Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo, phương thức cầm quyền của Đảng theo quan điểm Đại hội XIII
Phương thức lãnh đạo của Đảng là hệ thống phương pháp, cách thức mà Đảng sử dụng để thực hiện chức năng lãnh đạo, tác động vào các tổ chức trong hệ thống chính trị và tổ chức, vận động toàn xã hội nhằm hiện thực hóa Cương lĩnh, đường lối, quan điểm của Đảng. Trong điều kiện Đảng cầm quyền, phương thức lãnh đạo của Đảng có vai trò hết sức quan trọng để hiện thực hóa Cương lĩnh, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng. Phương thức lãnh đạo của Đảng theo Chủ tịch Hồ Chí Minh quan niệm, đó là “cách tổ chức”, “cách lãnh đạo”… Trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc”, Bác viết: “Khi đã có chính sách đúng, thì sự thành công hoặc thất bại của chính sách đó là do nơi cách tổ chức công việc, nơi lựa chọn cán bộ và do nơi kiểm tra”(1) và Người cho rằng “nếu ba điều ấy sơ sài thì chính sách đúng mấy cũng vô ích”(2).
Thấm nhuần tư tưởng Hồ Chí Minh, từ năm 1986, đất nước ta thực hiện công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo, Đảng đã thường xuyên quan tâm đổi mới phương thức lãnh đạo và xác định đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và các tổ chức trong hệ thống chính trị là một nội dung quan trọng của công tác xây dựng Đảng. Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng được tiến hành đồng bộ với đổi mới tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị, kết hợp chặt chẽ với đổi mới các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Phong cách lãnh đạo, lề lối làm việc của cấp ủy, tổ chức Đảng từ Trung ương tới cơ sở có nhiều chuyển biến, tiến bộ. Đánh giá kết quả thực hiện Nghị quyết khóa 12, Đại hội XIII của Đảng chỉ rõ: “Phương thức lãnh đạo của Đảng tiếp tục được đổi mới. Ban hành và thực hiện nhiều quy định bảo đảm giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng, đề cao nguyên tắc pháp quyền, phát huy dân chủ, tính chủ động, sáng tạo và trách nhiệm của các cơ quan nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị xã hội. Đổi mới cách học tập, quán triệt nghị quyết, coi trọng việc lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, sơ kết, tổng kết việc thực hiện nghị quyết của Đảng. Việc đổi mới phong cách, lề lối làm việc của các cơ quan lãnh đạo của Đảng từ Trung ương tới cơ sở có bước tiến bộ. Coi trọng việc phát huy vai trò, trách nhiệm của các tổ chức đảng, đảng viên, nhất là người đứng đầu cấp ủy, tổ chức đảng, cơ quan nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội”(3).
Tuy nhiên, việc đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đến nay vẫn còn không ít hạn chế, khuyết điểm: “Phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị còn chậm đổi mới, có mặt còn lúng túng. Cơ chế kiểm soát quyền lực trong Đảng và Nhà nước chưa đầy đủ, đồng bộ; hiệu lực, hiệu quả chưa cao”(4).
