Phát triển thị trường sản phẩm và dịch vụ văn hóa ở nước ta hiện nay
Đặc trưng, vai trò của thị trường sản phẩm và dịch vụ văn hóa
Theo C.Mác, sản phẩm văn hóa là một loại hàng hóa “đặc biệt”. Với tư cách hàng hóa, sản phẩm này phải được lưu thông trên thị trường và được xã hội trả công cho người sáng tạo và sản xuất. Sự trả công này có thể là do nhà nước đặt hàng và chi trả, có thể là do người dân chi trả thông qua thị trường. Với tư cách hàng hóa đặc biệt, các sản phẩm văn hóa không chỉ có chức năng kinh tế, đem lại thu nhập cho người sáng tạo và người sản xuất, mà còn góp phần bồi dưỡng tư tưởng, tình cảm thẩm mỹ, xây dựng đạo đức, nhân cách của con người, làm lành mạnh hóa đời sống tinh thần của xã hội. Đây chính là thiên chức hàng đầu của sản phẩm văn hóa mà nếu không có nó thì xã hội không cần đến các sản phẩm này nữa.
Chính vì vậy, thị trường sản phẩm và dịch vụ văn hóa là một loại thị trường đặc biệt, vừa đáp ứng nhu cầu tăng trưởng kinh tế, vừa góp phần bồi dưỡng nhân cách, xây dựng môi trường xã hội lành mạnh, đấu tranh phê phán các xu hướng phản văn hóa, phản thẩm mỹ, bảo vệ nền tảng tinh thần của dân tộc, của quốc gia. Việc mở cửa và phát triển thị trường sản phẩm và dịch vụ văn hóa bao giờ cũng được các quốc gia xem xét thận trọng, nhất là trong bối cảnh tự do hóa nền kinh tế thế giới và hội nhập quốc tế diễn ra ngày càng sâu rộng. Hệ giá trị định hướng của mỗi quốc gia, mỗi cộng đồng dân tộc sẽ chi phối quá trình mở cửa và phát triển thị trường sản phẩm và dịch vụ văn hóa đối với bên ngoài.
Mặc dù vậy, quá trình quốc tế hóa trong lĩnh vực sản xuất vật chất ngày càng gia tăng, kéo theo quá trình quốc tế hóa trong lĩnh vực sản xuất các sản phẩm tinh thần. Những sản phẩm tinh thần của mỗi quốc gia, dân tộc có thể trở thành tài sản chung của nhân loại trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng. Vì vậy, xu thế phát triển thị trường sản phẩm và dịch vụ văn hóa trong giao lưu quốc tế ngày càng diễn ra mạnh mẽ, sôi động là xu thế tất yếu. Muốn hội nhập quốc tế hiệu quả, mỗi quốc gia phải nâng cao nội lực của thị trường sản phẩm và dịch vụ văn hóa trong nước, tạo tiền đề cần thiết cho quá trình mở cửa giao lưu quốc tế.
Thị trường sản phẩm và dịch vụ văn hóa là kết quả của quá trình sáng tạo, sản xuất, kinh doanh dịch vụ trên lĩnh vực văn hóa trong nền kinh tế thị trường. Các quy luật cơ bản của kinh tế thị trường, như quy luật giá trị, quy luật cung - cầu, quy luật cạnh tranh chi phối và điều tiết hoạt động của thị trường sản phẩm và dịch vụ văn hóa. Đồng thời, thị trường sản phẩm và dịch vụ văn hóa cũng phụ thuộc vào khu vực sáng tạo, sản xuất sản phẩm văn hóa, đặc biệt là các ngành công nghiệp văn hóa.
Theo Tổ chức Giáo dục, khoa học và văn hóa của Liên hợp quốc (UNESCO), công nghiệp văn hóa là ngành công nghiệp sáng tạo, sản xuất và dịch vụ văn hóa. Công nghiệp văn hóa bao gồm các lĩnh vực chủ yếu, như truyền thông, thiết kế, thời trang, nghệ thuật biểu diễn, xuất bản, phim ảnh, nghệ thuật thị giác,... với hai đặc trưng là “sáng tạo” và “công nghiệp”. Các ngành công nghiệp văn hóa đóng vai trò chủ đạo để sản xuất ra các sản phẩm và dịch vụ văn hóa phục vụ nhu cầu của đại chúng. Vì vậy, muốn phát triển thị trường sản phẩm và dịch vụ văn hóa, cần quan tâm giải phóng năng lực sáng tạo và sản xuất của các ngành công nghiệp văn hóa, tạo ra nhiều sản phẩm hấp dẫn đối với công chúng và đáp ứng nhu cầu tiêu dùng văn hóa ngày càng cao của xã hội.
