Quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen về quan hệ giữa tư duy và tồn tại trong tác phẩm Hệ tư tưởng Đức
Vấn đề bản chất của tư duy, của tồn tại và quan hệ giữa tư duy và tồn tại là những vấn đề lý luận được các nhà triết học và các trường phái triết học quan tâm đặc biệt. Việc giải quyết vấn đề này như thế nào quyết định khuynh hướng phát triển của một trường phái triết học. Khi phân tích hệ tư tưởng Đức qua các đại diện tiêu biểu của nó, C.Mác và Ph.Ăngghen thấy có một sự đối lập, một sự khác biệt lớn giữa những quan điểm duy vật và quan điểm duy tâm. Sự đối lập này được C.Mác và Ph.Ăngghen nghiên cứu bắt đầu từ L.Phoiơbắc. Những quan điểm của L.Phoiơbắc được hai ông phân tích trong bối cảnh quá trình tan rã của hệ thống triết học Hêghen.
Hai ông mở đầu tác phẩm Hệ tư tưởng Đức bằng đoạn sau: “Cứ tin lời các nhà tư tưởng Đức thì nước Đức, trong những năm gần đây, đã trải qua một cuộc đảo lộn chưa từng có. Quá trình tan rã của hệ thống Hêg-hen bắt đầu từ Stơ-rau-xơ đã biến thành một cuộc sôi động âm ỉ toàn thế giới, lôi cuốn tất cả “những lực lượng của quá khứ”. Trong sự hỗn độn khắp nơi đó, những cường quốc hùng mạnh đã xuất hiện để rồi lại chìm nghỉm đi liền ngay đó, những anh hùng đã xuất hiện trong khoảnh khắc để rồi lại bị những đối thủ táo bạo hơn và mạnh hơn quẳng vào bóng tối. Đó là cuộc cách mạng mà so với nó, Cách mạng Pháp chỉ là một trò trẻ con; đó là một cuộc chiến đấu thế giới mà so với nó, cuộc chiến đấu của các Đi-a-đốc chẳng có nghĩa lý gì. Những nguyên lý thay thế lẫn nhau, những anh hùng tư tưởng đẩy nhau ngã với một tốc độ nhanh chưa từng thấy, và chỉ trong ba năm từ 1842 đến 1845 ở nước Đức, người ta đã dọn sạch được nhiều hơn trong ba thế kỷ trước kia”(1).
Cuộc cách mạng trong lĩnh vực triết học mà hai ông đề cập tới ở đây là cuộc cách mạng trong lĩnh vực tư duy, là sự thay đổi quan niệm về vấn đề bản chất của tư duy và quan hệ giữa tư duy và tồn tại cùng tất cả những vấn đề liên quan đến nó. Các anh hùng tư tưởng được nói đến ở đây là những nhà triết học Đức - những người đã làm nên sự sâu sắc kỳ diệu của nền triết học Đức. Đã diễn ra “quá trình tan rã của tinh thần tuyệt đối”, những luận điểm của Hêghen đã bị đảo lộn và sự giải thích thế giới xuất phát từ hệ thống Hêghen đã không còn mang giá trị tuyệt đối đúng nữa. Các nhà triết học mới xuất hiện, họ phê phán Hêghen, họ tuyên bố đã vượt qua Hêghen, nhưng sự thật của sự vượt qua đó là như thế nào?
