Những giá trị nổi bật của Đề cương về văn hóa Việt Nam năm 1943 - Cương lĩnh đầu tiên của Đảng về văn hóa, định hướng và soi đường cho nền văn hóa Việt Nam phát triển bền vững
Trong bối cảnh thực dân, phát-xít lợi dụng mọi chiêu bài, thủ đoạn thâm độc để ru ngủ người dân An Nam bằng rượu cồn và thuốc phiện; ra sức thực hiện chính sách ngu dân, “nhồi sọ”, truyền bá tư tưởng phản động, gieo rắc sự hoài nghi, bi quan về tiền đồ của đất nước, tương lai của dân tộc; cổ vũ chủ nghĩa “Đại Đông Á” lừa bịp; mua chuộc và hăm dọa các nhà văn hóa…, thì một số văn sĩ, trí thức đã “bẻ cong ngòi bút” hoặc tỏ ra dửng dưng, thờ ơ trước thời cuộc, tự thu mình, tâm lý đầy hoang mang, dao động. Trước tình hình đó, Hội nghị Ban Thường vụ Trung ương Đảng (tháng 2/1943) đã xác định, phải kịp thời có đường lối lãnh đạo xây dựng nền tảng văn hóa Việt Nam trong sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc. Trong bối cảnh bức thiết ấy, Đề cương về văn hóa Việt Nam ra đời là một sự kiện chính trị quan trọng. Sự ra đời của Đề cương về văn hóa Việt Nam có ý nghĩa to lớn, là ngọn đuốc soi đường và định hướng về tư tưởng, nhận thức, phương châm hoạt động văn hóa cho toàn Đảng, toàn dân trong cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc, tạo nền tảng ban đầu cho việc xây dựng một nền văn hóa mới. Đề cương được coi là bản tuyên ngôn, cương lĩnh đầu tiên của Đảng về văn hóa, có ý nghĩa lịch sử sâu sắc và giá trị to lớn về nhiều mặt đối với việc định hình, định hướng tư duy lý luận của Đảng về văn hóa nói riêng và đối với tiến trình cách mạng Việt Nam nói chung trong suốt 80 năm qua.
Những giá trị nổi bật của Đề cương về văn hóa Việt Nam năm 1943
Cần phải đặt bản Đề cương về văn hóa Việt Nam năm 1943 trong bối cảnh lịch sử - cụ thể của đất nước ta lúc bấy giờ mới thấy hết tầm nhìn chiến lược của Đảng, tính chất soi đường, định hướng cho sự phát triển nền văn hóa mới. Dù mới là những phác thảo ban đầu, đúng như tên gọi, có tính chất là đề cương, tuy nhiên, trải qua 80 năm, nhìn lại toàn bộ tiến trình phát triển của văn hóa Việt Nam, bản Đề cương về văn hóa Việt Nam vẫn cho thấy tầm vóc và những giá trị nổi bật, mang tính nền tảng, định hướng, soi đường quan trọng:
Thứ nhất, đứng vững trên lập trường, quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác, Đề cương luận giải rõ mối “quan hệ giữa văn hóa và kinh tế, chính trị: nền tảng kinh tế của một xã hội và chế độ kinh tế dựng trên nền tảng ấy quyết định toàn bộ văn hóa của xã hội kia (hạ tầng cơ sở quyết định thượng tầng kiến trúc”(1). Nhận định này là rất đúng đắn và mang tính nguyên tắc, định hướng cho toàn bộ sự phát triển của nền văn hóa Việt Nam về sau.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác, mỗi một xã hội đều có cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng của nó, đây là hai mặt thống nhất biện chứng và được hình thành một cách khách quan, gắn liền với những điều kiện lịch sử, xã hội cụ thể. Trong mối quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng thì cơ sở hạ tầng giữ vai trò quyết định đối với kiến trúc thượng tầng. Do đó, phải chú trọng xây dựng kinh tế, xây dựng cơ sở hạ tầng đi trước một bước để có điều kiện xây dựng và phát triển văn hóa với tư cách là một thành tố của kiến trúc thượng tầng.