Thị trường sản phẩm và dịch vụ văn hóa là một bộ phận quan trọng của nền văn hóa, đồng thời là bộ phận hữu cơ của nền kinh tế, có chức năng kép, vừa đáp ứng nhu cầu tinh thần ngày càng cao và đa dạng của nhân dân, vừa tham gia đóng góp quan trọng vào tăng trưởng kinh tế, gia tăng việc làm, bảo đảm an sinh xã hội. Vai trò của thị trường sản phẩm và dịch vụ văn hóa được thể hiện ở các phương diện sau:
Thứ nhất, thị trường sản phẩm và dịch vụ văn hóa góp phần quan trọng vào kích thích nhu cầu sáng tạo, sản xuất và phát triển các sản phẩm và dịch vụ văn hóa nhằm đáp ứng nhu cầu tiêu dùng và hưởng thụ văn hóa của công chúng, gia tăng việc làm, góp phần tăng trưởng kinh tế - xã hội. Căn cứ vào nhu cầu của thị trường, các nhà sáng tạo, sản xuất, dịch vụ văn hóa sẽ tìm cách đổi mới sáng tạo, sản xuất và phát triển các sản phẩm và dịch vụ văn hóa đáp ứng nhu cầu thị trường. Chất lượng của các sản phẩm và dịch vụ văn hóa sẽ góp phần tạo nên thương hiệu của sản phẩm văn hóa, tạo uy tín cho nhà sáng tạo và sản xuất cũng như tạo nên tính bền vững của thị trường, củng cố niềm tin của công chúng vào thị trường.
Thứ hai, thị trường sản phẩm và dịch vụ văn hóa là nơi đáp ứng nhu cầu tiêu dùng và thụ hưởng các sản phẩm và dịch vụ văn hóa. Công chúng có thể tìm kiếm những sản phẩm và dịch vụ văn hóa phù hợp với nhu cầu và thị hiếu thẩm mỹ của mình. Thông qua tiêu dùng của công chúng, thị trường sản phẩm và dịch vụ văn hóa phản ánh nhu cầu của xã hội đối với khu vực sáng tạo, sản xuất và dịch vụ văn hóa, điều tiết quá trình này cho phù hợp với quy luật khách quan của thị trường.
Thứ ba, thị trường sản phẩm và dịch vụ văn hóa trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và chuyển đổi số hiện nay ngày càng được mở rộng và chiếm vai trò quan trọng trong nền kinh tế của mỗi quốc gia. Phát triển dựa trên nền tảng của khoa học, kỹ thuật và công nghệ hiện đại, đặc biệt là công nghệ thông tin và truyền thông, thị trường sản phẩm và dịch vụ văn hóa luôn mở rộng phạm vi hoạt động cả về không gian và thời gian, gia tăng mức tiêu dùng văn hóa của công chúng ở mọi lứa tuổi, mọi nghề nghiệp khác nhau, tạo nên quá trình dân chủ hóa trong tiếp nhận và thụ hưởng các thành tựu văn hóa của dân tộc và nhân loại; qua đó, đóng góp ngày càng nhiều vào quá trình tăng trưởng kinh tế của các quốc gia.
Chính vì những lý do trên, hiện nay nhiều quốc gia rất chú trọng phát triển thị trường sản phẩm và dịch vụ văn hóa trên cơ sở thực hiện chiến lược phát triển công nghiệp văn hóa như một ngành kinh tế mũi nhọn, tạo điều kiện để công nghiệp văn hóa đóng góp ngày càng nhiều vào quá trình phát triển kinh tế - xã hội, góp phần quảng bá hình ảnh văn hóa và con người ra thế giới.
Những thành tựu và hạn chế trong phát triển thị trường sản phẩm và dịch vụ văn hóa ở nước ta thời gian qua
Về thành tựu
Cùng với quá trình đổi mới, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế, Đảng ta đã sớm quan tâm phát triển thị trường sản phẩm và dịch vụ văn hóa. Trong Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa VIII, “Về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”, Đảng ta đã xác định xây dựng, ban hành “chính sách trong kinh tế văn hóa nhằm gắn văn hóa với các hoạt động kinh tế, khai thác tiềm năng kinh tế, tài chính hỗ trợ cho phát triển văn hóa, đồng thời bảo đảm yêu cầu về chính trị, tư tưởng của hoạt động văn hóa, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc”(1). Nội dung cơ bản của chính sách kinh tế trong văn hóa được Đảng ta xác định trong nghị quyết này gồm bốn vấn đề cơ bản, liên quan chặt chẽ tới phát triển thị trường văn hóa và dịch vụ văn hóa:
Một là, thực hiện cơ chế mở rộng hoạt động kinh doanh dịch vụ (hoạt động thể thao, dịch vụ văn hóa...), tạo ra nguồn thu hỗ trợ cho hoạt động sự nghiệp của các đơn vị văn hóa, nghệ thuật.
