiền tuyến, tất cả để đánh thắng giặc Mỹ xâm lược… Ở miền Nam, các phong trào đấu tranh đòi hoà bình, dân chủ; chống bình định, kìm kẹp càn quét, lập ấp chiến lược; đào hầm bí mật, bám trụ, xây dựng và củng cố lực lượng, xây dựng hậu cứ, bảo vệ cán bộ, bảo vệ cách mạng… đã được nhân dân hưởng ứng tích cực làm cơ sở vững chắc cho cách mạng giành thắng lợi khi thời cơ đến.
Công tác dân vận trong sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa (1975 đến nay)
Bước vào thời kỳ đổi mới, Báo cáo chính trị tại Đại hội VI của Đảng (năm 1986), nhấn mạnh bài học đầu tiên trong bốn bài học lớn được rút ra qua thực tiễn cách mạng, đó là: Trong toàn bộ hoạt động của mình, Đảng phải quán triệt tư tưởng lấy dân làm gốc, xây dựng và phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động; phải đặc biệt chăm lo củng cố sự liên hệ giữa Đảng và Nhân dân. Tư tưởng này tiếp tục được Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (năm 1991), bổ sung, phát triển (năm 2011) khẳng định: Sự nghiệp cách mạng là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Chính nhân dân là người làm nên những thắng lợi lịch sử. Toàn bộ hoạt động của Đảng phải xuất phát từ lợi ích và nguyện vọng chính đáng của nhân dân. Sức mạnh của Đảng là ở sự gắn bó mật thiết với nhân dân. Quan liêu, tham nhũng, xa rời nhân dân sẽ dẫn đến những tổn thất khôn lường đối với vận mệnh của đất nước, của chế độ xã hội chủ nghĩa và của Đảng.
Thực hiện các nghị quyết từ Đại hội VII đến Đại hội XII của Đảng, Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã ban hành nhiều văn bản liên quan đến công tác dân vận, đó là: Chỉ thị 30-CT/TW, ngày 18.02.1998 về xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở; các Nghị quyết số 23, 24, 25, khoá IX (năm 2003) về phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, công tác dân tộc, công tác tôn giáo; Quyết định số 290-QĐ/TW, ngày 25.02.2010 về quy chế công tác dân vận của hệ thống chính trị. Đặc biệt, trên cơ sở đánh giá tình hình, làm rõ các thách thức đối với công tác dân vận trong Đảng cầm quyền, xây dựng Nhà nước pháp quyền, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế, Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI đã ban hành Nghị quyết 25-NQ/TW, ngày 03.6.2013 về tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác dân vận trong tình hình mới.
Nghị quyết khẳng định và làm sâu sắc thêm 5 quan điểm, 7 nhiệm vụ nhằm tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác dân vận trong tình hình mới. Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII (2016) đã nhấn mạnh nội dung phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc, phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân và công tác dân vận trong xây dựng đảng. Trên cơ sở đó, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với công tác dân vận; xây dựng đội ngũ cán bộ thật sự tin dân, trọng dân, hiểu dân, học dân, dựa vào dân, có trách nhiệm với dân; giải quyết bức xúc, kiến nghị chính đáng của Nhân dân; kịp thời thể chế đường lối, chủ trương của Đảng phù hợp với lợi ích, nguyện vọng chính đáng của Nhân dân, nhất là cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ và phương châm dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra; tăng cường công tác dân vận của các cơ quan nhà nước, công tác dân vận của hệ thống chính trị.
Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII (2021) tiếp tục nhấn mạnh nội dung phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc, dân chủ xã hội chủ nghĩa và quyền làm chủ của nhân dân; thắt chặt hơn mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân. Mọi hoạt động của hệ thống chính trị, của cán bộ, đảng viên, công chức phải phục vụ lợi ích của nhân dân. Giải quyết hài hoà các quan hệ lợi ích trong xã hội; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân; cấp uỷ, tổ chức đảng, các tổ chức trong hệ thống chính trị, đội ngũ đảng viên, cán bộ, công chức, viên chức nêu gương thực hành dân chủ, tuân thủ pháp luật, đề cao đạo đức xã hội; đề cao vai trò chủ thể, vị trí trung tâm của nhân dân trong chiến lược phát triển đất nước, trong toàn bộ quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; tăng cường kiểm tra, giám sát việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở. Thực hiện đúng đắn, hiệu quả dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện, đặc biệt là dân chủ ở cơ sở. Thực hiện tốt phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”(4).