Những hạn chế, khuyết điểm trong quá trình thực hiện Nghị quyết Đại hội XII có nguyên nhân khách quan, song trực tiếp và quyết định nhất là do nguyên nhân chủ quan. “Trước hết, nhận thức của một số cấp ủy, chính quyền, cán bộ, đảng viên về một số chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước còn chưa sâu sắc, thiếu thống nhất, do vậy một số công việc triển khai thiếu kiên quyết còn lúng túng. Thứ hai, chỉ đạo và tổ chức thực hiện vẫn là khâu yếu, chậm được khắc phục; năng lực cụ thể hóa, thể chế hóa chủ trương, nghị quyết còn hạn chế, năng lực tổ chức thực hiện của cán bộ chưa đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ, làm cho pháp luật, nghị quyết chậm được thực hiện và hiệu quả thấp. Thứ ba, nhiều hạn chế, yếu kém trong lãnh đạo, quản lý, điều hành của các cấp ủy, chính quyền và đội ngũ cán bộ, đảng viên ở một số nơi chậm được khắc phục; trách nhiệm người đứng đầu chưa thực sự được đề cao. Tư tưởng trông chờ, thụ động, ỷ lại vào cấp trên, tình trạng nói không đi đôi với làm, nói nhiều làm ít, kỷ cương, phép nước không nghiêm còn khá phổ biến; chưa tạo được nhiều cơ chế, chính sách, giải pháp có tính đột phá, đồng bộ để tháo gỡ khó khăn, hỗ trợ người dân và doanh nghiệp, huy động mọi nguồn lực cho phát triển. Thứ tư, nhận thức, triển khai đổi mới tổ chức bộ máy một số cơ quan Trung ương và địa phương chưa đều, chưa đồng bộ. Công tác cán bộ còn có mặt hạn chế, việc thực hiện một số nội dung trong các khâu của công tác cán bộ ở một số nơi còn hình thức. Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, chủ nghĩa cá nhân, “lợi ích nhóm”, bệnh lãng phí, vô cảm, bệnh thành tích ở một bộ phận cán bộ, đảng viên chưa bị đẩy lùi”(5).
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng nhiệm kỳ 2021-2026 đã xác định các chủ trương tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo, phương thức cầm quyền của Đảng, như sau:
Một là, đẩy mạnh tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, bổ sung, hoàn thiện đường lối đổi mới và phương thức cầm quyền của Đảng, bảo đảm sự thống nhất giữa phương thức lãnh đạo của Đảng với Cương lĩnh chính trị, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng.
Nhìn lại hơn 35 năm thực hiện công cuộc đổi mới, 30 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Đảng đã tổng kết được hệ thống quan điểm lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam ngày càng hoàn thiện và từng bước được hiện thực hóa. Tuy nhiên, đến nay còn không ít vấn đề lý luận chưa được luận chứng khoa học thấu đáo. Để tiếp tục đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng ngang tầm nhiệm vụ, cần đẩy mạnh tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, phát huy dân chủ, khuyến khích tìm tòi, sáng tạo để làm sáng tỏ hơn nữa những vấn đề về thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta, về xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, về thể chế, thiết chế quản lý phát triển xã hội. Phát triển hệ thống lý luận, kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, tiếp thu tinh hoa trí tuệ nhân loại, vận dụng đúng đắn, sáng tạo đề ra chủ trương, chính sách phát triển phù hợp với thực tiễn Việt Nam. Khắc phục những lạc hậu, yếu kém của công tác nghiên cứu lý luận và đấu tranh bác bỏ quan điểm sai trái của các thế lực thù địch. Nâng cao bản lĩnh chính trị, trình độ trí tuệ của cán bộ, đảng viên, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, giữ gìn sự đoàn kết thống nhất trong Đảng và sự đồng thuận trong xã hội.
Tiếp tục tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận về Đảng cầm quyền, những vấn đề mới nảy sinh trong quá trình đổi mới và các nguy cơ phải phòng ngừa đối với đảng cầm quyền (phát huy dân chủ trong điều kiện một đảng cầm quyền, phòng, chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ...) làm cơ sở để đổi mới nội dung cầm quyền, phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước, với các tổ chức trong hệ thống chính trị và tạo sự thống nhất nhận thức trong toàn Đảng, sự đồng thuận của hệ thống chính trị về đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng cầm quyền. Đẩy mạnh việc phân công, phân quyền, có cơ chế để các địa phương phát huy quyền chủ động, sáng tạo, gắn với đề cao trách nhiệm; đồng thời bảo đảm sự lãnh đạo, quản lý thống nhất của Trung ương. Quy định rõ về quyền hạn, trách nhiệm của người đứng đầu và mối quan hệ giữa tập thể cấp ủy, tổ chức đảng với người đứng đầu, bảo đảm thực hiện nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, đi đôi với phát huy vai trò trách nhiệm, tính chủ động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm của người đứng đầu và cơ chế xử lý đối với người đứng đầu vi phạm.