Hai là, cải tiến chế độ tài trợ, đặt hàng đối với điện ảnh, biểu diễn nghệ thuật, báo chí, xuất bản; thuế đối với báo chí; trợ giá cho một số báo chí, văn hóa phẩm đưa ra nước ngoài nhằm mục đích tuyên truyền đối ngoại và sách báo đưa lên miền núi, hải đảo, vùng sâu, vùng xa.
Ba là, quy định cụ thể chế độ cho các doanh nghiệp đặc thù ngành văn hóa thông tin (hãng phim, rạp chiếu bóng, hiệu sách, khu vui chơi giải trí, nhà xuất bản, trung tâm triển lãm, tu bổ di tích...) được hưởng mức thuế ưu đãi, trong hoạt động kinh doanh (thuế đất, vốn khấu hao cơ bản).
Bốn là, cho phép các thành phần kinh tế, kể cả tư nhân trong nước và nước ngoài, thực hiện một số hình thức liên doanh, liên kết với một số cơ sở hoạt động văn hóa theo quy định của pháp luật nhằm tham gia xây dựng kết cấu hạ tầng, đổi mới công nghệ và tham gia tổ chức một số hoạt động văn hóa có nội dung lành mạnh, bổ ích.
Trên cơ sở tổng kết, đánh giá 15 năm thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa VIII, “Về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”, Nghị quyết Hội nghị Trung ương 9 khóa XI, “Về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước” đã bổ sung một trong những nhiệm vụ mới là phát triển công nghiệp văn hóa đi đôi với xây dựng, hoàn thiện thị trường văn hóa.
Trong đó, Đảng ta chỉ rõ, phát triển công nghiệp văn hóa nhằm khai thác, phát huy những tiềm năng và giá trị đặc sắc của văn hóa Việt Nam; khuyến khích xuất khẩu sản phẩm văn hóa, góp phần quảng bá văn hóa Việt Nam ra nước ngoài. Có cơ chế khuyến khích đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị kỹ thuật và công nghệ tiên tiến để nâng cao chất lượng sản phẩm văn hóa. Tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp văn hóa, văn nghệ, thể thao, du lịch thu hút các nguồn lực xã hội để phát triển. Đồng thời, Đảng ta cũng yêu cầu đổi mới, hoàn thiện thể chế, tạo môi trường pháp lý thuận lợi để xây dựng, phát triển thị trường văn hóa và công nghiệp văn hóa.
Như vậy, nhận thức của Đảng về phát triển thị trường sản phẩm và dịch vụ văn hóa trong thời kỳ phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế đã ngày càng hoàn thiện hơn. Quá trình phát triển thị trường sản phẩm và dịch vụ văn hóa phải gắn liền với phát triển các ngành công nghiệp văn hóa, khu vực sáng tạo và sản xuất quan trọng nhất để tạo ra các sản phẩm và dịch vụ văn hóa đáp ứng nhu cầu của thị trường.
Cả hai lĩnh vực công nghiệp văn hóa và thị trường sản phẩm, dịch vụ văn hóa đều liên quan đến một vấn đề then chốt là sở hữu trí tuệ. Do đó, ngay trong Nghị quyết Hội nghị Trung ương 9 khóa XI, “Về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước”, Đảng ta đã nhấn mạnh: “Nâng cao ý thức thực thi các quy định pháp luật về quyền tác giả của người liên quan trong toàn xã hội. Củng cố và tăng cường hiệu quả hoạt động của cơ quan quản lý và cơ quan thực thi quyền tác giả từ Trung ương đến cơ sở”(2).
Trải qua một thời gian triển khai thực hiện các nghị quyết của Đảng về văn hóa, đặc biệt là thực hiện nhiệm vụ phát triển thị trường sản phẩm và dịch vụ văn hóa, Việt Nam đã thu được những thành tựu bước đầu đáng khích lệ. Nhà nước đã ban hành một số văn bản tạo cơ sở pháp lý để phát triển công nghiệp văn hóa cũng như thị trường sản phẩm và dịch vụ văn hóa, như Quyết định số 1755/QĐ-TTg, ngày 8.9.2016, của Thủ tưởng Chính phủ, “Phê duyệt Chiến lược phát triển các ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030”; Quyết định số 88/QĐ-TTg, ngày 20.1.2017, của Thủ tưởng Chính phủ, “Về việc phê duyệt Đề án tăng cường năng lực quản lý và thực thi có hiệu quả pháp luật bảo hộ quyền tác giả, quyền liên quan đến năm 2020, định hướng đến năm 2025”...