Tuy nhiên, toàn bộ kiến trúc thượng tầng, cũng như các yếu tố cấu thành nó, trong đó có văn hóa, đều có tính độc lập tương đối trong quá trình vận động phát triển và có tác động một cách mạnh mẽ trở lại đối với cơ sở hạ tầng. Chính nhờ thấm nhuần những quan điểm lý luận nền tảng của chủ nghĩa Mác - Lênin nói chung và chủ nghĩa duy vật lịch sử nói riêng, mà Đề cương mới có thể xác định được đúng mục tiêu, phương hướng phát triển cho nền văn hóa Việt Nam.
Thứ hai, Đề cương xác định rõ, văn hóa là một mặt trận và Đảng phải là người lãnh đạo phong trào văn hóa thì mới hoàn thành được sự nghiệp xây dựng nền văn hóa mới. Quan điểm, tinh thần này của Đề cương đã được Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh thấm nhuần, mang tính định hướng sâu sắc. Vì vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn yêu cầu cần phải quán triệt văn hóa là một mặt trận và phát huy tính chiến đấu của những chiến sĩ văn hóa, những người làm công tác văn hóa, nghệ thuật trong bảo vệ, giữ gìn và phát huy những giá trị văn hóa của dân tộc để phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Trong Thư gửi các họa sĩ nhân dịp triển lãm hội họa đăng trên Báo Cứu quốc, ngày 5/1/1952, Người chỉ rõ: “Văn hóa nghệ thuật cũng là một mặt trận. Anh chị em là chiến sĩ trên mặt trận ấy”. Theo Bác, đã là chiến sĩ thì phải biết “xung phong”, dám “xung phong” - đó là sứ mệnh, là trách nhiệm không thể thoái thác của những người làm văn hóa, nghệ thuật. Đồng thời, thấm nhuần tinh thần biện chứng của chủ nghĩa Mác - Lênin, Người lưu ý, văn hóa, nghệ thuật cũng như mọi hoạt động khác, không thể đứng ngoài, mà phải ở trong kinh tế và chính trị. Đó chính là ý nghĩa và bản chất của mặt trận văn hoá và chiến sĩ văn hóa. Nghĩa là, cũng như các chiến sĩ khác, chiến sĩ nghệ thuật có nhiệm vụ phụng sự kháng chiến, phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân, mà trước hết là công, nông, binh. Và để làm tròn nhiệm vụ ấy, chiến sĩ nghệ thuật phải có “lập trường vững, tư tưởng đúng”; phải luôn đặt lợi ích của kháng chiến, của Tổ quốc, của nhân dân lên trên hết, trước hết.
Thứ ba, Đề cương đã sớm nhận rõ vị trí, vai trò đặc biệt của văn hóa đối với sự phát triển xã hội, thể hiện rõ qua nhận định: “Phải hoàn thành cách mạng văn hóa mới hoàn thành được cuộc cải tạo xã hội”(2). Sau này, tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc ngày 24/11/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định rằng: “Văn hóa phải soi đường cho quốc dân đi”; nhấn mạnh vai trò định hướng, dẫn dắt của văn hóa đối với sự phát triển của cách mạng và của cả dân tộc. Đây là quan điểm chỉ đạo, thể hiện tầm cao trong tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Người nhiều lần yêu cầu, phải làm cho văn hóa bồi đắp những tình cảm tốt đẹp, như lòng yêu nước, tình yêu thương con người, yêu chân, thiện, mỹ; yêu tính trung thực, chân thành, thủy chung, ghét những thói hư tật xấu, những sự sa đọa biến chất, căm thù mọi thứ “giặc nội xâm”...
Bản thân “Cách đặt vấn đề” của Đề cương đã cho thấy tầm quan trọng của tư tưởng, học thuật và nghệ thuật đối với cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc; với vận mệnh nước nhà và công cuộc vun đắp nền văn hóa mới phong phú, giàu bản sắc. Bảo tồn và phát triển văn hoá dân tộc cần phải gắn liền, đi đôi với việc đồng thời triệt để tẩy trừ mọi di hại thuộc địa và ảnh hưởng nô dịch của văn hoá đế quốc, tôn trọng phong tục, tập quán, văn hoá của các dân tộc ít người. Trước khi thực dân Pháp xâm lược, Việt Nam vốn là một quốc gia phong kiến độc lập, kinh tế chậm phát triển, còn nhiều hủ tục lạc hậu. Khi thực dân Pháp xâm lược, với thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt, thâm độc nhân danh “khai hoá văn minh”, chúng đã thực hiện những chính sách cực kỳ phi văn hoá, như chính sách ngu dân, chia để trị, đầu độc nhân dân ta, nhất là thanh niên bằng rượu và thuốc phiện... làm cho đời sống vật chất của nhân dân ta vốn đã đói nghèo lại càng đói nghèo, đời sống tinh thần vốn đã lạc hậu lại ngày càng rơi vào tăm tối.