Hai là, tăng cường xây dựng, chỉnh đốn làm trong sạch Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ.
Quá trình lãnh đạo đổi mới đất nước, Đảng nhất quán khẳng định xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt, có ý nghĩa sống còn trong toàn bộ sự nghiệp cách mạng, Đảng phải thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, giữ vững bản chất cách mạng và khoa học, nâng cao năng lực cầm quyền và đổi mới phương thức lãnh đạo. Xây dựng, chỉnh đốn làm trong sạch Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng là khâu then chốt quyết định nâng cao tính khoa học, năng lực, hiệu quả lãnh đạo và đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng; giữ vững, tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và toàn xã hội; củng cố, tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân.
Tuy nhiên, trên thực tế nhiều chủ trương, chính sách đúng đắn của Đảng đã không được quán triệt, thực hiện có chất lượng, hiệu quả. Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII của Đảng đã chỉ ra nguyên nhân là do tình trạng quan liêu, tham nhũng, lãng phí và sự suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên. Đại hội XIII của Đảng tiếp tục nhấn mạnh: “Công tác phòng chống tham nhũng, lãng phí ở một số địa phương, bộ ngành chưa có chuyển biến rõ rệt; công tác phòng ngừa tham nhũng ở một số nơi còn hình thức. Việc phát hiện, xử lý tham nhũng, lãng phí vẫn còn hạn chế, nhất là việc tự kiểm tra, tự phát hiện và xử lý tham nhũng, lãng phí trong nội bộ cơ quan, đơn vị còn yếu; tình trạng nhũng nhiễu, tiêu cực trong một số cơ quan, đơn vị khu vực hành chính, dịch vụ công chưa được đẩy lùi. Tham nhũng, lãng phí trên một số lĩnh vực, địa bàn vẫn còn nghiêm trọng, phức tạp, với những biểu hiện ngày càng tinh vi, gây bức xúc trong xã hội. Tham nhũng vẫn là một trong những nguy cơ đe dọa sự tồn vong của Đảng và chế độ ta”(6).
Đại hội XIII của Đảng chỉ rõ, phải tiếp tục đẩy mạnh hơn nữa công tác xây dựng Đảng. Cấp ủy, tổ chức đảng, cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp có kế hoạch, biện pháp phù hợp để khắc phục, sửa chữa những yếu kém, khuyết điểm. Kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, kiên định đường lối đổi mới, kiên định những vấn đề có tính nguyên tắc trong công tác xây dựng Đảng, giữ vững bản chất công nhân của Đảng, vai trò tiên phong, gương mẫu của cán bộ, đảng viên. Nâng cao năng lực hoạch định đường lối và hiệu lực lãnh đạo của Đảng.
Nâng cao bản lĩnh chính trị, trình độ trí tuệ, phẩm chất đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên, trước hết là cán bộ lãnh đạo, quản lý; tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức phong cách Hồ Chí Minh; kiên quyết đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ; “kiên quyết, kiên trì đấu tranh phòng chống tham nhũng, lãng phí ”(7), chủ nghĩa cá nhân, cục bộ, bè phái, “lợi ích nhóm”, củng cố niềm tin của đảng viên và nhân dân với Đảng. Đổi mới kiện toàn tổ chức bộ máy của Đảng, nâng cao hiệu quả hoạt động của tổ chức cơ sở đảng và chất lượng đảng viên. Đổi mới mạnh mẽ công tác cán bộ, thực hiện nghiêm nguyên tắc Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ.
