Tái cấu trúc nền kinh tế và đổi mới mô hình tăng trưởng dưới tác động của đổi mới sáng tạo và khoa học công nghệ
1. Tính tất yếu khách quan của việc tái cơ cấu nền kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng và vai trò của KHCN, ĐMST
1.1. Sự gắn bó hữu cơ giữa tái cơ cấu nền kinh tế và đổi mới mô hình tăng trưởng
Đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế là việc thay đổi cách thức vận hành nền kinh tế theo chiều hướng tiến bộ. Cụ thể, khi một quốc gia vận hành nền kinh tế với mô hình tăng trưởng dựa trên cơ sở khai thác các nguồn lực tự nhiên (tài nguyên, lao động và các lợi thế về địa lý) nghĩa là tăng trưởng theo chiều rộng. Khi đạt tới mức giới hạn của các nguồn lực tự nhiên, để tiếp tục duy trì tốc độ tăng trưởng, đồng thời khắc phục những hạn chế và hướng tới sự phát triển đất nước với một nền kinh tế hiệu quả, tiến bộ hơn, tất yếu cần có những thay đổi trong cách thức vận hành nền kinh tế mà ở đó việc khai thác các nhân tố tăng trưởng, các tiền đề tăng trưởng được tối ưu hóa.
Như vậy, chuyển đổi hay thay đổi/đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế là việc xác lập khung khổ chung hay mô thức chung định hướng vận hành nền kinh tế trên cơ sở tối ưu hóa các nguồn lực của đất nước với một cơ cấu nền kinh tế hợp lý, hiệu quả, hiện đại nhằm đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế cao theo hướng phát triển bền vững. Đó cũng là đòi hỏi khách quan của quá trình phát triển, nhất là trong bối cảnh toàn cầu hóa và cạnh tranh gay gắt, phải tập trung giải quyết các khâu đột phá, thực hiện các bước chuyển đổi hợp lý từ mô hình tăng trưởng cũ sang mô hình tăng trưởng mới, trên cơ sở phù hợp với quy luật vận động khách quan và xu hướng phát triển của nền kinh tế khu vực và thế giới.
Đổi mới mô hình trăng trưởng kinh tế có quan hệ hữu cơ với nhiệm vụ tái cơ cấu nền kinh tế. Khi thực hiện việc đổi mới mô hình tăng trưởng cần phải cơ cấu lại nền kinh tế, để khắc phục những khuyết tật, những hạn chế nảy sinh trong quá trình tăng trưởng, phát triển kinh tế đất nước và tương thích với sự phát triển của KHCN và sự dịch chuyển lợi thế cạnh tranh giữa các nước; xây dựng một cơ cấu đáp ứng yêu cầu của mô hình tăng trưởng chuyển đổi. Như vậy, tái cấu trúc nền kinh tế là hoạt động củng cố, tổ chức lại cấu trúc từng bộ phận cấu thành nền kinh tế (ngành, lĩnh vực, chủ thể) và tổng thể nền kinh tế theo hướng hợp lý, hiệu quả. Việc tái cấu trúc (hay cơ cấu lại) nền kinh tế phải được xác định gắn với việc cơ cấu lại các ngành, các lĩnh vực cho đến các bộ phận của nền kinh tế quốc dân. Mỗi ngành, mỗi lĩnh vực và mỗi bộ phận của nền kinh tế cần có những tổng kết, đánh giá thực trạng vận hành, chỉ ra những thành tựu, hạn chế và nguyên nhân, từ đó, đề xuất những giải pháp có tính khả thi và có hiệu lực thực sự, đồng thời triệt tiêu nguyên nhân dẫn đến tồn tại, hạn chế đó trên cơ sở hình thành một cấu trúc ngành/ lĩnh vực/bộ phận kinh tế theo hướng gắn với mô hình tăng trưởng.
Như vậy, chuyển đổi hay đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế là xác lập/định hướng cách thức vận hành nền kinh tế để đạt các mục tiêu tăng trưởng, phát triển, còn tái cấu trúc nền kinh tế là việc thực hiện/ hiện thực hóa cách thức vận hành nền kinh tế đã được lựa chọn.
1.2. Tái cơ cấu nền kinh tế và đổi mới mô hình tăng trưởng là yêu cầu mang tính tất yếu khách quan trong quá trình phát triển của mỗi quốc gia
Trong lịch sử phát triển kinh tế thế giới, chưa có một mô hình tăng trưởng kinh tế nào là trường tồn mà khi phát triển đến một thời điểm nhất định, mô hình tăng trưởng của một quốc gia sẽ không còn phù hợp, cần phải thay đổi do những chuyển biến của các yếu tố bên ngoài và bên trong nền kinh tế. Bởi vậy, sự thành công hay thất bại của một nền kinh tế được quyết định ở khả năng tự thay đổi để vượt qua các ngưỡng phát triển này. Kinh nghiệm phát triển của các nước Đông Á cho thấy: với cùng một xuất phát điểm, nhưng trải qua vài thập kỷ, Nhật Bản, Trung Quốc, Hàn Quốc, Đài Loan, Hồng Kông, Singapore trở thành các con rồng Châu Á, trong khi các nước Đông Nam Á khác rơi vào “bẫy thu nhập trung bình”.