Thứ tư, theo Đề cương, để thực hiện cuộc cách mạng văn hóa ở nước ta thì phải nắm vững “ba nguyên tắc vận động”, đó là: Dân tộc hóa, đại chúng hóa và khoa học hóa. Ba nguyên tắc này đã trở thành phương châm, mục tiêu hành động, là quan điểm xuyên suốt trong quá trình cách mạng và xây dựng nền văn hóa mới của Đảng và Nhà nước ta. Ở đây, ý nghĩa to lớn của Đề cương chính là đặt vấn đề, xác định rõ ba phương châm, mà về thực chất cũng là ba tính chất gắn với truyền thống dân tộc, thuộc về nhân dân và thấm nhuần tinh thần khoa học, được coi như “ba trụ cột” cơ bản, bảo đảm cho văn hóa Việt Nam phát triển mạnh mẽ và bền vững, đúng hướng.
Sau này, trong Báo cáo chính trị đọc tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng Lao động Việt Nam (tháng 2/1951), khi xác định đường lối phát triển cho nền văn hóa mới Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng nêu rõ và nhấn mạnh những nguyên tắc ấy: “Phải triệt để tẩy trừ mọi di tích thuộc địa và ảnh hưởng nô dịch của văn hóa đế quốc. Đồng thời, phát triển những truyền thống tốt đẹp của văn hóa dân tộc và hấp thụ những cái mới của văn hóa tiến bộ thế giới, để xây dựng một nền văn hóa Việt Nam có tính chất dân tộc, khoa học và đại chúng”(3). Người nhấn mạnh vấn đề có tính nguyên tắc, khẳng định bản sắc dân tộc của các giá trị văn hóa được hun đúc qua hàng nghìn năm lịch sử dựng nước và giữ nước của nhân dân ta và những giá trị này cần được vận dụng, phát huy mạnh mẽ trong công cuộc xây dựng, bảo vệ Tổ quốc nói chung và trong xây dựng, phát triển nền văn hóa mới nói riêng. Yếu tố dân tộc làm nên bản sắc của nền văn hóa; vì thế, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định, “gốc của văn hóa mới là dân tộc”.
Khẳng định tư tưởng của Đề cương, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đánh giá cao các giá trị văn hóa truyền thống. Theo Người, một nền văn hóa cách mạng có sức sống không được xa rời, mà phải gắn bó mật thiết với vận mệnh lịch sử của dân tộc, tình cảm dân tộc, các phong tục, tập quán của dân tộc... - đó là những nhân tố cơ bản chi phối mạnh mẽ tính dân tộc của văn hóa. Trong Diễn văn khai mạc Hội nghị văn hóa toàn quốc (ngày 24/11/1946) mang ý nghĩa lịch sử, Người đã nhấn mạnh và căn dặn, cần phải trau dồi cho văn hóa Việt Nam “thật có tinh thần thuần túy Việt Nam, phải lột cho hết tinh thần dân tộc”.
Thứ năm, Đề cương chỉ rõ, để đặt nền móng và định hướng xây dựng một nền văn hóa cách mạng mới, cần kết hợp chặt chẽ, nhuần nhuyễn giữa hai nhiệm vụ “xây” và “chống”. Bản thân ba nguyên tắc lớn trong cuộc vận động xây dựng nền văn hóa Việt Nam cũng đã thể hiện rõ, ngay từ đầu, tinh thần đó: Dân tộc hóa (chống mọi ảnh hưởng nô dịch và thuộc địa, làm cho vǎn hóa Việt Nam phát triển độc lập); đại chúng hóa (chống mọi chủ trương hành động làm cho vǎn hóa phản lại đông đảo quần chúng hoặc xa đông đảo quần chúng); và khoa học hóa (chống lại tất cả những cái gì làm cho vǎn hóa trái khoa học, phản tiến bộ). Đề cương nhấn mạnh nhiệm vụ cần kíp của những nhà văn hóa mác-xít là phải chống lại văn hóa phát-xít, phong kiến, thoái bộ, nô dịch, ngu dân, phỉnh dân; phát huy văn hóa tân dân chủ, kiên quyết đấu tranh về học thuyết, tư tưởng, đấu tranh về tông phái văn nghệ, tiến hành cải cách chữ quốc ngữ…, xây dựng “Văn hóa mới Việt Nam là một thứ văn hóa có tính chất dân tộc về hình thức và tân dân chủ về nội dung”(4).