Thành tựu đạt được trong 91 năm qua cho thấy, công tác dân vận đã góp phần quan trọng cho sự ổn định chính trị, tăng cường sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị, từ cấp cơ sở đến cấp Trung ương; tạo được niềm tin của nhân dân với Đảng, Nhà nước, tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân. Tuy nhiên, công tác dân vận vẫn còn nhiều hạn chế, nhận thức của một bộ phận cán bộ, đảng viên, đoàn viên, hội viên, công chức, viên chức chưa được đầy đủ; tinh thần, trách nhiệm, năng lực và nghệ thuật thực hành về công tác dân vận còn yếu. Không ít cán bộ, đảng viên; Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân ở cơ sở hoạt động kém hiệu quả, chưa đáp ứng yêu cầu. Việc nắm bắt tâm tư, nguyện vọng, việc giải quyết đơn thư khiếu tại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh của dân ở một số đơn vị, địa phương chưa được giải quyết dứt điểm, kịp thời. Không ít vụ việc tham nhũng, khiếu kiện đông người kéo dài và còn có điểm nóng xảy ra… làm hạn chế sự phát triển của đất nước và suy giảm niềm tin của nhân dân đối với Đảng.
Có thể nói, lịch sử đã cho chúng ta những bài học lớn về công tác dân vận, đó là phải biết dựa vào dân, lắng nghe ý kiến của dân, phát huy quyền làm chủ của nhân dân; mọi chủ trương, chính sách phải hợp lòng dân, vì lợi ích của nhân dân. Các tổ chức trong hệ thống chính trị phải vững mạnh; cán bộ, đảng viên, đoàn viên, hội viên phải gương mẫu, chí công vô tư; tăng cường đoàn kết, tạo sự đồng thuận, thường xuyên củng cố và tăng cường niềm tin của nhân dân đối với Đảng, sẽ góp phần tạo nên những thành quả mới của cách mạng. Để phát huy truyền thống 91 năm công tác dân vận đáp ứng những yêu cầu của Đảng và đáp ứng yêu cầu của đất nước trong thời kỳ mới, công tác dân vận của Đảng phải tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng đáp ứng yêu cầu đặt ra, tập trung vào những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu sau:
Một là, tiếp tục tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong nhận thức, hành động về công tác dân vận của các cấp ủy đảng và của cả hệ thống chính trị; phát huy vai trò của nhân dân tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước trong sạch, vững mạnh. Đổi mới công tác dân vận theo hướng thiết thực, sáng tạo; lấy kết quả công việc, sự hài lòng và tín nhiệm của nhân dân làm tiêu chí quan trọng để đánh giá chất lượng tổ chức bộ máy và chất lượng cán bộ, đảng viên; tạo đồng thuận, củng cố niềm tin của Nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, phát huy sức mạnh to lớn của khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Hai là, tập trung làm tốt công tác dân vận của các cơ quan nhà nước các cấp. Trước hết, phát huy vai trò tham gia của nhân dân trong quá trình xây dựng, thực hiện chính sách, pháp luật; bảo đảm hài hòa lợi ích hợp pháp, chính đáng giữa Nhà nước, doanh nghiệp và nhân dân gắn với lợi ích quốc gia - dân tộc, quan tâm địa bàn khó khăn, đối tượng yếu thế trong xã hội. Tiếp tục hoàn thiện, cụ thể hóa cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ” và phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”.
Mặt khác, phải nâng cao đạo đức công vụ, tăng cường thanh tra, kiểm tra việc thực thi công vụ; phát huy vai trò gương mẫu của đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ quản lý, lãnh đạo, người đứng đầu trước nhân dân. Kiên quyết phê phán, đấu tranh biểu hiện thờ ơ, vô cảm, quan liêu, hách dịch, cửa quyền, nhũng nhiễu, thiếu trách nhiệm với nhân dân; đồng thời, nâng cao trách nhiệm công dân, xử lý nghiêm các hành vi vi phạm pháp luật. Bên cạnh đó, thực hiện tốt Quy chế Dân chủ cơ sở, sâu sát cơ sở, lắng nghe tâm tư, kịp thời giải quyết nguyện vọng chính đáng, hợp pháp của nhân dân; khắc phục tình trạng chậm hoặc không nắm được tình hình nhân dân. Tập trung xử lý dứt điểm, kịp thời các vấn đề bức xúc liên quan trực tiếp đến đời sống nhân dân, các vụ khiếu kiện đông người, vượt cấp, kéo dài, tránh để hình thành và lan rộng các điểm nóng về an ninh, trật tự xã hội.
Ba là, đẩy mạnh các phong trào thi đua yêu nước, thực hiện tốt phong trào Thi đua “Dân vận khéo”, tích cực tuyên truyền, biểu dương, nhân rộng các mô hình, điển hình về công tác dân vận. Phát huy vai trò, tích cực đổi mới nội dung, phương thức hoạt động và tổ chức của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội, các hội quần chúng theo hướng có trọng tâm, thực chất, hiệu quả hơn; nâng cao hiệu quả giám sát và phản biện xã hội. Quan tâm lựa chọn, đào tạo, bồi dưỡng và có cơ chế, chính sách động viên đội ngũ cán bộ làm công tác mặt trận, dân vận, đoàn thể; kiên quyết không bố trí cán bộ thiếu gương mẫu, đạo đức kém, vi phạm kỷ luật làm công tác dân vận.