1.3. Vai trò của KHCN và ĐMST trong quá trình tái cấu trúc nền kinh tế và đổi mới mô hình tăng trưởng
KHCN và ĐMST là chìa khóa quan trọng để chuyển đổi mô hình tăng trưởng kinh tế từ chiều rộng sang chiều sâu. Cụ thể, theo Điều 3 Luật Khoa học và công nghệ (2018) tại các Khoản 1, 2, 16 đã quy định: “Khoa học là hệ thống tri thức về bản chất, quy luật tồn tại và phát triển của sự vật, hiện tượng tự nhiên, xã hội và tư duy”. “Công nghệ là giải pháp, quy trình, bí quyết kỹ thuật có kèm theo hoặc không kèm theo công cụ, phương tiện dùng để biến đổi nguồn lực thành sản phẩm”. “ĐMST là việc tạo ra, ứng dụng thành tựu, giải pháp kỹ thuật, công nghệ, giải pháp quản lý để nâng cao hiệu quả phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao năng suất, chất lượng, giá trị gia tăng của sản phẩm, hàng hóa”. Đó là chìa khóa để chuyển đổi mô hình tăng trưởng kinh tế từ chủ yếu dựa vào các yếu tố vốn, lao động và tài nguyên sang chủ yếu dựa vào năng suất các yếu tố tổng hợp (TFP):
Thứ nhất, KHCN và ĐMST là yếu tố quyết định tăng trưởng kinh tế trong dài hạn. Khác với các yếu tố đầu vào như vốn, lao động và tài nguyên là có giới hạn, nguồn lực KHCN và ĐMST dường như không có giới hạn. Bởi khi trao vốn, lao động, tài nguyên cho cá nhân khác sử dụng thì chủ thể sở hữu không thể tiếp tục sử dụng các nguồn lực đó; nhưng với nguồn lực KHCN và ĐMST thì khi trao cho người khác sử dụng, chủ thể sở hữu vẫn không mất đi quyền sử dụng nguồn lực đó và càng có nhiều người sử dụng thì chi phí để tạo ra nguồn lực đó càng giảm. Vì thế, có thể hiểu nguồn lực KHCN và ĐMST là không giới hạn và trở thành yếu tố quyết định tăng trưởng kinh tế trong dài hạn, là chìa khóa để thoát bẫy thu nhập trung bình.
Thứ hai, KHCN và ĐMST là chìa khóa chuyển đổi mô hình tăng trưởng kinh tế từ chiều rộng sang chiều sâu do nó là phương tiện để nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực khác. Với nguồn lực tài nguyên thiên nhiên: KHCN và ĐMST làm cho việc phát hiện, khai thác trở nên dễ dàng hơn, tăng hiệu quả sử dụng, tìm ra nhiều nguồn năng lượng mới thay thế cho cho nguồn năng lượng truyền thống đang dần cạn kiệt. Với nguồn lực lao động: KHCN và ĐMST làm thay đổi căn bản phương thức lao động của con người, chuyển từ lao động giản đơn sang lao động trí thức, giúp tăng năng suất lao động lên nhiều lần. Với nguồn lực vốn: thông qua quá trình hiện đại hóa các tổ chức trung gian tài chính, các hệ thống thông tin liên lạc, đặc biệt là quá trình chuyển đổi số đã và sẽ làm cho các giao dịch trở nên nhanh chóng, dễ dàng, thuận tiện, an toàn, chính xác và thúc đẩy các mô hình/hoạt động sản xuất kinh doanh mới. Điều này khiến KHCN và ĐMST là chìa khóa để chuyển đổi mô hình tăng trưởng kinh tế theo chiều rộng sang theo chiều sâu.
Trên thực tế, có sự đan xen và khó tách bạch giữa đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế với tái cấu trúc nền kinh tế cả về lý luận lẫn thực tiễn, dẫn đến tình trạng khó xác định giải pháp thực hiện. Việc phân định rõ sự khác biệt giữa đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế với tái cấu trúc nền kinh tế là căn cứ để nghiên cứu, đề xuất giải pháp thực hiện những nhiệm vụ này phù hợp và hiệu quả nhất, đồng thời có được nhận thức thấu đáo hơn đối trong quá trình hoạch định chính sách.