Đổi mới bầu cử trong Đảng, phương thức tuyển chọn, bổ nhiệm cán bộ; ban hành và thực hiện các quy định, quy chế bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ, giữa các khâu, các bước trong công tác cán bộ, đánh giá đúng đắn, khách quan cán bộ; lựa chọn những cán bộ có phẩm chất, năng lực tốt, năng động, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm giữa các vị trí lãnh đạo chủ trì, chủ chốt; có cơ chế, chính sách phát hiện, thu hút, sử dụng nhân tài; ngăn chặn đẩy lùi tình trạng chạy chức, chạy tuổi, chạy bằng cấp...
Đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật đảng, xử lý kịp thời, nghiêm minh tổ chức đảng, đảng viên vi phạm Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và những hành vi dung túng, bao che khuyết điểm, vi phạm của tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên. Nghiên cứu tăng thẩm quyền kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật đảng cho ủy ban kiểm tra các cấp. Kết hợp chặt chẽ công tác kiểm tra, giám sát của Đảng với thanh tra của Nhà nước, giám sát của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội. Nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện các quy định của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, kiện toàn các cơ quan chức năng và tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, thanh tra, kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử để nâng cao hiệu lực, hiệu quả đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí. Xây dựng cơ chế phòng ngừa, ngăn chặn quan hệ “lợi ích nhóm”, chống đặc quyền, đặc lợi, “tư duy nhiệm kỳ”, đẩy mạnh cải cách hành chính, tư pháp. Phát huy vai trò của các cơ quan dân cử, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân, các phương tiện thông tin đại chúng trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí.
Ba là, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị, trọng tâm là đối với Nhà nước; xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thực sự của dân, do dân, vì dân.
Trong điều kiện Đảng cầm quyền, sự lãnh đạo của Đảng đối với xã hội được thực hiện chủ yếu thông qua hoạt động quản lý, điều hành của Nhà nước. Hiệu lực lãnh đạo của Đảng phụ thuộc rất lớn hiệu lực quản lý, điều hành của Nhà nước. Vì vậy, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị và xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân là vấn đề có ý nghĩa đặc biệt quan trọng để nâng cao năng lực cầm quyền của Đảng. Đại hội XIII của Đảng chỉ rõ: “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương thức lãnh đạo của Đảng trong điều kiện mới. Đảng lãnh đạo Nhà nước bằng cương lĩnh, chiến lược, các chủ trương, chính sách lớn, bằng công tác tổ chức, cán bộ, bằng kiểm tra, giám sát; lãnh đạo thể chế hóa các quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng thành chính sách, pháp luật; lãnh đạo xây dựng tổ chức bộ máy, đội ngũ cán bộ, công chức đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ; lãnh đạo tổ chức thực hiện có hiệu quả các chủ trương, chính sách, Hiến pháp và pháp luật; chú trọng lãnh đạo đổi mới, nâng cao chất lượng lập pháp, cải cách hành chính và cải cách tư pháp”(8).
“Tiếp tục cụ thể hóa phương thức lãnh đạo của Đảng đã được xác định trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) ở tất cả các cấp bằng những quy chế, quy định, quy trình cụ thể và công khai để cán bộ, đảng viên và nhân dân biết, giám sát việc thực hiện”(9). “Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo, bảo đảm sự lãnh đạo, chỉ đạo thông suốt, kịp thời, đúng đắn của cấp ủy, tổ chức đảng các cấp; phát huy vai trò nêu gương, thúc đẩy đổi mới phương thức, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của các tổ chức, cơ quan trong hệ thống chính trị”(10).