Thứ sáu, Đề cương đã soi sáng, dẫn đường, “thức tỉnh” và tập hợp những văn nghệ sĩ, người hoạt động văn hóa và nhân dân đi theo con đường cách mạng của Đảng, chuẩn bị những điều kiện cần thiết cho cách mạng giải phóng dân tộc đi đến thành công. Nhiều văn nghệ sĩ nổi tiếng đã tự giác đến với cách mạng và trở thành lực lượng chủ chốt để tham gia xây dựng nền văn hóa mới và chính Đề cương về văn hóa Việt Nam năm 1943 trở thành tài liệu đầu tiên, quan trọng và duy nhất, có tác dụng tập hợp lực lượng những con người có trí tuệ sẵn sàng dấn thân theo tiếng gọi của lương tri, cùng sinh hoạt trong mặt trận Văn hóa cứu quốc. Chính việc xác định rõ lập trường tư tưởng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin là kim chỉ nam cho quá trình vận động, phát triển của đất nước cũng như mục tiêu hướng đến là độc lập dân tộc gắn liền chủ nghĩa xã hội, góp phần “chống lại văn hóa phát xít phong kiến, thoái bộ, nô dịch, văn hóa ngu dân và phỉnh dân. Phát huy văn hóa tân dân chủ Đông Dương”. Vì vậy, không phải ngẫu nhiên mà sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, hầu hết các trí thức, văn nghệ sĩ đã giác ngộ con đường phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân và coi đó là mục tiêu phấn đấu cao cả của sự nghiệp và cho cả cuộc đời mình. Đúng như đánh giá của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng trong bài phát biểu chỉ đạo Hội nghị Văn hóa toàn quốc ngày 24/11/2021: “Những quan điểm và tư tưởng chỉ đạo của Đảng trong Văn kiện quan trọng này đã tạo ra một luồng sinh khí mới để tập hợp đội ngũ trí thức, văn nghệ sĩ, tập hợp nhân dân phát huy vai trò của văn hóa, thống nhất về nhận thức, tư tưởng và tổ chức, khơi dậy khát vọng của dân tộc trong cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc, chuẩn bị tinh thần và lực lượng cho Cách mạng Tháng Tám thành công, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á, năm 1945”(5).
Tiếp tục kế thừa, bổ sung và phát triển những giá trị mang tính định hướng, soi đường của Đề cương về văn hóa Việt Nam trong bối cảnh mới
Trong thời kỳ đổi mới, những giá trị mang tính định hướng sâu sắc của Đề cương về văn hóa năm 1943 đã được Đảng ta kế thừa, bổ sung, phát triển và vận dụng sáng tạo trong điều kiện, bối cảnh mới; nhờ đó, lý luận về văn hóa Việt Nam đã có những bước phát triển mới về chất, góp phần đưa đất nước ta đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Văn kiện Đại hội XI của Đảng xác định: “Xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, phát triển toàn diện, thống nhất trong đa dạng, thấm nhuần sâu sắc tinh thần nhân văn, dân chủ, tiến bộ; làm cho văn hóa gắn kết chặt chẽ và thấm sâu vào toàn bộ đời sống xã hội, trở thành nền tảng tinh thần vững chắc, sức mạnh nội sinh quan trọng của phát triển”(6). Nghị quyết Hội nghị Trung ương 9 khóa XI, “Về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước” nhấn mạnh, văn hóa phải được đặt ngang hàng với chính trị, kinh tế và xã hội. Xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam phát triển toàn diện, hướng đến chân - thiện - mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học. Văn hóa thực sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội, là sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Kế thừa quan điểm đó, Đại hội XII của Đảng xác định mục tiêu: “Xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam phát triển toàn diện, hướng đến chân - thiện - mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học. Văn hóa thực sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội, là sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh””(7); coi phát triển kinh tế - xã hội là trung tâm; xây dựng Ðảng là then chốt; xây dựng văn hóa, con người làm nền tảng tinh thần của quá trình phát triển trong thời kỳ mới.