KHCN và ĐMST là nền tảng của kinh tế tri thức và kinh tế số - xu hướng phát triển của kinh tế toàn cầu hiện nay. Nền kinh tế tri thức, còn gọi là kinh tế dựa vào tri thức (Knowledge - BasedEconomy) là nền kinh tế chủ yếu dựa vào tri thức, trên cơ sở phát triển khoa học và công nghệ cao. “Nền kinh tế tri thức là nền kinh tế ngày càng phụ thuộc trực tiếp vào việc sản xuất phân phối và sử dụng tri thức và thông tin” (OECD 1996): “Nền kinh tế tri thức là nền kinh tế mà trong đó quá trình sản xuất, phân phối và sử dụng tri thức trở thành động lực chính cho tăng trưởng, cho quá trình tạo ra của cải và việc làm trong tất cả các ngành kinh tế” (APEC 2000)(1). Ngân hàng Thế giới (WB,2000) đánh giá “Đối với các nền kinh tế tiên phong trong nền kinh tế Thế giới, cán cân giữa hai yếu tố tri thức và các nguồn lực đang nghiêng về tri thức. Tri thức thực sự đã trở thành yếu tố quan trọng nhất quyết định mức sống - hơn cả yếu tố đất đai, hơn cả yếu tố tư liệu sản xuất, hơn cả yếu tố lao động. Các nền kinh tế phát triển nhất về công nghệ ngày nay thực sự đã dựa vào tri thức”.
Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và sự xuất hiện của Internet vạn vật (Internet of Things: IoT) đánh dấu sự phát triển vượt bậc trong việc sử dụng dữ liệu vào các hoạt động của đời sống xã hội, đặc biệt trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh. Trong bối cảnh đó, kinh tế số đang trở thành đặc trưng và xu hướng phát triển quan trọng, được nhiều quốc gia nghiên cứu, ứng dụng và phát triển. Với Việt Nam, phát triển kinh tế số là cơ hội lớn để thu hẹp khoảng cách phát triển. Năm 2014, Bộ Chính trị đã ban hành Nghị quyết số 36-NQ/TW về “Đẩy mạnh ứng dụng, phát triển công nghệ thông tin đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững và hội nhập quốc tế” với quan điểm: “Ứng dụng, phát triển công nghệ thông tin trong tất cả các lĩnh vực, song có trọng tâm, trọng điểm. Ưu tiên ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý hành chính, cung cấp dịch vụ công, trước hết là trong lĩnh vực liên quan tới doanh nghiệp, người dân như giáo dục, y tế, giao thông, nông nghiệp...”. Tháng 9/2019, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 52-NQ/TW về “Một số chủ trương, chính sách chủ động tham gia cách mạng công nghiệp lần thứ tư”, đặt mục tiêu tới 2030, kinh tế số chiếm khoảng 30% GDP.
2. Kinh nghiệm quốc tế áp dụng chính sách KHCN và ĐMST nhằm thúc đẩy cái cấu trúc nền kinh tế và đổi mới mô hình tăng trưởng
Kinh nghiệm của các nền kinh tế chính ở Đông Á như Nhật Bản, Hàn Quốc và Trung Quốc cho thấy những chính sách KHCN và ĐMST phù hợp đóng vai trò quan trọng vào quá trình “công nghiệp hóa, hiện đại hoá” gắn với tái cấu trúc nền kinh tế và đổi mới mô hình tăng trưởng thành công của họ. Các nước này hiện nay đã vào giai đoạn “hậu bắt kịp” với phương Tây và vươn lên hàng đầu trong ĐMST ở quy mô toàn cầu. Trung Quốc đã thành công với khái niệm “ĐMST nội sinh/ bản địa”, Hàn Quốc đã đạt đến giai đoạn “nền kinh tế ĐMST”. Trong khi đó, các nước như Ấn Độ, Malaysia, Thái Lan, Indonesia và Việt Nam chưa bứt phá được hoặc thậm chí “mắc kẹt” trong giai đoạn “công nghiệp hóa”. Một trong những nguyên nhân hàng đầu dẫn đến sự khác biệt ở hai nhóm quốc gia trên chính là việc xây dựng và thực hiện thành công hay không chính sách KHCN và ĐMST để khắc phục các lỗi về thị trường, năng lực và hệ thống.
