(LLCT&TT) Dân chủ là giá trị chính trị - xã hội mà nhân loại luôn hướng đến. Ở Việt Nam, dân chủ xã hội chủ nghĩa (XHCN) vừa là bản chất của chế độ ta, vừa là mục tiêu, vừa động lực của sự phát triển đất nước. Trải qua các thời kỳ phát triển, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn nhất quán quan điểm chiến lược này. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII có phát triển, bổ sung một số luận điểm mới trong phát huy dân chủ XHCN, trong đó đặc biệt nhấn mạnh vai trò chủ thể, vị trí trung tâm của nhân dân trong chiến lược phát triển đất nước.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng khẳng định: “Đoàn kết, dân chủ, kỷ cương, sáng tạo, phát triển”, thể hiện bản lĩnh, ý chí kiên cường, và quyết tâm đi tới của cả dân tộc vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”(1). Để đạt được mục tiêu đó, phát huy dân chủ XHCN là một trong những giải pháp cần thiết, do đó cần hiểu đúng và vận dụng phù hợp trong thực tiễn đời sống chính trị - xã hội, góp phần đưa nghị quyết của Đảng vào cuộc sống.
1. Quan niệm về dân chủ XHCN và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về dân chủ XHCN trước Đại hội Đảng lần thứ XIII
Quan niệm về dân chủ
Từ thời Hy Lạp cổ đại, dân chủ đã ra đời và là giá trị xã hội mang tính toàn nhân loại. Theo đó, dân chủ có nghĩa là quyền lực thuộc về nhân dân (hay là “quyền lực của nhân dân”). Xuất phát từ nguồn gốc ra đời, có thể nói dân chủ là một khái niệm thuộc lĩnh vực chính trị, có nội hàm là quyền lực chính trị. Bản chất của khái niệm này là quyền lực chính trị, quyền lực nhà nước phải thuộc về nhân dân, nhân dân là chủ thể duy nhất của mọi quyền lực. Đặc trưng của dân chủ là tất cả công dân đều có quyền tham dự đời sống chính trị, quyền lực cao nhất của đất nước thuộc về đại diện nhân dân, mọi công dân đều có quyền bình đẳng trước pháp luật.
Như vậy, dân chủ là quyền làm chủ thuộc về nhân dân, nhân dân là chủ thể tối cao của quyền lực chính trị, quyền lực nhà nước.
Quan niệm về dân chủ XHCN
Dân chủ XHCN là dân chủ của đại đa số nhân dân, gắn với quyền làm chủ của nhân dân trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, được pháp luật bảo đảm, dưới sự lãnh đạo của Đảng; là một hình thức thể hiện quyền tự do, bình đẳng của mỗi công dân, xác định nhân dân là chủ thể của quyền lực. Dân chủ XHCN là bản chất của chế độ ta, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự nghiệp phát triển đất nước.
Thứ nhất, xét về bản chất, dân chủ xã hội chủ nghĩa là chế độ chính trị mà quyền lực thuộc về nhân dân, nhân dân là chủ thể tối cao của quyền lực chính trị, quyền lực nhà nước, chế độ đó do nhân dân quản lý và điều hành. Nhân dân thực hiện quyền làm chủ của mình thông qua hoạt động của các cơ quan nhà nước, của hệ thống chính trị và các hình thức dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện. Dân chủ gắn liền với kỷ luật, kỷ cương và phải được thể chế hóa bằng pháp luật, được pháp luật bảo đảm.
Thứ hai, dân chủ XHCN là mục tiêu, là động lực và đặc trưng cơ bản nhất cấu thành mô hình phát triển xã hội ở Việt Nam. Mô hình phát triển xã hội, trong mỗi giai đoạn phát triển khác nhau của các quốc gia đều đặt ra mục tiêu cho sự phát triển ấy. Mỗi mục tiêu đều gắn với những vấn đề cốt lõi, mang tính quyết định đối với sự tồn vong của chế độ chính trị - xã hội cũng như sự hưng thịnh của quốc gia. Dân chủ XHCN quy định sự tồn tại, phát triển của chế độ chính trị - xã hội và là nội dung, tiêu chí cơ bản để thực hiện các mục tiêu ấy.