Bốn là, tăng cường công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, công tác phòng, chống tham nhũng; nâng cao vai trò, trách nhiệm và tính gương mẫu của người đứng đầu cấp ủy, chính quyền, các cơ quan, tổ chức; kiên quyết đấu tranh với những quan điểm, luận điệu sai trái.
Năm là, phối hợp, thực hiện có hiệu quả Quy chế công tác Dân vận của hệ thống chính trị; tích cực đôn đốc, kiểm tra, giám sát việc thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng về công tác dân vận.
Tóm lại, truyền thống vẻ vang 91 năm ngành công tác dân vận đã thực sự góp phần quan trọng vào sự nghiệp cách mạng của Đảng. Tình hình đất nước hiện nay đặt ra yêu cầu phải tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng, xây dựng mối quan hệ mật thiết giữa Đảng và nhân dân trong chặng đường phát triển tiếp theo của đất nước. Để thực hiện được điều đó, đòi hỏi công tác dân vận phải không ngừng phát huy truyền thống, nâng cao năng lực vận động quần chúng, làm tốt vai trò là cầu nối quan trọng giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân, củng cố, tăng cường niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, góp phần thực hiện thắng lợi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong thời kỳ mới./.
_____________________________________________
(1) Hồ Chí Minh Toàn tập (2011), Nxb. CTQG, H., T.5, tr.326.
(2) Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. CTQG, H., T.2, tr.90.
(3) Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. CTQG, H., T.2, tr.112.
(4) Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, T.1, Nxb. CTQGST, H., tr.173.
Nguồn: Bài đăng trên Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông số tháng 7.2021
Bài liên quan
- Cách tiếp cận phức hợp về an ninh phi truyền thống trong bối cảnh chiến tranh lai và ảnh hưởng sâu rộng của tiến trình chuyển đổi số trong nền an ninh quốc gia (Kỳ 1)
- Cách mạng tháng Tám năm 1945: Bài học về nhận định, vận dụng thời cơ và bảo vệ thành quả cách mạng của Đảng
- Đường lối văn hóa văn nghệ của Đảng Cộng sản Việt Nam trong quy luật vận động của thời đại cách mạng dân chủ nhân dân
- Tính thống nhất giữa phát triển con người về mặt tự nhiên và xã hội
- Lịch sử hình thành khái niệm văn hóa đại chúng ở phương Tây
Xem nhiều
- 1 Video Tư liệu: Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông 30 năm xây dựng và phát triển
- 2 Xu hướng hòa bình, hợp tác, phát triển trên thế giới và vai trò của Việt Nam hiện nay
- 3 Sử dụng công nghệ trí tuệ nhân tạo trong sản xuất chương trình truyền hình
- 4 Giữ gìn và bảo vệ giá trị văn hóa truyền thống các dân tộc ít người, góp phần củng cố, phát triển khối đại đoàn kết toàn dân tộc
- 5 Phát triển nguồn nhân lực ở tỉnh Bến Tre: Thực trạng và giải pháp
- 6 Sử dụng ChatGPT trong việc cải thiện kỹ năng viết cho sinh viên học tiếng Anh
Liên kết
- Báo điện tử đảng cộng sản việt nam
- Báo nhân dân
- Báo Quân đội nhân dân
- Cổng thông tin điện tử Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Cổng thông tin điện tử Học viện Chính trị quốc gia hồ chí minh
- Tạp chí Cộng sản
- Tạp chí Giáo dục lý luận
- Tạp chí Giáo dục và Xã hội
- Tạp chí Khoa học xã hội và Nhân văn
- Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam
- Tạp chí Lý luận chính trị
- Tạp chí Nghiên cứu con người
- TẠP CHÍ Nghiên cứu dân tộc
- Tạp chí Người làm báo
- Tạp chí Nội chính
- Tạp chí Quản lý Nhà nước
- Tạp chí Tổ chức Nhà nước
- Tạp chí Tuyên giáo
- Tạp chí Xây Dựng Đảng
- Thư viện số Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Trang thông tin điện tử Hội đồng Lý luận Trung ương
Uy tín giả - tác hại thật - Bài 2: Nhận diện uy tín giả
Uy tín giả nảy sinh, xâm nhập, lây lan trong đời sống chính trị, xã hội do nhiều nguyên nhân, trong đó, yếu tố chủ quan của tổ chức và cá nhân cán bộ, đảng viên là nguyên nhân trực tiếp, phổ biến.