Trong Văn kiện Ðại hội XIII của Ðảng, vấn đề xây dựng, phát triển văn hóa, con người được xác định là một trong các định hướng phát triển đất nước giai đoạn 2021 - 2030: “Phát triển con người toàn diện và xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc để văn hóa, con người Việt Nam thực sự trở thành sức mạnh nội sinh, động lực phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc. Tăng đầu tư cho phát triển sự nghiệp văn hóa. Xây dựng, phát triển, tạo môi trường và điều kiện xã hội thuận lợi nhất để khơi dậy truyền thống yêu nước, niềm tự hào dân tộc, niềm tin, khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc; tài năng, trí tuệ, phẩm chất của con người Việt Nam là trung tâm, mục tiêu và động lực phát triển quan trọng nhất của đất nước”(8). Phát huy giá trị văn hóa, sức mạnh con người Việt Nam được xác định vừa là nhiệm vụ trọng tâm, vừa là khâu đột phá có ý nghĩa chiến lược để đẩy mạnh quá trình phát triển đất nước nhanh và bền vững trong thời gian tới.
Văn hóa được xây dựng và bồi đắp nên trong suốt chiều dài lịch sử, làm nên nền tảng tinh thần của một xã hội, giữ vai trò quan trọng vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội. Thực tiễn cho thấy, văn hóa là một nguồn lực tinh thần nội sinh có sức mạnh to lớn. Lịch sử đã minh chứng rõ rằng, trong những chiến thắng vẻ vang của dân tộc Việt Nam giữa thế kỷ XX có phần không nhỏ là chiến thắng của sức mạnh văn hóa tiềm tàng được hun đúc qua bề dày truyền thống của một dân tộc yêu tự do, đấu tranh kiên cường vì chính nghĩa trước những âm mưu của các thế lực xâm lược phi nghĩa. Văn hóa còn đóng vai trò quan trọng trong việc soi đường cho sự phát triển, tiến bộ của xã hội, của mỗi quốc gia, dân tộc trong hành trình xây dựng và phát triển trong thế kỷ XXI.
Trong bối cảnh hiện nay, sức mạnh kinh tế không còn là yếu tố duy nhất chi phối quyền lực quốc gia, mà “quyền lực mềm” quốc gia gắn với sức mạnh văn hóa ngày càng khẳng định vai trò quan trọng trong quá trình phát triển của mỗi đất nước. Thực tế cũng cho thấy, chỉ khi quốc gia - dân tộc phát triển dựa trên nền tảng bản sắc văn hóa truyền thống có tiếp thu chọn lọc tinh hoa văn hóa nhân loại thì mới bảo đảm các yếu tố cho phát triển bền vững. Nếu đánh mất bản sắc văn hóa hoặc chỉ dựa trên những trào lưu văn hóa du nhập, vay mượn hoặc sùng bái văn hóa ngoại lai thì một dân tộc thậm chí có thể sẽ biến mất. Đồng thời, sự phát triển toàn diện về kinh tế, chính trị, xã hội, môi trường và nhất là văn hóa mới bảo đảm sự phát triển thực sự bền vững.
Hiện nay, văn hóa ngày càng được xem là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội, có mối gắn kết chặt chẽ và đồng bộ với phát triển kinh tế - xã hội; hơn nữa, văn hóa còn được xác định là sức mạnh nội sinh quan trọng của phát triển. Trong quá trình hội nhập quốc tế sâu rộng, toàn cầu hóa và cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, sự giao lưu, tiếp biến văn hóa giữa các quốc gia - dân tộc diễn ra ngày càng mạnh mẽ thì bản sắc và các giá trị văn hóa Việt Nam càng cần được trân trọng và gìn giữ. Các giá trị, di sản văn hóa truyền thống là hành trang, điểm tựa tinh thần quan trọng cho cả ở hiện tại và trong hành trình đi đến tương lai. Tuy nhiên, các giá trị văn hóa truyền thống đó cũng cần không ngừng được bồi đắp, làm giàu có thêm và phát huy để trở thành sức mạnh nội sinh và động lực quan trọng cho tinh thần sáng tạo, đổi mới, tạo nguồn lực và động lực to lớn bảo đảm cho sự phát triển nhanh và bền vững đất nước.