Thứ ba, dân chủ XHCN ở Việt Nam được tổ chức chặt chẽ, có sự phân công, phối hợp thực hiện và kiểm soát giữa các cơ quan, đơn vị, các tổ chức cấu thành nên nó. Sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, quản lý của Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội khác nhau vận hành dưới sự giám sát chặt chẽ của mọi tầng lớp nhân dân, nhằm đảm bảo tính minh bạch, công khai và hiệu quả.
Dân chủ XHCN ghi nhận toàn bộ những quyền tự do cá nhân, tự do ngôn luận, tự do báo chí, hội họp, đi lại, tự do tín ngưỡng, tôn giáo và không tín ngưỡng, tôn giáo, quyền bất khả xâm phạm thân thể và nhà ở, quyền nghỉ ngơi, học hành… Nhà nước tôn trọng và bảo đảm các quyền con người, quyền công dân; chăm lo hạnh phúc, phát triển tự do của mỗi người. Quyền và nghĩa vụ công dân theo Hiến pháp và pháp luật quy định. Quyền của công dân không tách rời nghĩa vụ công dân.
Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định với tính cách là bản chất của chế độ xã hội, dân chủ XHCN tất yếu phải trải qua quá trình cách mạng lâu dài, với nhiều khó khăn, thách thức. Thực hành dân chủ XHCN là một quá trình với những bước đi và cách thức phù hợp với hiện thực xã hội. Trong quá trình đó có những nhiệm vụ trước mắt, đòi hỏi phải thực hiện ngay, những nhiệm vụ mang tầm chiến lược, yêu cầu sự kiên nhẫn, bền bỉ để đạt được những mục tiêu đã xác định, do vậy, chúng ta cần thận trọng, kiên trì và có quyết tâm cao để thực hiện những nhiệm vụ mà sự nghiệp dân chủ hóa đời sống xã hội nói riêng, sự nghiệp xây dựng XHCN nói chung đã và đang đặt ra cho chúng ta.
Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về dân chủ XHCN trước Đại hội Đảng lần thứ XIII
Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, chính quyền về tay nhân dân, lập ra nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Nước ta là một nước dân chủ. Bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân. Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân. Sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc là công việc của dân. Chính quyền từ xã đến Chính phủ Trung ương do dân cử ra. Đoàn thể từ Trung ương đến xã do dân tổ chức nên. Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”(2).
Như vậy, ngay từ đầu thành lập nước, Đảng ta đã xác định chế độ nước ta là chế độ dân chủ. Dân là chủ thể tối cao của quyền lực chính trị, quyền lực nhà nước và dân làm chủ quyền lực của mình trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, được pháp luật bảo đảm, dưới sự lãnh đạo của Đảng; là hình thức thể hiện quyền tự do, bình đẳng của công dân. Từ đó, dân chủ đã trở thành bản chất của chế độ ta, vừa là mục tiêu, vừa là động lực phát triển kinh tế - xã hội; đồng thời là phương thức để thực hiện quyền lực của nhân dân trong quản lý nhà nước và tổ chức đời sống xã hội. Trong các kỳ Đại hội của Đảng, dân chủ tiếp tục được khẳng định nhất quán, xuyên suốt và tiếp tục được bổ sung, phát triển.
Đại hội VI của Đảng nhấn mạnh chủ trương phát huy dân chủ để tạo động lực mạnh mẽ cho phát triển đất nước “trong toàn bộ hoạt động của mình, Đảng phải quán triệt tư tưởng “lấy dân làm gốc”, xây dựng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động. Phát huy tinh thần của Đại hội VI, các kỳ đại hội tiếp theo cũng nhấn mạnh “sự nghiệp cách mạng là của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân” và nhiệm vụ quan trọng trong sự nghiệp cách mạng là “xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ XHCN, bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân”.
Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng nhấn mạnh đến dân chủ gắn liền với kỷ luật, kỷ cương: “Phát huy dân chủ đi đôi với kỷ luật, kỷ cương, tăng cường pháp chế, quản lý xã hội bằng pháp luật, tuyên truyền, giáo dục toàn dân nâng cao ý thức, chấp hành pháp luật”.
