Thực hiện tự học, tự rèn luyện nâng cao bản lĩnh chính trị của học viên các nhà trường quân đội
1. Quan điểm của Hồ Chí Minh về “tự học”, “tự rèn luyện”
Quan điểm của Hồ Chí Minh về “tự học”
Quan điểm về “tự học” đã được bàn nhiều trong lịch sử giáo dục của nhân loại, như trong Nho giáo, Đạo giáo và Phật giáo. Quan điểm “tự học” đã được Hồ Chí Minh tiếp tục hoàn thiện, bổ sung, nâng lên một tầm cao mới theo phương châm đơn giản, ngắn gọn, súc tính và dễ hiểu. Hồ Chí Minh cũng là hiện thân của ý chí, nghị lực vươn lên trong quá trình tự học.
Theo Người, “tự học” chính là “tự động học tập”, nghĩa là việc học tập do chính bản thân người học quyết định, tự giác, tự chủ động về thời gian, nội dung học mà không cần sự nhắc nhở, giao nhiệm vụ của người khác, tự mình nhận thấy nhu cầu của bản thân còn thiếu, còn yếu chỗ nào để từ đó tiến hành việc tự học. Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Tự động là không phải tựa vào ai, là tự mình biết biến báo xoay xở, tự mình biết thực hành công tác theo nhiều hình thức mới mẻ, phong phú”(1). Nội dung về “tự học” trong tư tưởng của Người rất phong phú, có thể khái quát trên một số vấn đề như sau:
Một là, hoạt động tự học của mỗi người phải được xác định ngay ở mục đích, động cơ của việc học tập. Để tự học thành công, đạt được hiệu quả cần xác định được mục đích, động cơ tự học đúng đắn. Đây là vấn đề quan trọng, có ý nghĩa quyết định đến chất lượng, hiệu quả của quá trình tự học. Theo Người, mục đích học tập của người cán bộ phải là: “Học để làm việc, làm người, làm cán bộ. Học để phụng sự đoàn thể, giai cấp và nhân dân, Tổ quốc và nhân loại”(2). Mục đích của tự học là thúc đẩy và nâng cao tầm hiểu biết của bản thân người học, đồng thời đây cũng là một trong những nhân tố góp phần thúc đẩy việc hình thành và phát triển nhân cách.
Như vậy, tự học là quá trình người học tự ý thức, tự nỗ lực chiếm lĩnh tri thức bằng hành động của chính mình hướng tới mục đích nhất định; là quá trình tự giác, tích cực chiếm lĩnh tri thức, hình thành kỹ năng, kỹ xảo của bản thân người học; đối với người cán bộ cách mạng, khi nào còn sống, còn hoạt động cách mạng thì khi đó càng phải tự học và trau dồi kiến thức. Trong bài nói chuyện với Lớp huấn luyện đảng viên mới ngày 14/5/1966, Người nhắc nhở: “Bác thường nghe nói có đồng chí mới 40 tuổi mà đã cho mình là già cho nên ít chịu học tập. Nghĩ như vậy là không đúng, 40 tuổi chưa phải là già. Bác đã 76 tuổi nhưng vẫn cố gắng học thêm. Chúng ta phải học và hoạt động cách mạng suốt đời. Còn sống thì còn phải học, còn phải hoạt động cách mạng”(3).
Hai là, phải có kế hoạch, sắp xếp thời gian học tập hợp lý, phải kiên trì, bền bỉ để đạt được kế hoạch đề ra. Trong quá trình tự học của mình, Người luôn đề ra cho bản thân thời khóa biểu hợp lý và phấn đấu đạt được kế hoạch đã đề ra. Trong cuộc đời hoạt động, cần nhiều ngoại ngữ, với tư duy sắc sảo cùng sự khổ luyện đã giúp Người thành công trong học ngoại ngữ. Theo Người: “Học không bao giờ cùng. Học mãi để tiến bộ mãi. Càng tiến bộ, càng thấy càng phải học thêm”(4).