Trong giai đoạn công nghiệp hóa, hiện đại hoá, Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc đều có những điểm chung trong chính sách ĐMST mà khi họ cùng thực hiện thì đều bắt kịp thành công phương Tây. Do đó, việc tham khảo các chính sách và phương thức thực hiện ĐMST ở Nhật Bản, Hàn Quốc và Trung Quốc là rất hữu ích, đặc biệt là xác định các công cụ chính sách ĐMST “tiêu chuẩn” trong giai đoạn công nghiệp hóa và bắt kịp ở các nước này. Hai mục tiêu quan trọng nhất trong giai đoạn công nghiệp hóa và bắt kịp của họ là sự thành công của công nghiệp hóa và tích lũy năng lực công nghệ của các doanh nghiệp bản địa.
Để công nghiệp hóa thành công, Nhật Bản, Hàn Quốc và Trung Quốc đã sử dụng chiến lược lựa chọn và tập trung, trong đó lựa chọn và đầu tư vào các lĩnh vực đột phá theo các kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm. Các khoản tài trợ nghiên cứu phát triển trực tiếp, các chương trình đào tạo tăng cường kỹ năng, hình thành các cụm/khu công nghệ cao để cải thiện khả năng cạnh tranh về công nghệ của các doanh nghiệp nội địa nhằm theo đuổi ĐMST tập trung vào đầu tư nghiên cứu phát triển do nguồn cung chi phối và phát triển công nghệ ngắn hạn.
Cả ba nước này đều tạo điều kiện thuận lợi cho việc tiếp thu các công nghệ tiên tiến từ phương Tây để chuyển giao cho khu vực tư nhân và khuyến khích các công ty bản địa nội địa hóa chúng. Nhật Bản và Hàn Quốc cũng sử dụng các khoản nợ nước ngoài thay vì thu hút các doanh nghiệp nước ngoài đầu tư trực tiếp (FDI) để duy trì sự độc lập, tự chủ về công nghệ mà không bị phụ thuộc vào các công ty đa quốc gia. Ngược lại, với lợi thế thị trường lớn, Trung Quốc đã có được công nghệ nước ngoài bằng cách thành lập liên doanh với các công ty bản địa, dẫn đến việc chuyển giao hiệu quả công nghệ của các công ty nước ngoài cho các công ty nội địa. Tóm lại, đầu tư FDI, liên doanh hay nợ nước ngoài phải tích cực yêu cầu các công ty đa quốc gia chuyển giao công nghệ của họ ở mức độ nào.
Để phổ biến và nội địa hóa công nghệ, cả ba quốc gia trên đều áp dụng cùng một phương pháp, trong đó nhấn mạnh vai trò của các viện nghiên cứu công (PRI) với tư cách là người phát triển và chuyển giao công nghệ giữa chính phủ và các doanh nghiệp trong nước; đồng thời, bảo vệ các công ty trong nước trước các công ty đa quốc gia nhằm nội địa hóa công nghệ của các công ty trong nước, đặc biệt là các tập đoàn lớn trong nước. Do đó, để bắt kịp thành công, cần có một chu trình tiếp thu, phổ biến và nội địa hóa công nghệ tiên tiến.
Hiện nay, Nhật Bản, Hàn Quốc và Trung Quốc là những “nhà lãnh đạo” KHCN và ĐMST, do đó, họ phải nâng cấp các cấu trúc công nghiệp và xã hội bên cạnh các hệ thống thể chế và luật pháp. Khu vực tư nhân lúc này phải tự tạo ra ĐMST thay vì dựa vào sự hỗ trợ trực tiếp của chính phủ và ĐMST lan tỏa đến các doanh nghiệp vừa và nhỏ, công ty khởi nghiệp và các tập đoàn lớn. Các công cụ chính sách chính trong giai đoạn này bao gồm ban hành luật, kế hoạch cơ bản về KHCN, nâng cao hệ thống quyền sở hữu trí tuệ, đổi mới do tư nhân lãnh đạo, phát triển công nghệ dài hạn, đổi mới theo định hướng giải quyết các vấn đề xã hội, đầu tư nghiên cứu phát triển dựa trên nhu cầu thị trường, khuyến khích khởi nghiệp, thúc đẩy ĐMST mở với các đối tác nghiên cứu phát triển toàn cầu và mua sắm công để thúc đẩy ĐMST của các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Các chính sách ĐMST cụ thể của các nước trên đều nằm trong quan điểm của hệ thống ĐMST của một quốc gia (NIS). Quan điểm NIS gần đây là quan điểm lý thuyết được chấp nhận rộng rãi nhất và là một cách tiếp cận toàn diện để giải quyết các vấn đề liên quan đến các thành phần trong NIS, các thể chế liên quan đến ĐMST ở cấp quốc gia. Có thể nhận thấy các chính sách ĐMST mà Nhật Bản, Hàn Quốc và Trung Quốc thường sử dụng, tập trung vào: (i) nâng cao năng lực ĐMST của các thành phần/tác nhân trong NIS và tăng khả năng tương tác của họ; (ii) nâng cao vai trò của chính phủ; (iii) tạo ra một thể chế tốt hơn và cuối cùng trở thành một NIS hiệu quả.