Tại Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Đảng ta khẳng định thực hiện “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Tiếp đó, Đại hội XI của Đảng khẳng định: xã hội XHCN mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội: “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ”. Trong đó, cụm từ “dân chủ” được đưa lên trước cụm từ “công bằng, văn minh”. Điều này cho thấy, Đảng ta đã xác định rõ vị trí của dân chủ và thực hành dân chủ trong quá trình phát triển xã hội. Dân chủ và thực hành dân chủ trong quá trình phát triển xã hội là điều kiện tiên quyết, là cơ sở thiết yếu để xây dựng một xã hội công bằng, văn minh.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) đã nêu rõ: “Dân chủ XHCN là bản chất của chế độ ta, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển đất nước. Xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ XHCN, bảo đảm dân chủ được thực hiện trong thực tế cuộc sống ở mỗi cấp, trên tất cả các lĩnh vực. Dân chủ gắn liền với kỷ luật, kỷ cương và phải được thể chế hóa bằng pháp luật, được pháp luật bảo đảm”.
Đại hội XI chỉ rõ: “Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ XHCN, bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân; mọi đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đều vì lợi ích của nhân dân; cán bộ, công chức phải hoàn thành tốt chức trách, nhiệm vụ được giao, tôn trọng nhân dân, tận tâm phục vụ nhân dân… Có cơ chế cụ thể để nhân dân thực hiện trên thực tế quyền làm chủ trực tiếp… Phát huy dân chủ, đề cao trách nhiệm công dân, kỷ luật, kỷ cương xã hội; phê phán và nghiêm trị những hành vi vi phạm quyền làm chủ của nhân dân”.
Để nhấn mạnh vai trò, ý nghĩa của việc phát huy dân chủ XHCN, trong Văn kiện Đại hội XII của Đảng đã bổ sung thêm cụm từ “dân chủ xã hội chủ nghĩa” vào tiêu đề Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng tại Đại hội XII của Đảng, đồng thời tiếp tục nhấn mạnh, yêu cầu cần phải tạo sự chuyển biến tích cực, nâng cao hiệu quả thực hiện dân chủ, tuân thủ nguyên tắc pháp quyền trong tổ chức và hoạt động của Nhà nước.
Trải qua nhiều kỳ đại hội, với những quan điểm bổ sung, phát triển về dân chủ XHCN được thực hiện theo từng giai đoạn phát triển khác nhau nhưng thống nhất đó là bản chất, phương thức, động lực phát triển đất nước, khẳng định mọi quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân; nhân dân là chủ và nhân dân làm chủ. Và nhân dân thực hiện quyền là chủ và làm chủ dưới sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước trong suốt quá trình phát triển của đất nước.
2. Những nhận thức mới về dân chủ XHCN trong Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XIII
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng khẳng định: “Thực hành và phát huy rộng rãi dân chủ XHCN, quyền làm chủ và vai trò chủ thể của nhân dân; phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc; củng cố, nâng cao niềm tin của nhân dân; tăng cường tạo đồng thuận xã hội; tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội”(3).
Như vậy, Văn kiện Đại hội Đảng XIII tiếp tục nhấn mạnh việc thực hành và phát huy dân chủ XHCN, có bổ sung, phát triển những luận điểm mới như sau:
Thứ nhất, nhấn mạnh yêu cầu tăng cường, đề cao “quyền làm chủ trực tiếp và vai trò tự quản của nhân dân”. Đây không phải là yêu cầu mới đặt ra lần đầu nhưng lâu nay việc thực thi còn vướng mắc, hiệu quả thực tế chưa cao. Do vậy, nhấn mạnh yêu cầu “quyền làm chủ trực tiếp và vai trò tự quản của nhân dân” chính là cách để phát huy hiệu quả tích cực, thực tế vai trò là chủ và làm chủ của người dân trong đời sống xã hội, thể hiện đúng và đầy đủ hơn bản chất tốt đẹp của chế độ ta là chế độ của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Từ yêu cầu này dẫn đến nhiệm vụ đặt ra cho nhiệm kỳ tới là tiếp tục nhận thức rõ hơn về nội dung, tính chất của quyền làm chủ của nhân dân trong điều kiện hiện nay, hoàn thiện thể chế, chính sách, các điều kiện và cách thức vận hành để thực thi dân chủ XHCN, bảo đảm tốt nhất quyền làm chủ của nhân dân dưới mọi hình thức, phát huy vai trò tích cực của nhân dân trong việc tự quyết định, tự quản lý trong cộng đồng.