Ba là, phải chú trọng học tập đầy đủ các mặt, các lĩnh vực của đời sống xã hội vì “Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội thì nhất định phải có học thức. Cần phải học văn hóa, chính trị, kỹ thuật. Cần phải học lý luận Mác - Lênin kết hợp với đấu tranh và công tác hàng ngày”(5); để có thể phát triển một cách toàn diện, có được vốn tri thức phong phú. Hồ Chí Minh yêu cầu phải tự học các lĩnh vực, cả chuyên môn, nghiệp vụ và lý luận, đạo đức. Người nhấn mạnh, giáo dục, học tập lý luận Mác - Lênin không phải giáo điều theo từng câu chữ mà là “học tập cái tinh thần xử trí mọi việc, đối với mọi người và đối với bản thân mình; là học tập những chân lý phổ biến của chủ nghĩa Mác - Lênin để áp dụng một cách sáng tạo vào hoàn cảnh thực tế của nước ta”(6).
Quan điểm của Hồ Chí Minh về “tự rèn luyện”
Song song với quá trình tự học, Hồ Chí Minh luôn coi trọng quá trình tự rèn luyện. Theo Người, tự rèn luyện là quá trình diễn ra một cách lâu dài, cụ thể, tỉ mỉ, tạo thành những kỹ năng, kỹ xảo trong xử lý công việc và thực hiện nhiệm vụ được giao; tất cả mọi người đều phải tự mình rèn luyện, tu dưỡng bản thân để có thể phụng vụ sự nghiệp cách mạng lâu dài, được nhân dân tin tưởng tuyệt đối. Người nhắc nhở: “Trước mặt quần chúng, không phải ta cứ viết lên trán chữ “cộng sản” mà ta được họ yêu mến. Quần chúng chỉ quý mến những người có tư cách, đạo đức. Muốn hướng dẫn nhân dân, mình phải làm mực thước cho người ta bắt chước”(7).
Người cán bộ cách mạng phải luôn luôn tự rèn luyện về nhiều mặt như: rèn luyện nâng cao sức khỏe bản thân để phục vụ cách mạng được lâu dài; rèn luyện phương pháp, tác phong làm việc; phương pháp khi tiếp xúc với nhân dân; phương pháp viết và nói để người dân dễ nghe, dễ hiểu và luôn tin theo Đảng, tin theo cách mạng… và đặc biệt là phải tự tu dưỡng, rèn luyện đạo đức suốt đời, phấn đấu hy sinh vì sự nghiệp cách mạng của Đảng. Người cho rằng: “Đạo đức cách mạng không phải từ trên trời sa xuống. Nó do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hàng ngày mà phát triển và củng cố. Cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong”(8).
Quá trình tự rèn luyện để mỗi cán bộ, đảng viên nâng cao bản lĩnh chính trị, khắc phục những hạn chế, khuyết điểm, khơi dậy, phát huy những mặt tích cực, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, bởi “Mỗi con người đều có thiện và ác ở trong lòng. Ta phải biết làm cho phần tốt ở trong mỗi con người nảy nở như hoa mùa Xuân và phần xấu bị mất dần đi, đó là thái độ của người cách mạng”(9).
Vấn đề tự học, tự rèn là một tư tưởng lớn của Hồ Chí Minh. Những kinh nghiệm và những chỉ dẫn được rút ra từ tấm gương tự học bền bỉ của Người đến nay vẫn còn nguyên giá trị. Đặc biệt, trong tình hình thế giới đang có những bước tiến dài trong cách mạng khoa học - kỹ thuật, trong nền kinh tế tri thức cũng như trong công cuộc đổi mới của đất nước, thì việc tự học, tự rèn để nâng cao kiến thức và bản lĩnh chính trị một cách toàn diện đang trở thành yêu cầu cấp thiết cho mỗi người, nhất là đối với học viên trong các nhà trường quân đội. Người cán bộ, đảng viên phải không ngừng học tập để có trình độ hiểu biết mọi mặt nhằm nâng cao chất lượng công tác; tự học, tự rèn luyện để nâng cao trình độ của bản thân, coi đây là tiêu chuẩn, giá trị đạo đức của mỗi người và là nhu cầu, thói quen hằng ngày của cán bộ, đảng viên. Những cán bộ, đảng viên lười học, lười suy nghĩ, không thường xuyên cập nhật thông tin mới, hiểu biết mới cũng là một biểu hiện suy thoái về đạo đức.