C.Mác và Ph.Ăngghen đánh giá: “Toàn bộ sự phê phán triết học ở Đức, từ Stơ-rau-xơ đến Stiếc-nơ, đều bó tròn trong việc phê phán những quan niệm tôn giáo. Người ta xuất phát từ tôn giáo chính thống và từ tinh thần hóa chính cống. Cái mà trước kia người ta coi là ý thức tôn giáo, là quan niệm tôn giáo thì sau này lại được quy định theo nhiều cách khác nhau. Toàn bộ bước tiến là ở chỗ những quan niệm siêu hình, quan niệm chính trị, quan niệm pháp luật, quan niệm đạo đức và những quan niệm khác mà người ta cho là những quan niệm thống trị, đều được liệt vào lĩnh vực những quan niệm tôn giáo hay thần học; cũng như ở chỗ người ta tuyên bố rằng ý thức chính trị, ý thức pháp luật, ý thức đạo đức là ý thức tôn giáo hay ý thức thần học, rằng con người chính trị, con người pháp luật và con người đạo đức - xét cho cùng “con người nói chung” - là con người tôn giáo. Người ta lấy sự thống trị của tôn giáo làm tiền đề. Và dần dà, người ta tuyên bố mọi quan hệ thống trị là một quan hệ tôn giáo và người ta biến quan hệ đó thành sự sùng bái: sùng bái pháp luật, sùng bái nhà nước, v.v.. Ở tứ phía, vẫn chỉ là những giáo điều và lòng tin vào giáo điều. Thế giới được thần thánh hóa theo một quy mô ngày càng rộng, cho đến khi thánh Ma-xơ đáng kính có thể thần thánh hóa thế giới en bloc và do đó thanh toán vĩnh viễn hẳn thế giới”(2).
Như vậy, toàn bộ sự phê phán triết học ở Đức vẫn xuất phát từ chính bản thân hệ thống Hêghen và trên thực tế chưa thoát khỏi hệ thống này. Kết quả của sự phê phán đó cuối cùng vẫn chỉ là sự thần thánh hóa thế giới và do đó là sự thủ tiêu nhận thức, là sự thanh toán vĩnh viễn hẳn thế giới. Vấn đề mấu chốt mà các nhà triết học vẫn chưa bàn đến trong sự tự đối lập với hệ thống Hêghen là vấn đề quan hệ giữa tư duy, ý thức với tồn tại; những sản phẩm tinh thần của tư duy ý thức có thật sự có một sự tồn tại độc lập không? Thế giới của chúng ta phải chăng chỉ là sự hiện thực hóa của một dạng tinh thần tuyệt đối nào đó như Hêghen quan niệm? Chừng nào tất cả những câu hỏi đó chưa được trả lời một cách thỏa đáng thì sự phê phán triết học chỉ là cuộc đấu tranh với những ảo tưởng của ý thức, sự giải thích thế giới chỉ là sự thừa nhận một cách khác đi những điều đã thừa nhận về thế giới. Đối với C.Mác và Ph.Ăngghen, đó chỉ là một sự phê phán chống lại cái vỏ của thế giới và tuyệt nhiên chẳng có ích gì cho việc nhận biết thế giới hiện thực, hiện tồn ấy cả.
C.Mác và Ph.Ăngghen có cách xuất phát khác trong sự phê phán đối với hệ thống triết học tinh thần đồ sộ của Hêghen. Điểm xuất phát của hai ông là hiện thực, cái hiện thực trong đó những con người gắn liền với thực tiễn - chủ thể của mọi quá trình nhận thức tồn tại. Theo hai ông, điểm thiếu hụt của toàn bộ triết học Đức trước đó chính là thiếu sự xác lập một cách đúng đắn mối quan hệ giữa tư duy và tồn tại. Hệ thống Hêghen đã xác lập một hiện thực lộn ngược đầu xuống đất; trong cái hiện thực, tư duy có trước tồn tại, tinh thần tuyệt đối quyết định thế giới vật chất. Cái hiện thực lộn ngược ấy giờ đây không còn tìm thấy tính hợp lý của nó nữa.
C.Mác và Ph.Ăngghen đã chỉ ra rằng, chính con người sản sinh ra những quan niệm, ý niệm chứ không phải ngược lại. Con người qua những hoạt động thực tiễn tiếp xúc với hiện thực, nhận biết hiện thực, phản ánh hiện thực và thông qua đó hình thành nên ý thức của mình về thế giới hiện thực.
Như vậy, tiền đề để có ý thức về hiện thực là phải có một thế giới, một con người hiện thực và vì thế thế giới hiện thực, con người hiện thực phải có trước ý thức chứ không phải ngược lại. Cá nhân con người sống, sự tồn tại của con người là những tiền đề đầu tiên cho lịch sử nhân loại, cho triết học và cho sự nhận thức thế giới. Không có con người thì vấn đề nhận thức thế giới không còn ý nghĩa nữa. Con người là một thực thể chủ thể mang lại cho thế giới ý nghĩa nhận thức. Sự tồn tại của con người là tiền đề đầu tiên cho mọi quá trình nhận thức. Con người là thực thể có ý thức và cái ý thức đó gắn liền với tồn tại, phản ánh tồn tại. Ý thức - đến lượt mình - lại là một dạng đặc biệt của tồn tại: tồn tại ý thức. Cái lôgic chặt chẽ đó được C.Mác và Ph.Ăngghen khẳng định trong mệnh đề nổi tiếng: “Ý thức... không bao giờ có thể là cái gì khác hơn là sự tồn tại được ý thức”(3).