Nhận thức của xã hội về vai trò, vị trí của thị trường sản phẩm và dịch vụ văn hóa trong việc đáp ứng nhu cầu sáng tạo, hưởng thụ văn hóa của nhân dân, đóng góp vào phát triển kinh tế - xã hội đã được nâng lên. Việc đầu tư các nguồn lực để phát triển thị trường sản phẩm và dịch vụ văn hóa đã được chú ý. Vấn đề bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ có chuyển biến tích cực. Các cơ quan quản lý nhà nước đã chủ động rà soát, xây dựng lộ trình sửa đổi, bổ sung và xây dựng mới một số văn bản pháp quy nhằm khuyến khích sáng tạo, xuất khẩu sản phẩm văn hóa, tạo môi trường thông thoáng để phát triển thị trường sản phẩm và dịch vụ văn hóa. Nhà nước tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, kỹ thuật, công nghệ tiên tiến cho một số ngành công nghiệp văn hóa, như xuất bản, điện ảnh, nghệ thuật biểu diễn, du lịch văn hóa... Hiện nay, ở nước ta đã hình thành một số thị trường sản phẩm và dịch vụ văn hóa và đơn vị hoạt động có hiệu quả trên một số lĩnh vực, như thị trường sách, thị trường điện ảnh, thị trường biểu diễn nghệ thuật, thị trường tranh...(3).
Với ngành điện ảnh, tổng doanh thu điện ảnh Việt Nam năm 2019 đạt trên 4.100 tỷ đồng (tăng 26% so với năm 2018); trong đó các phim điện ảnh Việt Nam chiếm 29% tổng doanh thu ngành điện ảnh, khoảng 1.150 tỷ đồng (tăng hơn 40% so với mốc 800 tỷ đồng của năm 2018). Trong năm 2020, đầu năm 2021, do ảnh hưởng của đại dịch COVID-19, doanh thu của ngành giảm hơn song đã xuất hiện một số phim đạt doanh thu hàng trăm tỷ đồng. Với ngành du lịch, tốc độ tăng trưởng bình quân trong giai đoạn 2016 - 2019 là 23%/năm, Việt Nam được đánh giá là một trong 10 quốc gia có mức tăng trưởng du lịch nhanh nhất thế giới.
Trong lĩnh vực xuất bản, năm 2019, doanh thu ngành xuất bản đạt trên 2.600 tỷ đồng, lợi nhuận đạt khoảng 230 tỷ đồng (tăng 8% so với năm 2018). Trong lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn, năm 2019, các đơn vị nghệ thuật Trung ương đẩy mạnh hoạt động tự chủ, tổ chức các chương trình biểu diễn nghệ thuật, kinh phí thu từ các buổi biểu diễn có bán vé đạt khoảng 72,3 tỷ đồng, tăng trưởng doanh thu đạt khoảng 5% mỗi năm...(4). Bên cạnh đó, theo tổng hợp của Ban Tuyên giáo Trung ương, công tác bảo hộ quyền tác giả, sở hữu trí tuệ được quan tâm, tổng số giấy chứng nhận đăng ký quyền tác giả năm 2014 là 4.515; năm 2018 là 7.036. Một số tổ chức, cá nhân có những đầu tư nhất định vào một số lĩnh vực của các ngành công nghiệp văn hóa và bước đầu thu được kết quả đáng khích lệ.
Về hạn chế, yếu kém
Có thể thấy, thời gian qua, nhận thức về vai trò, yêu cầu phát triển thị trường sản phẩm và dịch vụ văn hóa chưa sâu sắc. Nhà nước chưa ban hành các chính sách cụ thể có ý nghĩa đột phá để khuyến khích sáng tạo, sản xuất, phát triển thị trường sản phẩm và dịch vụ văn hóa. Thị trường sản phẩm và dịch vụ văn hóa bước đầu được hình thành, nhưng còn chậm phát triển, quy mô nhỏ, mang tính tự phát, thiếu tính chuyên nghiệp. Sản phẩm văn hóa ở một số lĩnh vực còn nghèo nàn, đơn điệu, sức cạnh tranh yếu, chưa thu hút được nhiều sự quan tâm của công chúng trong và ngoài nước. Thị trường sản phẩm văn hóa nội địa có dấu hiệu bị các sản phẩm văn hóa nước ngoài lấn lướt, áp đảo. Một số dịch vụ văn hóa còn vi phạm pháp luật bị xử lý, như dịch vụ karaoke, vũ trường...
Tình trạng vi phạm bản quyền chưa được khắc phục. Tình trạng nhập siêu về sản phẩm văn hóa còn kéo dài. Chất lượng các sản phẩm văn hóa chưa cao nên khó hội nhập với thị trường văn hóa thế giới. Việc xuất khẩu, quảng bá các sản phẩm văn hóa Việt Nam ra nước ngoài còn hạn chế. Công tác quản lý xuất, nhập khẩu văn hóa chưa chặt chẽ dẫn đến để lọt vào trong nước các sản phẩm nước ngoài chưa phù hợp với thuần phong, mỹ tục, truyền thống văn hóa, đạo đức, thẩm mỹ của dân tộc, thậm chí có nhiều sản phẩm độc hại, tác động tiêu cực đến đời sống xã hội...