Đảng lãnh đạo Nhà nước bằng cương lĩnh, chiến lược, các định hướng về chính sách và chủ trương lớn; lãnh đạo thể chế hóa các quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng thành chính sách, pháp luật của Nhà nước. Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước đủ phẩm chất, năng lực; lãnh đạo tổ chức thực hiện có hiệu quả các chủ trương, chính sách của Đảng và hệ thống pháp luật của Nhà nước. Chú trọng đổi mới, nâng cao chất lượng lập pháp, cải cách hành chính và cải cách tư pháp; tổ chức đảng, đảng viên phải gương mẫu tuân thủ Hiến pháp và pháp luật. Đảng lãnh đạo Chính phủ ban hành cơ chế, chính sách, các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại. Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ, giới thiệu những đảng viên ưu tú có phẩm chất, năng lực vào hoạt động trong cơ quan nhà nước và các tổ chức của hệ thống chính trị. Đảng lãnh đạo thông qua tổ chức đảng và đảng viên hoạt động trong các tổ chức của hệ thống chính trị và tăng cường chế độ trách nhiệm cá nhân, nhất là người đứng đầu tổ chức đảng, cơ quan Nhà nước. Đồng thời, phát huy mạnh mẽ vai trò, tính chủ động, sáng tạo và trách nhiệm của các tổ chức trong hệ thống chính trị.
Đổi mới cách ra nghị quyết, chỉ thị và quán triệt, tổ chức thực hiện nghị quyết, chỉ thị của Đảng, lựa chọn đúng những vấn đề quan trọng, cấp bách để tập trung lãnh đạo, triển khai tổ chức thực hiện; nâng cao chất lượng công tác tư tưởng, lấy tuyên truyền, vận động, giáo dục, thuyết phục làm phương thức quan trọng để thực hiện sự lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị và toàn xã hội; phát huy vai trò tiền phong gương mẫu của đảng viên, tổ chức đảng trong thực hiện nghị quyết, chỉ thị, quy chế của Đảng; phát huy quyền làm chủ của nhân dân, dựa vào dân để xây dựng Đảng và giám sát hoạt động của đảng viên, tổ chức đảng; tôn trọng, phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội; đoàn kết dân tộc, đẩy mạnh phong trào cách mạng của quần chúng, thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ, mục tiêu do Đảng và Nhà nước đề ra.
Xác định rõ chức năng, nhiệm vụ của đảng đoàn, ban cán sự đảng; rà soát, sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện hệ thống quy định, quy chế làm việc của cấp ủy, tổ chức đảng các cấp và các cơ quan tham mưu, giúp việc của Đảng. Lựa chọn, giới thiệu những đảng viên có phẩm chất, năng lực vào các vị trí lãnh đạo chủ chốt của hệ thống chính trị. Cán bộ, đảng viên phải xây dựng phong cách làm việc khoa học, khách quan, tôn trọng sự thật, sâu sát cơ sở, gần gũi nhân dân, gương mẫu, nói đi đôi với làm. Hoàn thiện thể chế, chức năng, nhiệm vụ, nâng cao hiệu lực của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Nhà nước được tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật, quản lý xã hội bằng Hiến pháp, pháp luật, thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ, có sự phân công, phân cấp. Mọi hoạt động của Nhà nước phải đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, tuân thủ Hiến pháp, pháp luật, phục vụ nhân dân, gắn bó mật thiết với nhân dân, tôn trọng, lắng nghe ý kiến của nhân dân, chịu trách nhiệm trước Đảng, nhân dân về mọi hoạt động của mình.
Tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động bảo đảm Quốc hội thực sự là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, thực hiện chức năng lập pháp, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối cao. Hoàn thiện cơ cấu tổ chức, xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Chính phủ. Đẩy mạnh cải cách hành chính, xây dựng nền hành chính dân chủ, hiện đại, chuyên nghiệp, năng động, phục vụ nhân dân, hoạt động có hiệu quả. Tiếp tục cải cách tư pháp, xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ pháp luật, công lý, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức và cá nhân.
Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức Nhà nước vững mạnh, thực sự là công bộc tận tụy của dân; khắc phục tình trạng cồng kềnh, chồng chéo, kém hiệu lực, hiệu quả; xây dựng hệ thống quy chế và bộ máy làm việc khoa học, hiệu quả, không gây phiền hà, lãng phí, sách nhiễu dân. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, ngăn ngừa và trừng trị tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, vi phạm quyền công dân; giữ nghiêm kỷ cương xã hội, nghiêm trị mọi hành động xâm phạm lợi ích của quốc gia, dân tộc và của nhân dân.