2. Bản lĩnh chính trị của học viên các nhà trường quân đội
Bản lĩnh chính trị là sự tổng hợp biện chứng của lập trường chính trị, phẩm chất chính trị và năng lực chính trị; là điều kiện cần thiết để bảo đảm cho mỗi học viên ở các nhà trường quân đội có định hướng chính trị đúng đắn, luôn làm chủ bản thân, làm chủ hoàn cảnh thực tiễn và kiểm soát được hành vi, thái độ của mình trong mọi tình huống. Đó chính là sự vững vàng, kiên định, chủ động trong suy nghĩ và hành động trước những khó khăn, thách thức của cuộc sống. Bản lĩnh chính trị là phần cốt lõi, cơ bản nhất, là phẩm chất quan trọng cần phải có hàng đầu của mỗi học viên; là sự cụ thể hóa bản lĩnh chính trị của Đảng ta, mang bản chất giai cấp công nhân, vì sự nghiệp giải phóng giai cấp, giải phóng con người; là sự kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH, kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, trung thành với lợi ích của Tổ quốc và nhân dân; là tinh thần, ý chí, quyết tâm phấn đấu, vượt mọi gian khổ và không dao động trước thử thách, áp lực để hoàn thành nhiệm vụ. Đó còn là tinh thần chủ động trong đấu tranh vạch trần, phản bác những quan điểm sai trái của các thế lực thù địch, phản động, góp phần làm thất bại mọi âm mưu và hoạt động của chúng, phòng và chống nguy cơ “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ.
Bản lĩnh chính trị là thành tố quan trọng tạo nên phẩm chất, nhân cách người cán bộ, đảng viên. Nhờ có bản lĩnh chính trị mà mỗi cá nhân có thể điều chỉnh thái độ, hành vi; tạo nên sự vững vàng, kiên định về lập trường, quan điểm chính trị, không dao động trước những khó khăn, thử thách của cuộc sống; luôn tỉnh táo, chủ động trong tiếp nhận, xử lý các thông tin đa chiều; có quan điểm đúng đắn trước những vấn đề chính trị - xã hội phức tạp, nhạy cảm. Đảng ta luôn coi trọng việc “tiếp tục nâng cao lập trường, bản lĩnh chính trị, trí tuệ, tính chiến đấu của toàn Đảng và mỗi cán bộ, đảng viên…”(10), quyết tâm hoàn thành tốt chức trách, nhiệm vụ được giao, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của sự nghiệp cách mạng hiện nay.
Học viên các nhà trường quân đội là những người được tuyển chọn kỹ lưỡng về phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống và năng lực chuyên môn để đào tạo trở thành những cán bộ, sĩ quan phục vụ lâu dài trong quân đội. Vì vậy, trong quá trình đào tạo, bên cạnh việc trang bị kiến thức chuyên ngành, các nhà trường quân đội luôn đặc biệt quan tâm việc bồi dưỡng, nâng cao bản lĩnh chính trị cho học viên. Bản lĩnh chính trị sẽ góp phần củng cố ý chí kiên định, vững vàng về lý tưởng, mục tiêu của Đảng, nhiệm vụ chính trị, giúp người học vượt qua những tình huống nguy hiểm, khó khăn, thử thách, phức tạp trong học tập, rèn luyện và cuộc sống; hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao.
Bản lĩnh chính trị của học viên các nhà trường quân đội không phải được hình thành một cách tự nhiên mà là quá trình học tập, rèn luyện tích lũy lâu dài, trải qua những khó khăn, thử thách, vất vả, thậm chí có lúc đối mặt với cả sự hy sinh về tính mạng trong những tình huống nguy hiểm. Bản lĩnh chính trị cũng không nhất thành, bất biến mà luôn vận động, biến đổi cùng chủ thể thông qua thời gian và những điều kiện, môi trường hoàn cảnh khác nhau. Bản lĩnh chính trị của học viên các nhà trường trong quân đội là phẩm chất chính trị của người học đang trong quá trình hình thành và phát triển ở một trình độ nhất định để họ có thể tự quyết định một cách độc lập, sáng tạo những vấn đề gặp phải trong hoạt động học tập, rèn luyện ở nhà trường và tác động từ môi trường xã hội, quân sự, giúp họ làm chủ hành vi chính trị trước những tình huống chính trị phức tạp, không dao động, chùn bước trước những khó khăn, gian khổ của nhiệm vụ học tập, rèn luyện để hoàn thành mục tiêu, yêu cầu đào tạo.