Thời gian càng lùi xa, chúng ta càng thấy rõ hơn tầm vóc và những giá trị to lớn của bản Đề cương về văn hóa Việt Nam năm 1943. Trong suốt 80 năm qua, lịch sử cách mạng Việt Nam trải qua các thời kỳ phát triển khác nhau, có cả thăng trầm, nhưng những tư tưởng của Đề cương vẫn là ngọn đuốc soi đường, còn vẹn nguyên giá trị thời sự, mang tính định hướng to lớn, sâu sắc đối với sự nghiệp xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, đáp ứng yêu cầu phát triển nhanh, bền vững của đất nước trong giai đoạn phát triển mới. Đặc biệt, trong hơn 35 năm tiến hành sự nghiệp đổi mới, tư duy lý luận của Đảng Cộng sản Việt Nam nói chung và về văn hóa nói riêng đã có bước tiến mới, luôn có sự kế thừa và phát triển, “đơm hoa, kết trái” từ những giá trị vốn đã được “gieo mầm” từ bản Đề cương - văn kiện mang tầm cương lĩnh của Đảng ta về văn hóa./.
________________________________________
(1) (2) (4) Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, T. 7, tr. 316, 318, 320.
(3) Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, T.7. tr. 40.
(5) Nguyễn Phú Trọng, “Ra sức xây dựng, giữ gìn và phát huy những giá trị đặc sắc của nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”, Tạp chí Cộng sản, số 979, tháng 12/2021, tr. 4.
(6) Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, tr. 75 - 76.
(7) Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, tr. 126.
(8) Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, T.1, tr. 115 - 116.
Nguồn: Bài đăng trên Tạp chí Cộng sản điện tử ngày 12/3/2023
Bài liên quan
- Hệ thống chính trị Việt Nam truyền thống và hiện đại từ góc nhìn đổi mới
- Tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả
- Giữ gìn và bảo vệ giá trị văn hóa truyền thống các dân tộc ít người, góp phần củng cố, phát triển khối đại đoàn kết toàn dân tộc
- Xu hướng hòa bình, hợp tác, phát triển trên thế giới và vai trò của Việt Nam hiện nay
- Phát huy vai trò của ngành công nghiệp xuất bản trong việc gìn giữ bản sắc văn hóa dân tộc
Xem nhiều
- 1 Video Tư liệu: Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông 30 năm xây dựng và phát triển
- 2 Sử dụng công nghệ trí tuệ nhân tạo trong sản xuất chương trình truyền hình
- 3 Giữ gìn và bảo vệ giá trị văn hóa truyền thống các dân tộc ít người, góp phần củng cố, phát triển khối đại đoàn kết toàn dân tộc
- 4 Phát triển nguồn nhân lực ở tỉnh Bến Tre: Thực trạng và giải pháp
- 5 Sử dụng ChatGPT trong việc cải thiện kỹ năng viết cho sinh viên học tiếng Anh
- 6 Lễ kỷ niệm và Hội thảo khoa học “30 năm - Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông”
Liên kết
- Báo điện tử đảng cộng sản việt nam
- Báo nhân dân
- Báo Quân đội nhân dân
- Cổng thông tin điện tử Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Cổng thông tin điện tử Học viện Chính trị quốc gia hồ chí minh
- Tạp chí Cộng sản
- Tạp chí Giáo dục lý luận
- Tạp chí Giáo dục và Xã hội
- Tạp chí Khoa học xã hội và Nhân văn
- Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam
- Tạp chí Lý luận chính trị
- Tạp chí Nghiên cứu con người
- TẠP CHÍ Nghiên cứu dân tộc
- Tạp chí Người làm báo
- Tạp chí Nội chính
- Tạp chí Quản lý Nhà nước
- Tạp chí Tổ chức Nhà nước
- Tạp chí Tuyên giáo
- Tạp chí Xây Dựng Đảng
- Thư viện số Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Trang thông tin điện tử Hội đồng Lý luận Trung ương
Mấy vấn đề cơ chế tài chính đáp ứng phục vụ nhiệm vụ chiến lược của Học viện Báo chí và Tuyên truyền hiện nay
Học viện Báo chí và Tuyên truyền (Học viện) là đơn vị sự nghiệp công lập, có chức năng đào tạo đại học, sau đại học các ngành lý luận chính trị, báo chí, truyền thông, kinh tế, xây dựng Đảng, quản lý nhà nước, quản lý xã hội…, bồi dưỡng nghiệp vụ cho cán bộ các cấp. Để thực hiện chức năng, nhiệm vụ được giao, Học viện cần có cơ chế tài chính phù hợp nhằm huy động tối đa nguồn lực tài chính và phân phối, sử dụng tiết kiệm, hiệu quả, tạo động lực thúc đẩy hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Trong những năm qua, thực hiện cơ chế tài chính ở Học viện đã có những chuyển biến tích cực, các nguồn thu đảm bảo chi, thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ của Học viện. Tuy nhiên, để đáp ứng nhu cầu nguồn lực tài chính cho chiến lược phát triển giai đoạn mới của Học viện, công tác thực hiện cơ chế quản lý tài chính cần tiếp tục đổi mới, hoàn thiện.