Một số sự kiện văn hóa quốc tế bị lạm dụng vì mục tiêu lợi nhuận, chưa coi trọng giá trị thẩm mỹ và chức năng giáo dục. Một bộ phận cán bộ, nhân dân có tâm lý sính ngoại, chạy đua tiêu dùng các sản phẩm văn hóa ngoại nhập cũng như tiếp nhận lối sống thực dụng, hưởng lạc, ảnh hưởng đến việc giữ gìn giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc và xây dựng đạo đức, nhân cách, bản lĩnh con người Việt Nam trong hội nhập quốc tế.
Có nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan dẫn đến hạn chế, bất cập nêu trên, nhưng chủ yếu là những nguyên nhân chủ quan sau:
Thứ nhất, nhận thức của một số cấp ủy, chính quyền, đoàn thể, tổ chức xã hội về vai trò, vị trí của văn hóa nói chung, của thị trường sản phẩm và dịch vụ văn hóa nói riêng còn hạn chế, bất cập; chưa quan tâm đầu tư đúng mức để phát triển và quản lý tốt thị trường sản phẩm và dịch vụ văn hóa; thậm chí có nơi, có lúc còn buông lỏng quản lý, chưa ngăn chặn và xử lý kiên quyết các vụ việc vi phạm pháp luật về văn hóa.
Thứ hai, công tác lãnh đạo, quản lý trên lĩnh vực văn hóa nói chung và trong phát triển công nghiệp văn hóa, phát triển thị trường sản phẩm và dịch vụ văn hóa nói riêng còn chậm đổi mới. Việc xây dựng, đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt làm công tác văn hóa cũng như công tác phát triển thị trường sản phẩm và dịch vụ văn hóa còn hạn chế.
Thứ ba, hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về văn hóa nói chung, về quản lý phát triển thị trường sản phẩm và dịch vụ văn hóa nói riêng chưa theo kịp thực tiễn phát triển, nhất là vấn đề quản lý thị trường sản phẩm và dịch vụ văn hóa, quản lý internet, truyền thông xã hội, quản lý dịch vụ văn hóa tâm linh.
Thứ tư, công tác thanh tra, kiểm tra thị trường sản phẩm và dịch vụ văn hóa chưa được thực hiện nghiêm túc, thường xuyên. Lực lượng quản lý thị trường còn mỏng, thiếu tính chuyên nghiệp, có nơi hoạt động còn hình thức, mức xử phạt hành chính ở một số vụ việc chưa đủ mạnh để răn đe tái phạm. Một số nơi còn chưa chú ý ngăn chặn các sản phẩm phản văn hóa, phản thẩm mỹ xuất hiện trên thị trường. Việc áp dụng khoa học kỹ thuật, công nghệ vào quản lý thị trường sản phẩm và dịch vụ văn hóa còn bất cập.
Thứ năm, công tác nghiên cứu, tổng kết thực tiễn để phát triển lý luận nhằm phát triển thị trường sản phẩm và dịch vụ văn hóa còn chậm, bị động, chưa chú ý gắn kết phát triển thị trường sản phẩm và dịch vụ văn hóa vào tổng thể chiến lược phát triển kinh tế - xã hội chung của đất nước.
Một số giải pháp phát triển thị trường sản phẩm và dịch vụ văn hóa trong bối cảnh mới
Hiện nay, cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư với sự phát triển vượt bậc của khoa học, công nghệ và bối cảnh chuyển đổi số đặt ra nhiều thời cơ nhưng cũng không ít thách thức đối với sự phát triển kinh tế - xã hội nói chung và thị trường sản phẩm và dịch vụ văn hóa nói riêng. Bên cạnh đó, đại dịch COVID-19 cùng những biến động khó lường của tình hình kinh tế, chính trị thế giới đã và đang tạo ra sự thay đổi về thói quen tiêu dùng và nhu cầu văn hóa, nghệ thuật của công chúng. Thực tiễn đó đặt ra yêu cầu đổi mới, sáng tạo và thích ứng linh hoạt của thị trường sản phẩm và dịch vụ văn hóa ở bất kỳ quốc gia nào, trong đó có Việt Nam. Để đẩy mạnh phát triển thị trường sản phẩm và dịch vụ văn hóa ở nước ta thời gian tới, cần thực hiện đồng bộ và toàn diện một số giải pháp sau:
Một là, nhận thức sâu sắc và toàn diện hơn vai trò của thị trường sản phẩm và dịch vụ văn hóa trong tổng thể chiến lược phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế ở nước ta hiện nay. Tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa dựa trên nền tảng của khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, trong đó tập trung phát triển các ngành ưu tiên có mức độ sẵn sàng cao, như công nghiệp công nghệ thông tin, điện tử - viễn thông; an toàn, an ninh mạng; công nghiệp chế tạo thông minh; tài chính - ngân hàng; thương mại điện tử; nông nghiệp số; du lịch số; công nghiệp văn hóa số; y tế; giáo dục và đào tạo; “xây dựng và định vị thương hiệu du lịch quốc gia gắn với hình ảnh chủ đạo, độc đáo, mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc. Phát triển đồng thời cả du lịch quốc tế và du lịch trong nước. Phát triển và tăng cường quản lý hoạt động du lịch văn hóa tâm linh, sinh thái, lịch sử”(5); “Sớm hình thành thị trường sản phẩm dịch vụ văn hóa, thông tin lành mạnh”(6).