Hoạt động tự học, tự rèn của học viên các nhà trường quân đội có những đặc điểm sau:
Một là, học viên các nhà trường quân đội chủ yếu là những thanh niên có tuổi đời từ 18 đến 21 tuổi; phần lớn là những thí sinh sau khi tốt nghiệp trung học phổ thông đăng ký thi tuyển vào các nhà trường quân đội, một số là những quân nhân đang tại ngũ được đơn vị cử đi đào tạo để phát triển thành cán bộ, sĩ quan quân đội. Với đặc điểm tuổi đời trẻ, ít va chạm với các vấn đề chính trị - xã hội nên tri thức và lập trường, bản lĩnh chính trị còn chưa vững; còn nhiều bỡ ngỡ, lo lắng trước môi trường học tập, rèn luyện đòi hỏi tính tổ chức, kỷ luật cao, gian khổ và vất vả. Vì vậy, trong quá trình học tập, rèn luyện, bên cạnh sự truyền thụ tri thức từ đội ngũ giáo viên, sự quan tâm, hướng dẫn, chỉ bảo của đội ngũ cán bộ quản lý, sự giúp đỡ của đồng chí, đồng đội thì tự học, tự rèn của mỗi cá nhân là nhân tố có vai trò quyết định để hình thành, phát triển bản lĩnh chính trị của người học, đáp ứng mục tiêu, yêu cầu đào tạo.
Hai là, học viên các nhà trường quân đội vừa đóng vai trò là đối tượng để các chủ thể giáo dục hướng đến trang bị tri thức, hình thành năng lực chuyên môn và phẩm chất nhân cách, đồng thời là chủ thể trong hoạt động tự học, tự rèn luyện. Có thể khẳng định, tự học, tự rèn của học viên các nhà trường quân đội là một hoạt động mang tính tự giác cao; đặt dưới sự quản lý, hướng dẫn của đội ngũ cán bộ quản lý và giáo viên nhằm giúp người học phát huy khả năng tự tìm hiểu, tự nghiên cứu để phát triển tư duy kết hợp với phương pháp học tập, rèn luyện khoa học nhằm chuyển hóa những tri thức thành những kỹ năng thuần thục trong hoạt động thực tiễn quân sự để từ đó góp phần củng cố niềm tin, hình thành nên bản lĩnh chính trị vững vàng cho người học.
Ba là, hoạt động tự học, tự rèn của học viên các nhà trường quân đội diễn ra trong môi trường có tính tổ chức và kỷ luật cao, đòi hỏi mọi quân nhân đều phải chấp hành nghiêm kỷ luật và quy định của đơn vị. Học tập và rèn luyện được xem là nhiệm vụ chính trị trung tâm của các nhà trường quân đội, nhằm cụ thể hóa phương châm: chất lượng đào tạo của nhà trường là khả năng sẵn sàng chiến đấu của đơn vị. Vì vậy, mọi hoạt động tự học, tự rèn của học viên đều có sự quản lý, giám sát chặt chẽ, hướng dẫn của đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý. Quá trình tự học, tự rèn của học viên được thực hiện trên cơ sở kế hoạch chung của đơn vị, kết hợp với kế hoạch tự học, tự rèn mà bản thân mỗi học viên tự xây dựng nhằm bảo đảm giờ nào việc đó, duy trì đầy đủ các chế độ, nền nếp và được kiểm tra, đánh giá thường xuyên hàng ngày, hàng tuần để lấy kết quả làm căn cứ đối chiếu, so sánh, đánh giá sự tiến bộ qua từng năm học, làm cơ sở thúc đẩy sự hình thành, phát triển bản lĩnh chính trị của người học trong quá trình học tập, rèn luyện và công tác.