Thứ hai, bổ sung thêm nội dung, phương châm thực hiện dân chủ như, “dân kiểm tra, dân giám sát” trong phương châm mới lần này là “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”. Dân biết thể hiện dân nắm bắt thông tin mọi mặt của đời sống chính trị liên quan đến đời sống nhân dân; dân bàn thể hiện dân được tham gia vào quá trình chính trị để có quyết sách chính trị phù hợp; dân làm thể hiện hành động của dân tức là thực hiện các quyết sách chính trị đã được thông qua; dân kiểm tra thể hiện quyền kiểm tra của dân đối với các hoạt động của các cơ quan nhà nước và đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức nhà nước; dân giám sát quá trình thực hiện dân chủ, giám sát mọi vấn đề, mọi công việc của đất nước, của các địa phương; và dân thụ hưởng là cái đích cuối cùng, mục tiêu cuối cùng của một chế độ vì dân, dân thụ hưởng những thành tựu về các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, chính trị, xã hội do dân là chủ, làm chủ và tạo nên những thành tựu đó. Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng là sáu yếu tố cơ bản, quan hệ thống nhất hữu cơ, biện chứng với nhau trong thực hiện dân chủ.
Thứ ba, xác định rõ hơn vai trò “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội làm nòng cốt” để nhân dân làm chủ. Mô hình chính trị và cơ chế vận hành của hệ thống chính trị là Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và nhân dân làm chủ. Trong chế độ chính trị XHCN, mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân là mối quan hệ giữa các chủ thể thống nhất về mục tiêu và lợi ích. Đảng và Nhà nước ban hành đường lối, chủ trương, chính sách, pháp luật tạo nền tảng chính trị, pháp lý, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền làm chủ của nhân dân. Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội tập hợp, vận động, đoàn kết rộng rãi các tầng lớp nhân dân; đại diện cho quyền lợi hợp pháp và nguyện vọng chính đáng của nhân dân; đưa các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước đi vào thực tiễn cuộc sống của nhân dân. Vai trò lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, nòng cốt của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội đều hướng đến thực hiện quyền làm chủ của nhân dân.
Thứ tư, khẳng định “vai trò chủ thể, vị trí trung tâm của nhân dân trong chiến lược phát triển đất nước, trong toàn bộ quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”, và “đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước là nền tảng chính trị, pháp lý để nhân dân thực hiện quyền làm chủ”. Nhân dân là chủ thể của đất nước, giữ vị trí trung tâm của quyền lực, mọi quyền lực đều thuộc về nhân dân. Do vậy, trong mọi chủ trương, đường lối của Đảng; chính sách pháp luật của nhà nước phải thực sự xuất phát từ cuộc sống, nguyện vọng, quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân, lấy hạnh phúc, ấm no của nhân dân làm mục tiêu phấn đấu; phải phát huy mạnh mẽ vai trò sáng tạo, sự ủng hộ và tham gia tích cực của nhân dân. Nhân dân tiếp nhận, ủng hộ và nhiệt tình tham gia thực hiện đường lối của Đảng vì thấy đường lối đó đáp ứng đúng yêu cầu, nguyện vọng của mình. Sức mạnh nhân dân là cội nguồn sâu xa của thắng lợi, của phát triển.