Khắc phục tư duy bao cấp và đẩy nhanh việc vận dụng các quy luật của kinh tế thị trường để phát triển thị trường sản phẩm và dịch vụ văn hóa trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Triển khai thực hiện kết luận số 76-KL/TW, ngày 4.6.2020, của Bộ Chính trị khóa XII, “Về việc tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 33-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI”, trong đó có nhiệm vụ tăng cường bảo hộ quyền tác giả, phát triển công nghiệp văn hóa đi đôi với xây dựng, hoàn thiện thị trường sản phẩm và dịch vụ văn hóa.
Hai là, rà soát, sửa đổi, bổ sung, xây dựng mới các văn bản quy phạm pháp luật, các cơ chế, chính sách có tính đột phá khuyến khích hoạt động sáng tạo, thu hút đầu tư cơ sở vật chất, kỹ thuật công nghệ tiên tiến, tạo môi trường pháp lý thuận lợi để xây dựng, phát triển thị trường sản phẩm và dịch vụ văn hóa. Từng bước nâng cao chất lượng, sức cạnh tranh của sản phẩm công nghiệp văn hóa ở một số lĩnh vực có ưu thế, như du lịch văn hóa - sinh thái, thủ công mỹ nghệ, nghệ thuật biểu diễn, điện ảnh, mỹ thuật, nhiếp ảnh. Phát huy tiềm năng, đặc thù của sản phẩm văn hóa dân tộc. Đẩy mạnh xã hội hóa trong phát triển thị trường sản phẩm và dịch vụ văn hóa. Đa dạng hóa mọi nguồn lực đầu tư cho văn hóa, tăng cường xuất khẩu sản phẩm và dịch vụ văn hóa.
Ba là, xây dựng, hoàn thiện các thị trường sản phẩm và dịch vụ văn hóa gắn với định hướng các giá trị văn hóa. Phát huy vai trò của khoa học - công nghệ, đặc biệt là công nghệ số trong sáng tạo, sản xuất, phổ biến và quản lý các sản phẩm và dịch vụ văn hóa, đáp ứng nhu cầu ngày càng đa dạng của công chúng hiện nay, nhất là trong bối cảnh chuyển đổi số. Nâng cao trách nhiệm xã hội và hiệu quả thực thi pháp luật về quyền tác giả và các quyền liên quan, thúc đẩy cạnh tranh lành mạnh trên thị trường.
Bốn là, đẩy mạnh công tác xuất, nhập khẩu các sản phẩm và dịch vụ văn hóa, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, tăng cường quảng bá sản phẩm văn hóa và dịch vụ văn hóa Việt Nam ra nước ngoài. Xây dựng thương hiệu các sản phẩm văn hóa đạt chuẩn quốc gia, khắc phục tình trạng du nhập các sản phẩm phản văn hóa, phản thẩm mỹ vào thị trường trong nước.
Năm là, tập trung đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cho hoạt động văn hóa nói chung, cho phát triển công nghiệp văn hóa, thị trường sản phẩm và dịch vụ văn hóa nói riêng. Chú trọng xây dựng đội ngũ cán bộ quản lý thị trường sản phẩm và dịch vụ văn hóa ngang tầm với đòi hỏi của thời kỳ mới.
Sáu là, tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra thị trường sản phẩm và dịch vụ văn hóa. Thường xuyên sơ kết, tổng kết, rút ra bài học kinh nghiệm cần thiết để tiếp tục phát triển thị trường sản phẩm và dịch vụ văn hóa. Kiên quyết đấu tranh loại bỏ những sản phẩm độc hại trên thị trường, khắc phục tình trạng đưa ra thị trường những sản phẩm kém chất lượng, có tác động tiêu cực đến đời sống văn hóa xã hội. Đặc biệt chú trọng đấu tranh, phê phán các sản phẩm có tư tưởng sai trái, có biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”; đồng thời, chú trọng hoạt động bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, bảo vệ các giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của dân tộc thông qua việc sáng tạo và phát triển các sản phẩm và dịch vụ văn hóa lành mạnh, góp phần xây dựng văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước./.