Bên cạnh đó, hoạt động tự học, tự rèn của học viên các nhà trường quân đội luôn chịu sự chi phối, quy định của cấp ủy, chỉ huy các cấp. Đây là đặc điểm nổi bật trong quá trình tự học, tự rèn của học viên các nhà trường quân đội. Để quá trình tự học, tự rèn đạt được mục đích, yêu cầu đề ra, cấp ủy, chỉ huy các cấp luôn xây dựng kế hoạch tự học, tự rèn cụ thể, chi tiết, khoa học phù hợp với từng học viên, từng năm học để tạo sự chuyển biến về chất trong nhận thức và hành động. Trước tình trạng vẫn còn một số học viên có bản lĩnh chính trị chưa vững vàng, còn hoài nghi, mơ hồ khi tiếp cận, nhận diện và đấu tranh “phản bác các quan điểm sai trái, thù địch có lúc, có nơi còn bị động, thiếu sắc bén, tính chiến đấu chưa cao”(11); nên việc định hướng của cấp ủy, chỉ huy các cấp đối với hoạt động tự học, tự rèn của học viên là một yêu cầu tất yếu.
3. Thực hiện chỉ dẫn của Hồ Chí Minh về tự học, tự rèn, nâng cao bản lĩnh chính trị cho học viên các nhà trường quân đội
Sự thống nhất giữa giáo dục, rèn luyện với tự giáo dục, tự rèn luyện là vấn đề có tính quy luật, quy định phương pháp, tác phong của các chủ thể trong xây dựng bản lĩnh chính trị của học viên. Tự học và tự rèn là hai mặt của quá trình giáo dục, có mối quan hệ khăng khít, hỗ trợ cho nhau. Bản chất của sự thống nhất giữa tự học với tự rèn trong xây dựng bản lĩnh chính trị của học viên ở chỗ, con người là sản phẩm của xã hội và cũng là chủ thể sáng tạo ra mọi giá trị vật chất tinh thần. Thực tiễn cho thấy, những thành tựu văn hóa vật chất và tinh thần truyền lại cho các thế hệ sau, bảo đảm sự phát triển bền vững của xã hội đều được thực hiện bởi giáo dục, đào tạo, đây là phương thức cơ bản, xuyên suốt trong lịch sử giáo dục. Để vận dụng hiệu quả tư tưởng Hồ Chí Minh về tự học, tự rèn vào nâng cao bản lĩnh chính trị cho học viên ở các nhà trường quân đội hiện nay, cần thực hiện tốt một số nội dung sau:
Một là, thường xuyên giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng; phòng và chống chủ nghĩa cá nhân trong quân đội. Giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng, phát huy vai trò nêu gương, thống nhất giữa nói và làm của mỗi học viên nhằm tăng cường “sức đề kháng” chống lại “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ.
Rèn luyện nâng cao bản lĩnh chính trị phải luôn gắn với “nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân” theo phương châm mọi tổ chức, cán bộ, đảng viên, chiến sĩ phải tự giáo dục và rèn luyện hằng ngày. Trong đó, gắn thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW ngày 15/5/2016 của Bộ Chính trị về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; Nghị quyết Trung ương 4 các khóa XI, XII, XIII về xây dựng và chỉnh đốn Đảng; Quy định số 08-QĐi/TW ngày 25/10/2018 về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, trước hết là Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng...
Thực hiện tốt chương trình kiểm tra, giám sát của cấp ủy, tổ chức đảng các đơn vị đối với việc thực hiện chỉ thị, nghị quyết và đưa vào tiêu chí thi đua, đánh giá xếp loại đảng viên, tổ chức đảng của đơn vị hằng năm. Công tác này phải được thực hiện nghiêm túc, nêu cao trách nhiệm của người đứng đầu trong đánh giá cán bộ, học viên và tổ chức đảng nhằm tạo sự chuyển biến về chất trong việc nâng cao trách nhiệm đánh giá phân cấp cán bộ đúng với các tiêu chí đề ra.
Hai là, đẩy mạnh và thực hiện tốt công tác giáo dục chính trị tư tưởng cho học viên. Đây là nội dung cốt yếu, là cơ sở, nền móng vững chắc bảo đảm cho học viên tuyệt đối trung thành với sự nghiệp cách mạng của Đảng. Sinh thời, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Kém lý luận, hoặc khinh lý luận, hoặc lý luận suông”(12) dẫn tới khuyết điểm và trước hết, nguy hiểm nhất là “Khuyết điểm về tư tưởng, tức là bệnh chủ quan”(13) mà “Nếu không chữa ngay, để nó lây ra, thì có hại vô cùng”. Vì thế, học tập lý luận chính trị, đổi mới công tác giáo dục lý luận chính trị là công việc quan trọng, cần thiết, cấp bách, thường xuyên và lâu dài của nhà trường trong quân đội hiện nay.