3. Cơ hội, thách thức và giải pháp tăng cường sự đóng góp của KHCN, ĐMST vào quá trình tái cấu trúc nền kinh tế và đổi mới mô hình tăng trưởng ở Việt Nam hiện nay
3.1. Cơ hội và thách thức
Các quốc gia trên thế giới đã và đang ngày càng chú trọng tăng năng suất yếu tố tổng hợp (TFP), trong đó, tập trung phát triển khoa học - công nghệ, thúc đẩy các hoạt động đổi mới sáng tạo hướng tới một mô hình tăng trưởng mới. Hiện nay, làn sóng mới của công nghệ số (dữ liệu lớn, trí tuệ nhân tạo, Internet vạn vật...) đang thay đổi quá trình ĐMST, phát triển công nghệ và ngày càng có tính mở, toàn cầu hóa hơn. Để đạt mục tiêu phát triển bền vững, Việt Nam đang nỗ lực thực hiện chuyển đổi mô hình tăng trưởng, tái cấu trúc nền kinh tế dựa trên KHCN và ĐMST với nhiều cơ hội và thách thức.
Về cơ hội, Việt Nam nằm trong khu vực kinh tế phát triển năng động, tăng trưởng nhanh và là điểm đến quan trọng của các công ty đa quốc gia và xuyên quốc gia, đó là điều kiện thuận lợi cho việc tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu. Xu hướng của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư có thể tạo ra quy mô và tốc độ phát triển nhanh, mạnh chưa từng có trong lịch sử về kinh tế, xã hội, môi trường trên quy mô toàn cầu, khu vực và trong nội tại mỗi nền kinh tế.
Hội nhập quốc tế của nền kinh tế nước ta đã và đang ngày càng sâu rộng. Các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới đã được ký kết với những cam kết chưa từng có về quyền người lao động, cải cách doanh nghiệp nhà nước, đấu thầu và mua sắm công, bảo vệ sở hữu trí tuệ... đang mở ra cơ hội cho nước ta trong việc học hỏi, hợp tác và chuyển giao công nghệ. Hệ sinh thái ĐMST trong nước đang dần được hình thành và phát triển, với năng lực ĐMST của nền kinh tế đang có chuyển biến tích cực. Nguồn nhân lực trẻ của nước ta hiện nay khá dồi dào và có tiềm năng lớn nếu được đào tạo và sử dụng tốt.
Về thách thức, chất lượng nguồn nhân lực của nước ta nhìn chung còn thấp, chuyển dịch cơ cấu lao động chưa hợp lý và chưa gắn với chuyển dịch cơ cấu sản xuất. Chất lượng đào tạo, cơ cấu nguồn nhân lực theo ngành, nghề, lĩnh vực, sự phân bố theo vùng, miền, địa phương chưa phù hợp với nhu cầu sử dụng của xã hội, gây lãng phí nguồn lực của Nhà nước và xã hội. Đội ngũ cán bộ nghiên cứu, phát triển, đặc biệt là trong khu vực doanh nghiệp còn thấp. Thiếu nhiều cán bộ đầu ngành, chuyên gia giỏi, đặc biệt là các chuyên gia về công nghệ.
Ngoài ra, sự thiếu gắn kết giữa các viện nghiên cứu, trường đại học với doanh nghiệp, thiếu các tổ chức trung gian của thị trường KHCN dẫn đến KHCN chưa làm tốt vai trò cung cấp công nghệ, tạo ra các phát minh, sáng chế trong phát triển các ngành kinh tế mới. Hệ thống các cơ quan nghiên cứu, trường đại học làm tốt vai trò cung cấp các giải pháp và kết nối với doanh nghiệp để thương mại hóa các sản phẩm nghiên cứu. Chi ngân sách cho nghiên cứu và phát triển còn thấp, chưa có sự đồng hành nhiều từ khu vực doanh nghiệp. Việc thực hiện các chính sách đã ban hành về đổi mới mô hình tăng trưởng gắn với cơ cấu lại nền kinh tế chưa đạt được kết quả như kỳ vọng.
Môi trường đầu tư, kinh doanh tuy có được cải thiện nhưng vẫn chưa khuyến khích doanh nghiệp đầu tư đổi mới KHCN. Năng lực áp dụng và hấp thụ công nghệ của doanh nghiệp còn thấp. Việc chuyển đổi mô hình tăng trưởng dựa trên ĐMST diễn ra trong bối cảnh thế giới có nhiều biến động, vừa tạo ra cơ hội cho phát triển nhưng cũng đem đến nhiều thách thức mới, đòi hỏi phải có những đổi mới trong tư duy, có cam kết mạnh mẽ và chỉ đạo quyết liệt, thống nhất từ Trung ương đến địa phương; phải có những cải cách mạnh mẽ về thể chế thị trường của nền kinh tế để mở rộng không gian và tạo động lực mới cho huy động cũng như sử dụng hiệu quả các nguồn lực; phải có cơ chế khuyến khích và tạo môi trường, điều kiện để mọi tầng lớp nhân dân tham gia vào quá trình ĐMST.