Cách tiếp cận phức hợp về an ninh phi truyền thống trong bối cảnh chiến tranh lai và ảnh hưởng sâu rộng của tiến trình chuyển đổi số trong nền an ninh quốc gia (Kỳ 1)
Cách tiếp cận phức hợp về an ninh phi truyền thống trong bối cảnh chiến tranh lai và ảnh hưởng sâu rộng của tiến trình chuyển đổi số trong nền an ninh quốc gia (Kỳ 1)
Một trật tự toàn cầu mới đang được định hình, điều đó cũng đồng nghĩa với một sự đòi hỏi về cách tiếp cận an ninh mới do những luật chơi mới định hình. Chiến tranh lai cùng với tiến trình chuyển đổi số đang đặt ra một sự tác động đồng thời, thay đổi bản chất sức mạnh của mỗi quốc gia. Bối cảnh mới này đòi hỏi phải có một tư duy mới về an ninh, tư duy phức hợp, để có thể đồng lúc nhìn thấy từ nhiều chiều kích khác nhau, những tác động an ninh trong một tương quan tổng thể. Thay vì tập trung vào các danh mục của các mối đe dọa, ngăn chặn và phòng ngừa, vấn đề an ninh quốc gia hiện nay được chuyển hướng vào một mục tiêu duy nhất đó là an ninh quốc gia tổng thể, việc ngăn chặn và phòng ngừa cũng phải chuyển hướng sang thích ứng và phản ứng linh hoạt hiệu quả trước mọi tình huống, bằng mọi biện pháp và từ mọi điểm tiếp cận. Các trọng tâm chiến lược cho an ninh quốc gia cũng chuyển từ các mục tiêu cụ thể theo thứ bậc ưu tiên, sang việc dịch chuyển liên tục các mục tiêu theo hướng tấn công vào bất kỳ điểm tiếp cận nào có thể làm suy yếu theo hiệu ứng mạng lưới một cách nhanh nhất sức mạnh quốc gia. Những thách thức mới này, do vậy, đòi hỏi chúng ta phải có một cách tiếp cận phức hợp về an ninh và hình thành nên một khái niệm an ninh phi truyền thống mới - trong đó an ninh truyền thống và các vấn đề phi truyền thống hòa nhập thành một tổng thể.
Cách mạng tháng Tám năm 1945: Bài học về nhận định, vận dụng thời cơ và bảo vệ thành quả cách mạng của Đảng
Cách mạng tháng Tám năm 1945: Bài học về nhận định, vận dụng thời cơ và bảo vệ thành quả cách mạng của Đảng
Cách mạng tháng Tám năm 1945 là mốc son chói lọi, vĩ đại trong lịch sử dân tộc, đưa đất nước bước sang kỷ nguyên độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; đồng thời để lại nhiều bài học quý báu về nhận định, vận dụng thời cơ và bảo vệ thành quả cách mạng, có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc đối với sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa hiện nay.
Đường lối văn hóa văn nghệ của Đảng Cộng sản Việt Nam trong quy luật vận động của thời đại cách mạng dân chủ nhân dân
Đường lối văn hóa văn nghệ của Đảng Cộng sản Việt Nam trong quy luật vận động của thời đại cách mạng dân chủ nhân dân
(LLCT&TT) Đặc điểm lịch sử nổi bật của thời đại cách mạng dân chủ nhân dân đó là sự lớn mạnh của phong trào quần chúng nhân dân trong mọi cuộc vận động xã hội dưới sự lãnh đạo của Đảng của giai cấp vô sản. Bản thân sự ra đời và phát triển của nền văn hoá văn nghệ mới ở Việt Nam trong giai đoạn cuộc cách mạng dân chủ nhân dân gắn liền với cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc và thống nhất Tổ quốc. Việc xác lập vai trò lãnh đạo của Đảng đối với quá trình xây dựng nền văn hoá văn nghệ mới, gắn với những cuộc đấu tranh cách mạng có chiều hướng tiến bộ lịch sử đã tạo điều kiện cho nền văn nghệ nhân dân phát triển hợp qui luật.
Tính thống nhất giữa phát triển con người về mặt tự nhiên và xã hội
Tính thống nhất giữa phát triển con người về mặt tự nhiên và xã hội
Trong lịch sử tiến hóa lâu dài của con người, sự phát triển về mặt tự nhiên và xã hội trong con người có sự thống nhất chặt chẽ, không tách rời. Hai mặt này làm tiền đề cho nhau, nương tựa vào nhau, giúp con người không ngừng hoàn thiện cả thể chất và tinh thần, góp phần nâng cao khả năng thích nghi với môi trường, thúc đẩy sự phát triển.
Bình luận