Trau dồi, bồi dưỡng về lý luận chính trị; khắc phục những hạn chế trong công tác giáo dục chính trị tư tưởng; giảng dạy và học tập nghị quyết của Đảng... sẽ giúp học viên hiểu sâu sắc bản chất cách mạng, khoa học; những nguyên lý, quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; thấu suốt đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước. Từ đó có nhận thức chính trị, tình cảm chính trị đúng đắn, có thế giới quan, phương pháp luận khoa học. Trong học tập, phải gắn lý luận với thực tiễn, phục vụ nhu cầu công tác, phát huy tính độc lập, tích cực, chủ động, sáng tạo, “học đi đôi với hành”. Đa dạng hóa các phương thức giáo dục lý luận chính trị theo hướng thiết thực, hiệu quả nhằm nâng cao khả năng “tự miễn dịch”, “tự đề kháng” của học viên trước những tác động tiêu cực, trái chiều.
Bản lĩnh chính trị của học viên được hình thành và phát triển trong hoạt động thực tiễn. Thực tiễn là cơ sở, động lực của nhận thức, là tiêu chuẩn kiểm tra, kiểm nghiệm tính nhạy bén, vững chắc về bản lĩnh chính trị của mỗi học viên. Thông qua hoạt động thực tiễn, những tri thức khoa học, kinh nghiệm thực tiễn thống nhất biện chứng, chuyển hóa lẫn nhau và kết tinh thành năng lực trí tuệ. Nếu chỉ dừng lại ở trang bị tri thức khoa học mà không phát huy vai trò của thực tiễn và trải nghiệm qua thực tiễn thì tri thức khoa học đó thiếu tính bền vững và gây thụ động trong nhân cách của người học viên. Phát huy vai trò của thực tiễn giúp học viên củng cố những nội dung giáo dục chính trị đã lĩnh hội được, hiểu biết sâu sắc bản chất nội dung giáo dục đó. Thông qua thực tiễn kiểm nghiệm tính đúng đắn của nội dung giáo dục, bổ sung tri thức mới, đồng thời củng cố niềm tin, tình cảm cách mạng cho người học.
Ba là, nâng cao bản lĩnh chính trị cho học viên ở các nhà trường quân đội hiện nay phải gắn với xây dựng môi trường văn hóa trong sáng, lành mạnh, quan tâm tới đời sống vật chất tinh thần của người học; phải dân chủ hóa XHCN đời sống chính trị tinh thần của xã hội và quân đội.
Môi trường quân đội là môi trường văn hóa quân sự, có vai trò quan trọng trong giáo dục xây dựng nhân cách quân nhân, góp phần xây dựng nên các giá trị văn hóa tinh thần của quân đội ta, xây dựng nên biểu tượng cao đẹp của chủ nghĩa anh hùng cách mạng về một quân đội anh hùng “từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu. Môi trường văn hóa quân đội mang đậm tính nhân văn, góp phần to lớn trực tiếp xây dựng quân đội theo hướng “cách mạng, chính quy, tinh nhuệ từng bước hiện đại” và hiện nay một số quân, binh chủng ưu tiên tiến thẳng lên hiện đại. Do vậy, cấp ủy, người chỉ huy các cấp phải luôn tôn trọng và tin tưởng người học trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, cùng với công tác lãnh đạo cấp ủy, chỉ huy các cấp phải làm tốt công tác bồi dưỡng cán bộ, theo sát giúp đỡ người học, tạo môi trường văn hóa tốt cho họ cống hiến, rèn luyện và thực hiện tốt chức trách nhiệm vụ của bản thân.
Bốn là, phát huy vai trò năng động, sáng tạo của học viên trong quá trình tự học, tự rèn. Theo đó, từng học viên phải chủ động lựa chọn sự tác động của xã hội đối với mình; tự điều khiển, điều chỉnh, tự chuyển hóa những nhu cầu của xã hội vốn là đòi hỏi khách quan thành trạng thái chủ quan, thành hệ thống những nhu cầu, động cơ, mục đích, thành sự tự tu dưỡng, rèn luyện, thành ý thức tự xây dựng và đó là nhu cầu tự thân, bên trong của người học để hoàn thiện những phẩm chất, nhân cách của bản thân theo yêu cầu của nhiệm vụ được giao. Tự học, tự rèn - là nhân tố quan trọng đóng vai trò trực tiếp, quyết định sự hình thành, phát triển bản lĩnh chính trị của học viên các nhà trường quân đội hiện nay, đây là vấn đề mang tính quy luật.