3.2. Giải pháp
Để thực hiện thành công quá trình tái cấu trúc nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế ở nước ta, cần tập trung chuyển từ tăng trưởng dựa trên tích lũy đầu vào (vốn, lao động, đất đai, nguyên liệu) sang tăng trưởng dựa trên ĐMST (tri thức, công nghệ, thể chế), trong đó vai trò của KHCN là trung tâm và các doanh nghiệp trở thành nhân tố chủ đạo cho đổi mới công nghệ cùng với Chính phủ và các tổ chức nghiên cứu, đào tạo. Các giải pháp cụ thể gồm:
Một là, đổi mới hệ thống giáo dục, đào tạo theo hướng gắn chặt hơn với nhu cầu thị trường lao động nhằm thu hút các nguồn lực đầu tư và nâng cao chất lượng giáo dục đại học, sau đại học theo hướng gắn với nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ; phát huy vai trò và tạo cơ chế phù hợp để các trường đại học, viện nghiên cứu gắn các hoạt động nghiên cứu ứng dụng với nhu cầu doanh nghiệp và nền kinh tế, tạo nền tảng phát triển công nghệ mới, công nghệ lõi cho Việt Nam.
Hai là, phát triển hệ thống ĐMST quốc gia theo hướng lấy doanh nghiệp làm trung tâm; phát triển hệ sinh thái khởi nghiệp sáng tạo song song với tăng cường huy động vốn đầu tư thay cho vốn vay ngân hàng thông qua gọi vốn cộng đồng, phát triển các quỹ đầu tư mạo hiểm, tạo điều kiện để hình thành nhanh các doanh nghiệp khởi nghiệp công nghệ.
Tái cấu trúc các chương trình, nhiệm vụ khoa học công nghệ theo chuỗi giá trị của sản phẩm, tạo giá trị gia tăng. Tập trung phát triển sản phẩm quốc gia dựa vào công nghệ mới, công nghệ cao để hình thành các ngành, nghề mới và các sản phẩm mới, giá trị gia tăng cao, nhất là lĩnh vực mà Việt Nam có thế mạnh, như nông nghiệp, công nghiệp chế biến, chế tạo, dịch vụ, công nghệ thông tin...
Xây dựng và triển khai các chính sách mang tính đột phá để khuyến khích và thúc đẩy ĐMST trong khu vực doanh nghiệp, dịch vụ công; nhất là hoạt động khởi nghiệp sáng tạo, đổi mới công nghệ trong sản xuất, kinh doanh và dịch vụ công. Hoàn thiện các chính sách về kinh tế nhằm tạo thuận lợi hơn nữa cho các hoạt động KHCN và ĐMST, tạo động lực để doanh nghiệp đầu tư cho ứng dụng, đổi mới và phát triển công nghệ; nâng cao năng lực hấp thụ công nghệ của doanh nghiệp và người dân.
Ba là, xây dựng và triển khai các cơ chế, chính sách, giải pháp thu hút các chuyên gia KHCN, ĐMST ở trong và ngoài nước, tận dụng các nguồn lực thị trường tri thức quốc tế nhằm thúc đẩy tăng trưởng dựa trên ĐMST; tăng cường liên kết các mạng lưới ĐMST trong - ngoài nước, thúc đẩy vai trò hạt nhân của các trung tâm đổi mới, sáng tạo đối với sự phát triển thông minh và bền vững phù hợp với đặc điểm của các địa phương trên cả nước.
Bốn là, triển khai Chiến lược Sở hữu trí tuệ đến năm 2030, nâng cao năng lực của hệ thống pháp luật nhằm nâng cao khả năng xây dựng và quản trị các tài sản trí tuệ, thực hiện quyền sở hữu trí tuệ, nâng cao giá trị cho các tài sản trí tuệ được hình thành từ nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ và ĐMST.
Năm là, xây dựng và thực hiện hiệu quả Đề án Chuyển đổi số quốc gia, thúc đẩy các cơ quan trong hệ thống chính trị và doanh nghiệp phát triển dựa trên nền tảng kỹ thuật số. Phát triển và ứng dụng rộng rãi các công nghệ, đặc biệt là công nghệ số trong xu thế của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, như dữ liệu lớn, Internet vạn vật, trí tuệ nhân tạo...