____________________________________________
(1) Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khóa VIII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998, tr. 73.
(2) Văn kiện Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương khóa XI, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2014, tr. 57.
(3) Theo tổng hợp của Ban Tuyên giáo Trung ương, số hãng phim của cả nước năm 2014 là 334, năm 2018 tăng lên 505 hãng. Tổng số phim truyện được phát hành trong năm 2014 là 190, năm 2018 là 251 phim.
(4) Xem: Tạ Quang Đông: “Phát triển các sản phẩm, dịch vụ văn hóa để quảng bá hình ảnh Việt Nam ra thế giới”, Tạp chí Cộng sản điện tử, https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/van_hoa_ xa_hoi/-/2018/818302/phat-trien-cac-san-pham%2C-dich-vu-van-hoa-de-quang-ba-hinh-anh-viet-nam-ra-the-gioi.aspx, ngày 15.9.2020.
(5), (6) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, T.2, tr.110,142.
Nguồn: Bài đăng Tap chí Cộng sản điện tử ngày 25.2.2022
Bài liên quan
- Một số giải pháp tăng cường sự lãnh đạo của Huyện ủy Tân Uyên, tỉnh Lai Châu đối với việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh thời gian tới
- Giải pháp đẩy mạnh tuyên truyền phát triển bền vững kinh tế biển ở các tỉnh, thành phố ven biển vùng Đồng bằng Sông Hồng đến năm 2030, tầm nhìn đến 2045
- Nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng của Trường Chính trị tỉnh Yên Bái trong tình hình mới
- Tư tưởng hồi hướng công đức trong giáo lý của đạo Phật – tính hợp lý và giá trị đạo đức
- Tăng cường sự lãnh đạo của Tỉnh ủy Quảng Ninh trong sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị hiện nay
Xem nhiều
-
1
Xây dựng chính quyền điện tử tại Ủy ban nhân dân tỉnh Phú Thọ hướng tới chính quyền số năm 2030: cơ hội và thách thức
-
2
Tương lai cho thế hệ vươn mình
-
3
THÔNG BÁO VỀ VIỆC XUẤT BẢN TẠP CHÍ CHUYÊN ĐỀ TỪ NĂM 2025
-
4
Nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng của Trường Chính trị tỉnh Yên Bái trong tình hình mới
-
5
Chi bộ Văn phòng Đảng – Hội đồng trường – Đoàn thể tổ chức thành công Đại hội Chi bộ nhiệm kỳ 2025-2027
-
6
Chi bộ Ban Kế hoạch – Tài chính tổ chức thành công Đại hội Chi bộ nhiệm kỳ 2025-2027
Liên kết
- Báo điện tử đảng cộng sản việt nam
- Báo nhân dân
- Báo Quân đội nhân dân
- Cổng thông tin điện tử Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Cổng thông tin điện tử Học viện Chính trị quốc gia hồ chí minh
- Tạp chí Cộng sản
- Tạp chí Giáo dục lý luận
- Tạp chí Giáo dục và Xã hội
- Tạp chí Khoa học xã hội và Nhân văn
- Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam
- Tạp chí Lý luận chính trị
- Tạp chí Nghiên cứu con người
- TẠP CHÍ Nghiên cứu dân tộc
- Tạp chí Người làm báo
- Tạp chí Nội chính
- Tạp chí Quản lý Nhà nước
- Tạp chí Tổ chức Nhà nước
- Tạp chí Tuyên giáo
- Tạp chí Xây Dựng Đảng
- Thư viện số Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Trang thông tin điện tử Hội đồng Lý luận Trung ương
Nâng cao hiệu quả tuyên truyền, phổ biến pháp luật về an ninh, trật tự cho người nước ngoài tại các khu đô thị mới trên địa bàn quận Hà Đông, Thành phố Hà Nội theo chức năng, nhiệm vụ của công an phường
Thời gian qua, các khu đô thị mới trên địa bàn quận Hà Đông, Hà Nội đã thu hút một lượng lớn người nước ngoài đến sinh sống và làm việc. Thực hiện chức năng, nhiệm vụ được giao, công an các phường trên địa bàn quận Hà Đông đã huy động các lực lượng, sử dụng nhiều hình thức tuyên truyền, phổ biến pháp luật cho người nước ngoài tại các khu đô thị mới và đã mang lại kết quả tích cực. Tuy nhiên, bên cạnh những ưu điểm, công tác này vẫn còn những hạn chế, bất cập nhất định. Trên cơ sở nghiên cứu, đánh giá thực tiễn, bài viết đưa ra dự báo và đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu quả tuyên truyền, phổ biến pháp luật về an ninh, trật tự cho người nước ngoài tại các khu đô thị mới trên địa bàn quận Hà Đông, Thành phố Hà Nội theo chức năng, nhiệm vụ của công an phường.