Bốn là, ban hành và tổ chức thực hiện các chủ trương, cơ chế, chính sách, quy chế, quy định phát huy quyền làm chủ của nhân dân.
Đại hội XIII của Đảng chỉ rõ: “Thắt chặt hơn nữa mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân, dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng. Tạo chuyển biến mạnh mẽ trong nhận thức, hành động của các cấp ủy đảng, hệ thống chính trị về công tác dân vận; có cơ chế phát huy vai trò của nhân dân tham gia xây dựng Đảng, hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh trong tình hình mới”(11). Dân chủ phải được thực hiện đầy đủ, nghiêm túc trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Tiếp tục nghiên cứu, ban hành các chủ trương, cơ chế, chính sách bảo đảm để nhân dân tham gia ở tất cả các khâu của quá trình đưa ra những quyết định liên quan đến lợi ích, cuộc sống của nhân dân; để nhân dân tham gia giám sát và phản biện xã hội, giám sát hoạt động của Đảng, Nhà nước và cán bộ, công chức; tham gia góp ý kiến xây dựng Đảng, chính quyền, đấu tranh phòng, chống tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí. Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện những văn bản pháp luật liên quan trực tiếp đến quyền làm chủ của nhân dân và hoàn thiện hệ thống pháp luật, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền và nghĩa vụ công dân.
Phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội trong giám sát, phản biện xã hội, tham gia góp ý xây dựng Đảng và chính quyền, thực hiện Quy chế thực hiện dân chủ ở cơ sở. Thực hiện tốt Quy chế giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội; Quy định về việc Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội và nhân dân góp ý kiến xây dựng Đảng và chính quyền; pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn. Xây dựng quy chế hoạt động, quy chế phối hợp giữa các cơ quan nhà nước với Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị - xã hội trong quán triệt, triển khai tổ chức thực hiện các chủ trương lớn của Đảng, tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước trong sạch, vững mạnh; tổ chức các phong trào thi đua yêu nước, vận động các tầng lớp nhân dân thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại.
Phát huy dân chủ gắn liền với tăng cường pháp chế, đề cao trách nhiệm công dân, giữ vững kỷ luật, kỷ cương và đề cao chuẩn mực đạo đức xã hội. Phê phán dân chủ cực đoan, dân chủ hình thức, kiên quyết xử lý nghiêm những hành vi lợi dụng dân chủ làm mất an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội và những hành vi vi phạm quyền dân chủ và quyền làm chủ của nhân dân./.
_______________________
(1), (2) Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, Nxb. CTQG, Hà Nội, T.5, tr.636.
(3), (4), (5), (6), (7), (8), (9), (10), (11) Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, Nxb. CTQG, Hà Nội, T.1, tr.76-77, 93, 93-95, 92-93, 193, 196-197, 197-198, 198, 191.