Thứ năm, nêu rõ yêu cầu: “Cấp ủy, tổ chức đảng, các tổ chức trong hệ thống chính trị, đội ngũ đảng viên, cán bộ, công chức, viên chức nêu gương thực hành dân chủ, tuân thủ pháp luật, đề cao đạo đức xã hội” trong thực hành dân chủ, trong thực hiện các nhiệm vụ chính trị. Phát huy dân chủ XHCN phụ thuộc rất lớn vào sự gương mẫu của đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, của thành viên trong tất cả các tổ chức của hệ thống chính trị là rất quan trọng. Họ là những người hiện đang nắm giữ những vị trí quan trọng, chủ chốt trong hệ thống chính trị, những hành động của họ có ảnh hưởng đến nhiều hoạt động trong đời sống xã hội nên họ phải có trách nhiệm nêu gương. Nêu gương để nhân dân tin tưởng, nhân dân thực hiện, nhân dân ý thức quyền làm chủ của mình và cũng để xứng đáng là người lãnh đạo, người đầy tớ của nhân dân. Nêu gương bằng những hành động phù hợp, những chuẩn mực pháp lý, chuẩn mực đạo đức; không để xảy ra hiện tượng xa dân, quan liêu, hách dịch, cửa quyền, tham nhũng; luôn giáo dục, tổ chức, giác ngộ nhân dân, không theo đuôi quần chúng; chống thái độ mị dân, lừa dân, dọa nạt dân, chạy theo lợi ích tầm thường…
3. Phương hướng, nhiệm vụ và giải pháp phát huy dân chủ XHCN theo tinh thần Văn kiện Đại hội Đảng XIII
Về phương hướng
Đại hội XIII xác định phương hướng phát triển đất nước đến năm 2030: “Thực hành và phát huy rộng rãi dân chủ XHCN, quyền làm chủ và vai trò chủ thể của nhân dân; củng cố, nâng cao niềm tin của nhân dân, tăng cường đồng thuận xã hội”(4).
Đề cao vai trò chủ thể, vị trí trung tâm của nhân dân trong chiến lược phát triển đất nước. Phát huy tính tích cực chính trị - xã hội, quyền và trách nhiệm của nhân dân tham gia xây dựng, chỉnh đốn Đảng, xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội, xây dựng đội ngũ đảng viên, cán bộ, công chức; có cơ chế giải phóng mọi tiềm năng, sức mạnh, khả năng sáng tạo, động viên nhân dân tham gia phát triển kinh tế và quản lý phát triển xã hội. Bảo đảm công khai, minh bạch thông tin, quyền được thông tin và cơ hội tiếp cận thông tin của mọi tầng lớp nhân dân. Thực hiện đúng đắn, hiệu quả dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện, nhất là dân chủ ở cơ sở. Chống các biểu hiện dân chủ cực đoan, dân chủ hình thức.
Đẩy mạnh việc hoàn thiện, xây dựng hệ thống pháp luật thống nhất, đồng bộ, hiện đại, khả thi, công khai, minh bạch, ổn định, dễ tiếp cận, có sức cạnh tranh quốc tế, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân, thúc đẩy đổi mới sáng tạo, bảo đảm yêu cầu phát triển bền vững kinh tế, xã hội và quốc phòng, an ninh trong điều kiện mới(5).
Về nhiệm vụ, giải pháp phát huy dân chủ XHCN
Nhiệm vụ trọng tâm: “Hoàn thiện đồng bộ hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách, nhằm phát huy mạnh mẽ dân chủ XHCN, quyền làm chủ của nhân dân; đồng thời tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội, trước hết là việc thực thi tinh thần “thượng tôn pháp luật”, gương mẫu tuân theo pháp luật, kỷ cương và thực hành dân chủ XHCN của cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội các cấp; của cán bộ, đảng viên; tăng cường đại đoàn kết toàn dân tộc”(6).
Nhằm thực hành và phát huy rộng rãi dân chủ XHCN, quyền làm chủ và vai trò chủ thể của nhân dân trong những năm tới, Đại hội XIII xác định:
- Tiếp tục cụ thể hóa, hoàn thiện hóa thể chế thực hành dân chủ theo tinh thần Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) và Hiến pháp năm 2013, bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Thực hiện đúng đắn, hiệu quả thực hiện dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện, đặc biệt là dân chủ ở cơ sở.
- Thể chế hóa và thực hiện tốt, có hiệu quả phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”. Muốn để “dân biết”, điều cốt yếu là phải cung cấp thông tin cho nhân dân, việc cung cấp thông tin phải chân thực, kịp thời và khách quan. Muốn để “dân bàn”, phải tạo các điều kiện thuận lợi (phương tiện, diễn đàn, cơ chế) để nhân dân tích cực, chủ động, tự giác bày tỏ quan điểm, chính kiến về những vấn đề mà mình đang quan tâm, vì lợi ích hợp pháp, chính đáng của họ và vì sự phát triển chung của mỗi địa phương, của đất nước.