Bản lĩnh chính trị của học viên các nhà trường quân đội luôn chịu sự quy định của nhiều yếu tố, trong đó nhân tố tự học, tự rèn luôn giữ vai trò quyết định thúc đẩy sự hình thành và phát triển bản lĩnh chính trị của người học. Các nhân tố quy định bản lĩnh chính trị của học viên luôn có mối quan hệ biện chứng, thống nhất với nhau, tạo thành một thể thống nhất để củng cố bản lĩnh chính trị của người học ngày càng vững chắc và kiên định. Xét về bản chất, tự học, tự rèn chính là nhân tố thuộc về chủ quan của người học, nó quyết định sự hình thành nhanh hay chậm, vững vàng, kiên định hay dao động, hoang mang của học viên trong quá trình học tập và rèn luyện ở các nhà trường quân đội trong giai đoạn hiện nay.
____________________________________________
(1) Hồ Chí Minh, Toàn tập, T.4, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr.44.
(2), (4), (7) Hồ Chí Minh: Toàn tập, T.6, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr.208, 61, 16.
(3), (9) Hồ Chí Minh: Toàn tập, T.15, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr.113, 672.
(5) Hồ Chí Minh: Toàn tập, T.13, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr.90.
(6), (8) Hồ Chí Minh: Toàn tập, T.11, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr.611, 612.
(10), (11) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, T.II, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr. 231, 222.
(12), (13) Hồ Chí Minh: Toàn tập, T.5, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr.273, 273.
Nguồn: Bài đăng trên Tạp chí Lý luận chính trị điện tử ngày 23/8/2021
Bài liên quan
- Công tác dân tộc qua những bài học cụ thể của Chủ tịch Hồ Chí Minh từ ngày đầu thành lập nước
- Từ tư tưởng của Hồ Chí Minh "Học không bao giờ cùng..." đến nhiệm vụ nghiên cứu, học tập của giảng viên giảng dạy lý luận chính trị hiện nay
- Thực hành dân chủ và nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng theo Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh
- Bước phát triển về chuẩn mực “Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư”
- Tác phẩm của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tiếp cận từ góc độ học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh
Xem nhiều
- 1 Video Tư liệu: Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông 30 năm xây dựng và phát triển
- 2 Xu hướng hòa bình, hợp tác, phát triển trên thế giới và vai trò của Việt Nam hiện nay
- 3 Sử dụng công nghệ trí tuệ nhân tạo trong sản xuất chương trình truyền hình
- 4 Giữ gìn và bảo vệ giá trị văn hóa truyền thống các dân tộc ít người, góp phần củng cố, phát triển khối đại đoàn kết toàn dân tộc
- 5 Phát triển nguồn nhân lực ở tỉnh Bến Tre: Thực trạng và giải pháp
- 6 Sử dụng ChatGPT trong việc cải thiện kỹ năng viết cho sinh viên học tiếng Anh
Liên kết
- Báo điện tử đảng cộng sản việt nam
- Báo nhân dân
- Báo Quân đội nhân dân
- Cổng thông tin điện tử Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Cổng thông tin điện tử Học viện Chính trị quốc gia hồ chí minh
- Tạp chí Cộng sản
- Tạp chí Giáo dục lý luận
- Tạp chí Giáo dục và Xã hội
- Tạp chí Khoa học xã hội và Nhân văn
- Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam
- Tạp chí Lý luận chính trị
- Tạp chí Nghiên cứu con người
- TẠP CHÍ Nghiên cứu dân tộc
- Tạp chí Người làm báo
- Tạp chí Nội chính
- Tạp chí Quản lý Nhà nước
- Tạp chí Tổ chức Nhà nước
- Tạp chí Tuyên giáo
- Tạp chí Xây Dựng Đảng
- Thư viện số Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Trang thông tin điện tử Hội đồng Lý luận Trung ương
Vai trò của các chương trình tương tác trên báo mạng điện tử Việt Nam hiện nay
Các chương trình tương tác là một trong những nội dung được đánh giá là hấp dẫn và thu hút công chúng trên báo mạng điện tử hiện nay. Không còn dừng lại ở một vài hình thức nhỏ lẻ, cùng với sự linh hoạt của báo mạng điện tử, các chương trình tương tác ngày càng đa dạng và phong phú về nội dung và hình thức, tăng thêm sức hấp dẫn cho tờ báo, thu hút công chúng. Bài viết sẽ đi sâu vào nghiên cứu về vai trò của các chương trình tương tác trên báo mạng điện tử hiện nay, làm rõ dưới các góc độ công chúng, tờ báo và hoạt động báo chí nói chung, từ đó lý giải được nguyên nhân vì sao các chương trình tương tác đang ngày càng được các tờ báo mạng điện tử coi trọng và tập trung phát triển.