Một số giải pháp tăng cường sự lãnh đạo của Huyện ủy Tân Uyên, tỉnh Lai Châu đối với việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh thời gian tới
Một số giải pháp tăng cường sự lãnh đạo của Huyện ủy Tân Uyên, tỉnh Lai Châu đối với việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh thời gian tới
Trong bối cảnh hiện nay, việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh không chỉ là nhiệm vụ chính trị quan trọng mà còn là yếu tố quyết định trong việc xây dựng Đảng, phát triển kinh tế - xã hội và nâng cao đời sống tinh thần của người dân. Trước yêu cầu đó, Huyện ủy Tân Uyên, tỉnh Lai Châu với vai trò là lực lượng lãnh đạo cần chủ động đề ra những giải pháp cụ thể, thiết thực nhằm nâng cao hiệu quả triển khai công tác này trong thời gian tới, từ đó củng cố và phát huy hơn nữa vai trò lãnh đạo của Đảng trong việc thực hiện mục tiêu cao cả vì dân, vì nước, xây dựng huyện Tân Uyên trở thành huyện phát triển khá của tỉnh.
Giải pháp đẩy mạnh tuyên truyền phát triển bền vững kinh tế biển ở các tỉnh, thành phố ven biển vùng Đồng bằng Sông Hồng đến năm 2030, tầm nhìn đến 2045
Giải pháp đẩy mạnh tuyên truyền phát triển bền vững kinh tế biển ở các tỉnh, thành phố ven biển vùng Đồng bằng Sông Hồng đến năm 2030, tầm nhìn đến 2045
Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế và yêu cầu phát triển bền vững, kinh tế biển đang ngày càng khẳng định vai trò trọng yếu trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam. Vùng Đồng bằng sông Hồng là khu vực có tiềm năng lớn trong phát triển kinh tế biển nhờ lợi thế về vị trí địa lý, hệ thống cảng biển, nguồn nhân lực dồi dào và hệ sinh thái ven biển phong phú. Tuy nhiên, để khai thác hiệu quả các tiềm năng đó theo hướng bền vững, công tác tuyên truyền đóng vai trò cực kỳ quan trọng. Bài viết này phân tích thực trạng tuyên truyền phát triển kinh tế biển ở các tỉnh, thành phố ven biển vùng Đồng bằng sông Hồng; đồng thời đề xuất các giải pháp nhằm đẩy mạnh hiệu quả tuyên truyền, góp phần hiện thực hóa mục tiêu phát triển bền vững đến năm 2030, tầm nhìn đến 2045.
Nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng của Trường Chính trị tỉnh Yên Bái trong tình hình mới
Nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng của Trường Chính trị tỉnh Yên Bái trong tình hình mới
Trong toàn bộ sự nghiệp lãnh đạo cách mạng Việt Nam, công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ được Đảng ta xác định là một trong những nhiệm vụ then chốt, có ý nghĩa quan trọng, là giải pháp trọng yếu để xây dựng đội ngũ cán bộ có đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ trong bối cảnh hiện nay. Nhận thức rõ vai trò quan trọng của công tác đào tạo, bồi dưỡng cho đội ngũ cán bộ trong hệ thống chính trị tỉnh, trong những năm qua, Đảng ủy, Ban Giám hiệu Trường Chính trị tỉnh Yên Bái luôn chú trọng công tác này và đây chính là nhiệm vụ trọng tâm của Nhà trường, với mục tiêu là đào tạo, bồi dưỡng nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ của Tỉnh có đủ phẩm chất, năng lực và uy tín ngang tầm nhiệm vụ, đáp ứng được yêu cầu thực tiễn trong tình hình mới, cùng đất nước bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.
Tư tưởng hồi hướng công đức trong giáo lý của đạo Phật – tính hợp lý và giá trị đạo đức
Tư tưởng hồi hướng công đức trong giáo lý của đạo Phật – tính hợp lý và giá trị đạo đức
Phật giáo là một tôn giáo lớn trên thế giới có khởi nguồn từ đất nước Ấn Độ và du nhập vào Việt Nam đến nay đã gần 20 thế kỷ. Với những giáo lý mang tính nhân văn, nhân đạo sâu sắc, Phật giáo dễ dàng hòa nhập với đời sống văn hóa, tinh thần người Việt Nam. Một trong những giáo lý có ảnh hưởng và ý nghĩa sâu sắc với các tín đồ đạo Phật và mỗi người dân Việt Nam là tư tưởng hồi hướng công đức. Bài viết này sẽ góp phần làm rõ thuật ngữ “hồi hướng”, “hồi hướng công đức”, nội dung, tính hợp lý và giá trị đạo đức của giáo lý này đối với đời sống tinh thần của người Việt.
Bình luận