Giữa cái tồn tại ý thức (chính ý thức) với cái tồn tại được ý thức (tồn tại được phản ánh thông qua ý thức) có sự tương đồng, một sự tương đồng chứa đựng những nội dung sâu sắc của triết học. Tồn tại được ý thức trước hết là cái không đồng nhất với tồn tại hiện thực. Tồn tại được ý thức là tồn tại được phản ánh trong ý thức, là hình ảnh, là bản sao của tồn tại. Trong một ý nghĩa nào đó, nó trùng khít với tồn tại; trong một chừng mực nào đó, nó phù hợp gần như tuyệt đối với tồn tại, nhưng bản thân nó lại không phải là tồn tại mà chỉ là tồn tại được phản ánh, là cái tồn tại được phản ánh vào trong ý thức, vì thế sự “tồn tại được ý thức này” lại không bao giờ có thể tồn tại ở đâu khác hơn là ở trong ý thức, dưới những hình thức biểu hiện khác nhau của ý thức.
Trong toàn bộ hệ tư tưởng Đức đến giữa thế kỷ XIX, mọi quan hệ giữa tồn tại hiện thực và tồn tại ý thức bị đảo ngược. Tồn tại được ý thức trở thành tồn tại thực, còn tồn tại hiện thực lại trở thành tồn tại ảo, tồn tại phụ thuộc vào ý thức, trong chừng mực ý thức nhận thức được trạng thái đó của tồn tại.
Theo C.Mác và Ph.Ăngghen, triết học Đức cho đến bấy giờ là triết học đi từ trên trời xuống đất chính bởi vì nó đã xác lập không đúng mối quan hệ giữa tư duy với tồn tại, giữa ý thức với tồn tại. Hai ông không xuất phát từ tư duy ý thức của con người mà xuất phát từ thế giới hiện thực, thế giới trong đó con người tồn tại và nhận thức. Ý thức luôn được hình thành trong quá trình con người giao tiếp vật chất với thế giới, vì thế gắn liền và phụ thuộc vào những tiền đề vật chất của đời sống. Không có ý thức tách rời khỏi thế giới vật chất. Ý thức là sản phẩm của những điều kiện vật chất, là những sản phẩm thăng hoa tất yếu của những quá trình đời sống vật chất. Không phải ý thức quyết định đời sống mà chính là đời sống quyết định ý thức.
Hai ông viết: “Ngay cả những ảo tưởng hình thành trong đầu óc con người cũng là những vật thăng hoa tất yếu của quá trình đời sống vật chất của họ, một quá trình có thể xác định được bằng kinh nghiệm và gắn liền với những tiền đề vật chất. Như vậy thì đạo đức, tôn giáo, siêu hình học và những dạng khác của hệ tư tưởng cùng với những hình thái ý thức tương ứng với chúng, liền mất ngay mọi vẻ độc lập bề ngoài. Tất cả những cái đó không có lịch sử, không có sự phát triển; chính con người, khi phát triển sự sản xuất vật chất và sự giao tiếp vật chất của mình, đã làm biến đổi, cùng với hiện thực đó của mình, cả tư duy lẫn sản phẩm tư duy của mình. Không phải ý thức quyết định đời sống mà chính đời sống quyết định ý thức. Theo cách xem xét thứ nhất, người ta xuất phát từ ý thức, coi đó là cá nhân sống; theo cách thứ hai, là cách phù hợp với đời sống hiện thực, người ta xuất phát từ chính ngay những cá nhân sống, hiện thực và coi ý thức chỉ là ý thức của họ mà thôi”(4).