Hệ thống chính trị Việt Nam truyền thống và hiện đại từ góc nhìn đổi mới
Hệ thống chính trị Việt Nam truyền thống và hiện đại từ góc nhìn đổi mới
Nhìn toàn bộ tiến trình lịch sử chính trị của dân tộc, “Hệ thống chính trị” nước ta dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là một thiết chế chính trị mạnh, mô hình này phù hợp với hoàn cảnh Việt Nam và đúng với quy luật vận động của lịch sử. Và, cũng từ thực tế lịch sử, có thể thấy sức mạnh thực sự của Hệ thống chính trị mà chúng ta đang có chủ yếu không phải do tính chất nhất nguyên mà là do uy tín của Đảng, Nhà nước và lãnh tụ Hồ Chí Minh. Sức sống của hệ thống chính trị là sự phù hợp, thống nhất giữa mục đích của Đảng với nguyện vọng của nhân dân, với nhu cầu phát triển của đất nước. Hệ thống chính trị Việt Nam đương đại, trên cơ sở kết tinh các giá trị thiết chế truyền thống gắn với hiện đại không ngừng đổi mới phát triển khẳng định sức mạnh của Hệ thống tổ chức quyền lực Chính trị Việt Nam có vai trò quyết định thành công xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN.
Tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả
Tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả
Xây dựng tổ chức bộ máy hiệu lực, hiệu quả là công việc khó khăn, phức tạp, đòi hỏi sự đoàn kết, thống nhất, dũng cảm, sự hy sinh của từng cán bộ, đảng viên cùng với quyết tâm rất cao của toàn Đảng, cả hệ thống chính trị, trước hết là người đứng đầu cấp ủy, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và đoàn thể các cấp. Tạp chí Cộng sản trân trọng giới thiệu bài viết của đồng chí Tổng Bí thư Tô Lâm về xây dựng hệ thống chính trị với tiêu đề: “Tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả”:
Giữ gìn và bảo vệ giá trị văn hóa truyền thống các dân tộc ít người, góp phần củng cố, phát triển khối đại đoàn kết toàn dân tộc
Giữ gìn và bảo vệ giá trị văn hóa truyền thống các dân tộc ít người, góp phần củng cố, phát triển khối đại đoàn kết toàn dân tộc
Với cộng đồng 54 dân tộc anh em, Việt Nam là quốc gia có nền văn hóa đa dạng, phong phú, có những nét riêng, trở thành tài sản quý giá làm nên bản sắc văn hóa Việt Nam độc đáo, đặc sắc. Giữ gìn và bảo vệ các giá trị di sản văn hóa truyền thống chính là góp phần củng cố phát triển khối đại đoàn kết dân tộc - một sức mạnh nội sinh to lớn và vĩ đại, làm nên mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam, dưới lá cờ vẻ vang của Đảng.
Xu hướng hòa bình, hợp tác, phát triển trên thế giới và vai trò của Việt Nam hiện nay
Xu hướng hòa bình, hợp tác, phát triển trên thế giới và vai trò của Việt Nam hiện nay
Trong bối cảnh hiện nay sự cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn, chạy đua vũ trang, các cuộc xung đột tôn giáo, sắc tộc vẫn diễn ra ở nhiều nơi, đặc biệt là cuộc xung đột quân sự giữa Nga và Ukraina ở Đông Âu, giữa Israel và Palestine vùng các tổ chức hồi giáo ở Trung Đông diễn biến ngày càng căng thẳng đe dọa tới hòa bình, an ninh khu vực và thế giới. Tuy vậy, hòa bình, hợp tác và phát triển vẫn là mục tiêu hướng tới của các nước, là xu hướng chính trị -xã hội tất yếu của nhân loại, từ đó đặt ra vai trò, trách nhiệm của các quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam.
Bình luận