Chính quyền các cấp không được phép thờ ơ trước những sáng kiến và những góp ý của người dân mà phải động viên, khích lệ họ để tạo động lực thúc đẩy họ có những sáng kiến và góp ý có giá trị. Khi đã được cung cấp thông tin một cách công khai, trung thực, kịp thời thông qua bàn bạc, trao đổi ý kiến để tìm ra tiếng nói chung, từ đó “dân làm” theo quy định của pháp luật. Muốn để “dân kiểm tra, giám sát”, Nhà nước phải có cơ chế bảo đảm cho nhân dân thực hiện việc kiểm tra, giám sát hoạt động của các cơ quan nhà nước, các tổ chức, cán bộ, công chức, viên chức nhà nước. “Dân thụ hưởng” khi dân có đầy đủ những quyền lợi, trách nhiệm và nghĩa vụ trong quá trình thực hiện dân chủ.
- Đảng và Nhà nước ban hành đường lối, chủ trương, chính sách, pháp luật tạo nền tảng chính trị, pháp lý, tôn trọng bảo đảm, bảo vệ quyền làm chủ của nhân dân. Cấp ủy, tổ chức đảng, các tổ chức trong hệ thống chính trị, đội ngũ đảng viên, cán bộ, công chức, viên chức nêu gương thực hành dân chủ, tuân thủ pháp luật, đề cao đạo đức xã hội. Có chính sách khuyến khích và cơ chế phù hợp bảo vệ những cán bộ, đảng viên có ý chí chiến đấu cao, gương mẫu thực hiện nguyên tắc của Đảng, pháp luật của Nhà nước, dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đổi mới sáng tạo, dám đương đầu với khó khăn, thử thách và quyết liệt trong hành động vì lợi ích chung.
- Đề cao vai trò chủ thể, vị trí trung tâm của nhân dân trong chiến lược phát triển đất nước, trong toàn bộ quá trình xây dựng, bảo vệ Tổ quốc. Phát huy tính tích cực chính trị - xã hội, trí tuệ, quyền và trách nhiệm của nhân dân tham gia xây dựng, chỉnh đốn Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội, xây dựng đội ngũ đảng viên, cán bộ, công chức; động viên nhân dân tham gia phát triển kinh tế; góp phần quản lý xã hội thông qua các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức xã hội - nghề nghiệp, các hoạt động tự quản cộng đồng; xây dựng, quản lý, thụ hưởng văn hóa; xây dựng nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân, ngoại giao nhân dân gắn với thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân, thế trận lòng dân. Do đó, cần vận động nhân dân tham gia xây dựng hệ thống chính trị, các thiết chế bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của nhân dân.
- Xử lý kịp thời, nghiêm minh những tổ chức, cá nhân lợi dụng dân chủ, gây rối nội bộ, làm mất ổn định chính trị - xã hội hoặc vi phạm dân chủ, làm phương hại đến quyền làm chủ của nhân dân. Có thể truy cứu trách nhiệm hình sự đối với các cá nhân, tổ chức có hành vi vi phạm quyền làm chủ của nhân dân, lợi dụng dân chủ để gây mất an ninh trật tự, an toàn xã hội. Có như vậy mới tạo sự răn đe đối với những ai đi ngược lại lợi ích của nhân dân và cũng tạo niềm tin để nhân dân tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, làm chủ của nhân dân trong quá trình phát triển của đất nước.
Dân chủ XHCN là bản chất của chế độ chính trị Việt Nam, là mục tiêu, là động lực của đất nước, thể hiện quan điểm lấy dân là gốc, gốc có vững, cây mới trưởng thành, phát triển. Dân chủ có thực sự, dân tộc mới phồn vinh, hạnh phúc. Vì vậy, dân chủ cần được thực hành, phát huy, phát triển trên cơ sở tôn trọng Hiến pháp, pháp luật quốc gia./.
___________________________________________
(1), (3), (4), (5), (6) Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, Nxb. CTQG Sự thật, H., T.1, tr.13, 118, 38, 51, 202.
(2) Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, Nxb. CTQG, T.5, tr.698.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đảng Cộng sản Việt Nam (2010), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc thời kỳ đổi mới (khóa VI, VII, VIII, IX, X), phần I, phần II, Nxb. CTQG.
Bình luận