Mặt khác, con người chỉ nhận biết về thế giới xung quanh thông qua hoạt động ý thức của họ. Trong một chừng mực nào đó, đối với chủ thể thì thế giới như thế nào là do hình ảnh thế giới ở trong ý thức của con người quy định như thế; con người không thể biết về một thế giới không được phản ánh, kết tinh, suy tư và thăng hoa trong ý thức. Mối quan hệ giữa tư duy và tồn tại, ý thức và đời sống luôn là mối quan hệ mang tính biện chứng trong những tác động qua lại và tương hỗ lẫn nhau. Ý thức - trong một chừng mực nào đó - độc lập tương đối so với tồn tại nhưng bản thân nó - suy cho cùng - chỉ là một dạng đặc biệt của tồn tại, là tồn tại được ý thức, được phản ánh thông qua hoạt động nhận thức của chủ thể.
Mặt khác, theo C.Mác và Ph.Ăngghen, mặc dù quan niệm tinh thần tuyệt đối đang tan rã, thế giới quan của Hêghen đã không còn đúng nữa, những tín điều của hệ thống Hêghen đang bị quăng vào bóng tối, nhưng không phải toàn bộ di sản của hệ thống triết học tinh thần đồ sộ đó đã bị hủy diệt: “Chính nơi mà tư biện dừng lại, - chính trong đời sống hiện thực - là nơi bắt đầu khoa học thực sự, thực chứng, sự miêu tả hoạt động thực tiễn và quá trình thực tiễn của sự phát triển của con người. Những luận điệu trống rỗng về ý thức chấm dứt; thay cho những luận điệu đó phải là tri thức thực sự”(5). Những hạt nhân hợp lý của triết học Hêghen với tính cách là triết học biện chứng về ý thức không mất đi, những hạt nhân biện chứng này tồn tại trong thế giới quan cách mạng mới, dưới những nội dung mới của triết học Mác chiếu sáng, xua tan đi bóng tối trên con đường nhận thức thế giới của nhân loại.
__________________________________________________
(1), (2), (3), (4), (5) C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, T.3, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 1995, tr.23, 26-27, 37, 38, 38-39.
Nguồn: Bài đăng trên Tạp chí Lý luận chính trị điện tử ngày 26.7.2022
Bài liên quan
- Quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin về quản lý phát triển xã hội và sự vận dụng ở Việt Nam hiện nay
- Ăngghen bàn về chủ nghĩa xã hội pháp quyền
- Chỉ dẫn của V.I.Lênin về Nhà nước trong tác phẩm Nhà nước và cách mạng và sự vận dụng của Đảng ta trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
- Vận dụng tư tưởng của V.I.Lênin về đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch ở nước ta hiện nay
- Đôi nét về triết học ngoài mác-xít hiện đại
Xem nhiều
- 1 Video Tư liệu: Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông 30 năm xây dựng và phát triển
- 2 Xu hướng hòa bình, hợp tác, phát triển trên thế giới và vai trò của Việt Nam hiện nay
- 3 Sử dụng công nghệ trí tuệ nhân tạo trong sản xuất chương trình truyền hình
- 4 Giữ gìn và bảo vệ giá trị văn hóa truyền thống các dân tộc ít người, góp phần củng cố, phát triển khối đại đoàn kết toàn dân tộc
- 5 Phát triển nguồn nhân lực ở tỉnh Bến Tre: Thực trạng và giải pháp
- 6 Sử dụng ChatGPT trong việc cải thiện kỹ năng viết cho sinh viên học tiếng Anh
Liên kết
- Báo điện tử đảng cộng sản việt nam
- Báo nhân dân
- Báo Quân đội nhân dân
- Cổng thông tin điện tử Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Cổng thông tin điện tử Học viện Chính trị quốc gia hồ chí minh
- Tạp chí Cộng sản
- Tạp chí Giáo dục lý luận
- Tạp chí Giáo dục và Xã hội
- Tạp chí Khoa học xã hội và Nhân văn
- Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam
- Tạp chí Lý luận chính trị
- Tạp chí Nghiên cứu con người
- TẠP CHÍ Nghiên cứu dân tộc
- Tạp chí Người làm báo
- Tạp chí Nội chính
- Tạp chí Quản lý Nhà nước
- Tạp chí Tổ chức Nhà nước
- Tạp chí Tuyên giáo
- Tạp chí Xây Dựng Đảng
- Thư viện số Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Trang thông tin điện tử Hội đồng Lý luận Trung ương
Tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả
Xây dựng tổ chức bộ máy hiệu lực, hiệu quả là công việc khó khăn, phức tạp, đòi hỏi sự đoàn kết, thống nhất, dũng cảm, sự hy sinh của từng cán bộ, đảng viên cùng với quyết tâm rất cao của toàn Đảng, cả hệ thống chính trị, trước hết là người đứng đầu cấp ủy, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và đoàn thể các cấp. Tạp chí Cộng sản trân trọng giới thiệu bài viết của đồng chí Tổng Bí thư Tô Lâm về xây dựng hệ thống chính trị với tiêu đề: “Tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả”:
Quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin về quản lý phát triển xã hội và sự vận dụng ở Việt Nam hiện nay
Quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin về quản lý phát triển xã hội và sự vận dụng ở Việt Nam hiện nay
Các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác - Lênin, mặc dù không để lại những tác phẩm chuyên nghiên cứu về quản lý phát triển xã hội, nhưng qua các tác phẩm về kinh tế - chính trị, chính trị - xã hội của các ông, có thể rút ra những luận điểm cơ bản về quản lý phát triển xã hội. Các luận điểm này giúp các nhà quản lý xã hội thấy được bức tranh toàn cảnh xã hội một cách duy vật, cụ thể, với tính cách là kết quả hoạt động thực tiễn xã hội của con người.
Ăngghen bàn về chủ nghĩa xã hội pháp quyền
Ăngghen bàn về chủ nghĩa xã hội pháp quyền
Sau khi hai tác phẩm kinh điển “Tinh thần pháp luật” của Montesquieu và “Bàn về khế ước xã hội” của Rousseau chuyển bị về mặt lý luận cho Cách mạng dân chủ tư sản Pháp ra đời người ta thường nói đến thuộc tính pháp quyền gắn liền với nền dân chủ tư sản, người ta nói đến nhà nước pháp quyền tư sản, hệ thống dân chủ tư sản. Đến chủ nghĩa xã hội thì thuộc tính pháp quyền này lại ít được nhắc đến. Liệu chủ nghĩa xã hội có mang thuộc tính pháp quyền hay không và thuộc tính pháp quyền này khác với thuộc tính pháp quyên dân chủ tư sản như thế nào?
Chỉ dẫn của V.I.Lênin về Nhà nước trong tác phẩm Nhà nước và cách mạng và sự vận dụng của Đảng ta trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Chỉ dẫn của V.I.Lênin về Nhà nước trong tác phẩm Nhà nước và cách mạng và sự vận dụng của Đảng ta trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Trong tác phẩm Nhà nước và cách mạng, lần đầu tiên vấn đề nhà nước được V.I.Lênin trình bày một cách có hệ thống. Giá trị lý luận và thực tiễn của tác phẩm là đã làm sáng tỏ tính quy luật trong sự sinh thành, vận động và phát triển, đưa ra những dự báo khoa học về xu hướng và điều kiện về sự tự tiêu vong của nhà nước trong tiến trình tới chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản. Tác phẩm vẫn giữ nguyên giá trị khoa học, cách mạng và tính thời sự. Trong tình hình hiện nay, nắm vững thực chất và vận dụng tư tưởng của tác phẩm là cơ sở vững chắc để xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Vận dụng tư tưởng của V.I.Lênin về đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch ở nước ta hiện nay
Vận dụng tư tưởng của V.I.Lênin về đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch ở nước ta hiện nay
Đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng vừa là nhiệm vụ thường xuyên, vừa là công việc lâu dài đối với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Đó là nhiệm vụ khó khăn và phức tạp bởi “đấu tranh chính trị là hình thức đấu tranh cao nhất của giai cấp vô sản”(1). Bài viết nghiên cứu tư tưởng của V.I.Lênin về đấu tranh chống những quan điểm sai trái, thù địch, phân tích ý nghĩa lý luận, thực tiễn sâu sắc và vận dụng tư tưởng của V.I.Lênin vào cuộc đấu tranh trên mặt trận tư tưởng ở nước ta hiện nay.
Bình luận