Công tác dân tộc qua những bài học cụ thể của Chủ tịch Hồ Chí Minh từ ngày đầu thành lập nước
Công tác dân tộc qua những bài học cụ thể của Chủ tịch Hồ Chí Minh từ ngày đầu thành lập nước
Ngay sau khi nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời vào ngày 2/9/1945, chính quyền cách mạng non trẻ của chúng ta đã phải đương đầu với nạn “thù trong, giặc ngoài”, ở cả 2 miền Nam, Bắc vấn đề về xung đột dân tộc trở thành tâm điểm có nguy cơ gây ảnh hưởng trực tiếp đến sự tồn vong của nhà nước cách mạng non trẻ. Với trí tuệ uyên bác, sự lãnh đạo thiên tài của Chủ tịch Hồ Chí Minh, các vấn đề tưởng chừng hết sức phức tạp ấy lại được Người khéo léo giải quyết thành công, đem lại bài học có giá trị cách mạng sâu sắc về công tác dân tộc cả trong quá khứ, hiện tại và tương lai.
Từ tư tưởng của Hồ Chí Minh "Học không bao giờ cùng..." đến nhiệm vụ nghiên cứu, học tập của giảng viên giảng dạy lý luận chính trị hiện nay
Từ tư tưởng của Hồ Chí Minh "Học không bao giờ cùng..." đến nhiệm vụ nghiên cứu, học tập của giảng viên giảng dạy lý luận chính trị hiện nay
Chủ tịch Hồ Chí Minh - lãnh tụ vĩ đại của Đảng và dân tộc Việt Nam, là anh hùng giải phóng dân tộc và nhà văn hóa kiệt xuất, Người đã để lại di sản quý báu về tư tưởng, đạo đức, phong cách cho Đảng và Nhân dân ta. Di sản Hồ Chí Minh bao quát rộng lớn các vấn đề của cách mạng Việt Nam, trong đó có tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục - đào tạo. Trong giới hạn của bài viết này, chúng tôi chỉ đề cập đến lời dạy của Người trong Thư gửi “Quân nhân học báo” tháng 4/1949: “Học không bao giờ cùng. Học mãi để tiến bộ mãi. Càng tiến bộ, càng thấy càng phải học thêm”(1) là vấn đề có ý nghĩa thời sự đối với việc nghiên cứu, học tập của cán bộ, đảng viên nói chung, giảng viên làm công tác giảng dạy lý luận chính trị nói riêng hiện nay.
Thực hành dân chủ và nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng theo Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh
Thực hành dân chủ và nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng theo Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh
Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh là một văn kiện lịch sử đặc biệt, có giá trị to lớn cả về lý luận và thực tiễn, hàm chứa nhiều nội dung sâu sắc về xây dựng Đảng cầm quyền, đặc biệt là vấn đề thực hành dân chủ và nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng. Trải qua 55 năm, di huấn của Người về vấn đề này vẫn còn nguyên giá trị lịch sử và thời đại.
Bước phát triển về chuẩn mực “Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư”
Bước phát triển về chuẩn mực “Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư”
Suy ngẫm tư tưởng Hồ Chí Minh về “Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư” và nghiên cứu Điều 3 Quy định số 144 để thấy được bước phát triển của Đảng về chuẩn mực đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên trong giai đoạn mới.
Bình luận