Sáu là, cơ cấu lại ngành công nghiệp theo hướng phát triển các ngành dựa trên ĐMST và các ngành công nghệ cao. Có chính sách khuyến khích và hỗ trợ tài chính để doanh nghiệp chuyển đổi sang các mô hình kinh doanh mới. Triển khai các giải pháp nâng cao tính linh hoạt của thị trường lao động, phát triển thị trường KHCN, thị trường phát minh, sáng chế để tạo nền tảng cho tăng trưởng năng suất, bền vững và bao trùm hơn.
Tóm lại, không chỉ là một nhân tố đóng góp vào quá trình tăng trưởng kinh tế, trong bối cảnh của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư hiện nay, KHCN và đổi với sáng tạo đang đóng vai trò quyết định sự thành công của quá trình tái cơ cấu nền kinh tế và đổi mới mô hình tăng trưởng của các quốc gia trong đó có Việt Nam. Vì vậy, các chính sách để thúc đẩy ứng ụng KHCN và ĐMST vào các hoạt động kinh tế - xã hội là yếu tố tiên quyết để thúc đẩy quá trình tái cơ cấu nền kinh tế và đổi mới mô hình tăng trưởng ở nước ta hiện nay./.
_______________________________________________
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội XIII, Nxb. CTQG, Hà Nội.
2. Chính phủ (2021), Kế hoạch Phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021-2025.
3. Nguyễn Đức Khương (2020), Kinh tế sáng tạo và sự vươn lên của các quốc gia, Tạp chí Doanh nghiệp và Hội nhập.
4. Trần Huyền (2021), Để đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam đi vào thực chất, Tạp chí Tài chính.
5. Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển truyền thông khoa học và công nghệ (2020), Đổi mới sáng tạo toàn diện để thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế Việt Nam.
Nguồn: Bài đăng trên Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông số tháng 11/2021
Bài liên quan
- Hệ thống chính trị Việt Nam truyền thống và hiện đại từ góc nhìn đổi mới
- Tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả
- Giữ gìn và bảo vệ giá trị văn hóa truyền thống các dân tộc ít người, góp phần củng cố, phát triển khối đại đoàn kết toàn dân tộc
- Xu hướng hòa bình, hợp tác, phát triển trên thế giới và vai trò của Việt Nam hiện nay
- Phát huy vai trò của ngành công nghiệp xuất bản trong việc gìn giữ bản sắc văn hóa dân tộc
Xem nhiều
- 1 Video Tư liệu: Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông 30 năm xây dựng và phát triển
- 2 Giữ gìn và bảo vệ giá trị văn hóa truyền thống các dân tộc ít người, góp phần củng cố, phát triển khối đại đoàn kết toàn dân tộc
- 3 Phát triển nguồn nhân lực ở tỉnh Bến Tre: Thực trạng và giải pháp
- 4 Sử dụng ChatGPT trong việc cải thiện kỹ năng viết cho sinh viên học tiếng Anh
- 5 Lễ kỷ niệm và Hội thảo khoa học “30 năm - Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông”
- 6 Lễ kỷ niệm và Hội thảo khoa học “Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông 30 năm xây dựng và phát triển”
Liên kết
- Báo điện tử đảng cộng sản việt nam
- Báo nhân dân
- Báo Quân đội nhân dân
- Cổng thông tin điện tử Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Cổng thông tin điện tử Học viện Chính trị quốc gia hồ chí minh
- Tạp chí Cộng sản
- Tạp chí Giáo dục lý luận
- Tạp chí Giáo dục và Xã hội
- Tạp chí Khoa học xã hội và Nhân văn
- Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam
- Tạp chí Lý luận chính trị
- Tạp chí Nghiên cứu con người
- TẠP CHÍ Nghiên cứu dân tộc
- Tạp chí Người làm báo
- Tạp chí Nội chính
- Tạp chí Quản lý Nhà nước
- Tạp chí Tổ chức Nhà nước
- Tạp chí Tuyên giáo
- Tạp chí Xây Dựng Đảng
- Thư viện số Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Trang thông tin điện tử Hội đồng Lý luận Trung ương
Xây dựng mô hình tự quản trong phương pháp quản lý lưu học sinh nước ngoài tại Học viện Báo chí và Tuyên truyền
Học viện Báo chí và Tuyên truyền là cơ sở đào tạo trong lĩnh vực báo chí, truyền thông và lý luận chính trị có uy tín trên cả nước. Bởi vậy, việc liên kết đào tạo về các lĩnh vực này không chỉ được thực hiện ở các đơn vị đào tạo trong nước mà còn được thực hiện cả ở sự liên kết đào tạo quốc tế. Hàng năm, Học viện đón tiếp một lượng lớn sinh viên quốc tế theo học ở các bậc cử nhân, cao học và nghiên cứu sinh. Do vậy, công tác quản lý sinh viên quốc tế là công tác quan trọng và có tính đặc thù. Công tác này để đạt hiệu quả tốt không chỉ thuộc về phương pháp và trách nhiệm của các đơn vị trong học viện mà còn phụ thuộc vào chính năng lực tự quản của các em. Tuy nhiên, để sự tự quản được thực hiện có chất lượng cần thực hiện trên nguyên tắc: Học viện định hướng – phòng Quản lý Ký túc xá xây dựng phương pháp và giám sát – lưu học sinh tự quản. Với nguyên tắc trên, phòng Quản lý ký túc xá đã thu được những thành công nhất định. Bài viết này trình bày những kinh nghiệm đã thu được trong qua trình xây dựng mô hình tự quản trong tập thể lưu học sinh nước ngoài tại học viện.
Hệ thống chính trị Việt Nam truyền thống và hiện đại từ góc nhìn đổi mới
Hệ thống chính trị Việt Nam truyền thống và hiện đại từ góc nhìn đổi mới
Nhìn toàn bộ tiến trình lịch sử chính trị của dân tộc, “Hệ thống chính trị” nước ta dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là một thiết chế chính trị mạnh, mô hình này phù hợp với hoàn cảnh Việt Nam và đúng với quy luật vận động của lịch sử. Và, cũng từ thực tế lịch sử, có thể thấy sức mạnh thực sự của Hệ thống chính trị mà chúng ta đang có chủ yếu không phải do tính chất nhất nguyên mà là do uy tín của Đảng, Nhà nước và lãnh tụ Hồ Chí Minh. Sức sống của hệ thống chính trị là sự phù hợp, thống nhất giữa mục đích của Đảng với nguyện vọng của nhân dân, với nhu cầu phát triển của đất nước. Hệ thống chính trị Việt Nam đương đại, trên cơ sở kết tinh các giá trị thiết chế truyền thống gắn với hiện đại không ngừng đổi mới phát triển khẳng định sức mạnh của Hệ thống tổ chức quyền lực Chính trị Việt Nam có vai trò quyết định thành công xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN.
Tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả
Tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả
Xây dựng tổ chức bộ máy hiệu lực, hiệu quả là công việc khó khăn, phức tạp, đòi hỏi sự đoàn kết, thống nhất, dũng cảm, sự hy sinh của từng cán bộ, đảng viên cùng với quyết tâm rất cao của toàn Đảng, cả hệ thống chính trị, trước hết là người đứng đầu cấp ủy, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và đoàn thể các cấp. Tạp chí Cộng sản trân trọng giới thiệu bài viết của đồng chí Tổng Bí thư Tô Lâm về xây dựng hệ thống chính trị với tiêu đề: “Tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả”:
Giữ gìn và bảo vệ giá trị văn hóa truyền thống các dân tộc ít người, góp phần củng cố, phát triển khối đại đoàn kết toàn dân tộc
Giữ gìn và bảo vệ giá trị văn hóa truyền thống các dân tộc ít người, góp phần củng cố, phát triển khối đại đoàn kết toàn dân tộc
Với cộng đồng 54 dân tộc anh em, Việt Nam là quốc gia có nền văn hóa đa dạng, phong phú, có những nét riêng, trở thành tài sản quý giá làm nên bản sắc văn hóa Việt Nam độc đáo, đặc sắc. Giữ gìn và bảo vệ các giá trị di sản văn hóa truyền thống chính là góp phần củng cố phát triển khối đại đoàn kết dân tộc - một sức mạnh nội sinh to lớn và vĩ đại, làm nên mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam, dưới lá cờ vẻ vang của Đảng.
Xu hướng hòa bình, hợp tác, phát triển trên thế giới và vai trò của Việt Nam hiện nay
Xu hướng hòa bình, hợp tác, phát triển trên thế giới và vai trò của Việt Nam hiện nay
Trong bối cảnh hiện nay sự cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn, chạy đua vũ trang, các cuộc xung đột tôn giáo, sắc tộc vẫn diễn ra ở nhiều nơi, đặc biệt là cuộc xung đột quân sự giữa Nga và Ukraina ở Đông Âu, giữa Israel và Palestine vùng các tổ chức hồi giáo ở Trung Đông diễn biến ngày càng căng thẳng đe dọa tới hòa bình, an ninh khu vực và thế giới. Tuy vậy, hòa bình, hợp tác và phát triển vẫn là mục tiêu hướng tới của các nước, là xu hướng chính trị -xã hội tất yếu của nhân loại, từ đó đặt ra vai trò, trách nhiệm của các quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam.
Bình luận