Nguồn: Bài đăng trên Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông số tháng 05.2021
Bài liên quan
- Những luận điểm mới về quản lý nhà nước trong Văn kiện Đại hội XIII của Đảng
- Mối quan hệ giữa mục đích và phương pháp thực hiện mục đích cách mạng Việt Nam qua Văn kiện Đại hội XIII của Đảng
- Những điểm mới về công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng trong Văn kiện Đại hội XIII
- “Dân hạnh phúc”, “dân giám sát”, “dân thụ hưởng” trong Văn kiện Đại hội XIII của Đảng
- Phụ nữ Việt Nam khơi dậy khát vọng phát triển, quyết tâm thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng
Xem nhiều
- 1 Ảnh hưởng của truyền thông xã hội đến hoạt động báo chí
- 2 Công tác dân tộc qua những bài học cụ thể của Chủ tịch Hồ Chí Minh từ ngày đầu thành lập nước
- 3 Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của sinh viên về học tập tại Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- 4 Truyền thông về cơ hội phát triển bền vững, thích ứng với biến đổi khí hậu khi ứng dụng thành tựu khoa học và công nghệ ở đồng bằng sông Cửu long trên báo chí Việt Nam
- 5 Hệ thống chính trị Việt Nam truyền thống và hiện đại từ góc nhìn đổi mới
- 6 Quản lý tác động của truyền thông đại chúng và dư luận xã hội đến sinh viên đại học hiện nay
Liên kết
- Báo điện tử đảng cộng sản việt nam
- Báo nhân dân
- Báo Quân đội nhân dân
- Cổng thông tin điện tử Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Cổng thông tin điện tử Học viện Chính trị quốc gia hồ chí minh
- Tạp chí Cộng sản
- Tạp chí Giáo dục lý luận
- Tạp chí Giáo dục và Xã hội
- Tạp chí Khoa học xã hội và Nhân văn
- Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam
- Tạp chí Lý luận chính trị
- Tạp chí Nghiên cứu con người
- TẠP CHÍ Nghiên cứu dân tộc
- Tạp chí Người làm báo
- Tạp chí Nội chính
- Tạp chí Quản lý Nhà nước
- Tạp chí Tổ chức Nhà nước
- Tạp chí Tuyên giáo
- Tạp chí Xây Dựng Đảng
- Thư viện số Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Trang thông tin điện tử Hội đồng Lý luận Trung ương
Tăng cường giáo dục thanh niên theo tư tưởng Hồ Chí Minh
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhấn mạnh tầm quan trọng chiến lược của công tác giáo dục thanh niên. Người đã chỉ rõ sự cần thiết; nội dung, phương thức giáo dục thanh niên và trách nhiệm của các chủ thể trong công tác này. Bài viết trình bày khái quát tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục thanh niên và đề xuất giải pháp vận dụng tư tưởng của Người vào công tác giáo dục thanh niên Việt Nam góp phần phát huy vai trò của thanh niên trong kỷ nguyên mới của dân tộc.
Những luận điểm mới về quản lý nhà nước trong Văn kiện Đại hội XIII của Đảng
Những luận điểm mới về quản lý nhà nước trong Văn kiện Đại hội XIII của Đảng
(LLCT&TT) Trên cơ sở kiên định định hướng xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, tổng kết sâu sắc thực tiễn 35 năm tiến hành công cuộc đổi mới và nghiên cứu lý luận, Đại hội XIII của Đảng đã nêu nhiều luận điểm mới về quản lý nhà nước đối với các lĩnh vực của đời sống xã hội và toàn xã hội. Bài viết này nêu nhận thức bước đầu về một số luận điểm mới của Đảng về quản lý nhà nước thể hiện trong các Văn kiện Đại hội XIII của Đảng.
Mối quan hệ giữa mục đích và phương pháp thực hiện mục đích cách mạng Việt Nam qua Văn kiện Đại hội XIII của Đảng
Mối quan hệ giữa mục đích và phương pháp thực hiện mục đích cách mạng Việt Nam qua Văn kiện Đại hội XIII của Đảng
Trong quá trình hoạt động thực tiễn của con người, mục đích và phương pháp thực hiện mục đích có quan hệ chặt chẽ với nhau. Sự phù hợp giữa chúng là điều kiện bảo đảm cho thành công của hành động. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Đảng ta luôn coi trọng mối quan hệ đó và điều này cũng được thể hiện rõ nét trong Văn kiện Đại hội XIII của Đảng.
Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo, phương thức cầm quyền của Đảng theo quan điểm Đại hội XIII
Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo, phương thức cầm quyền của Đảng theo quan điểm Đại hội XIII
(LLCT&TT) Trong mỗi giai đoạn cách mạng, phương thức lãnh đạo, phương thức cầm quyền của Đảng là vấn đề luôn mới bởi những điều kiện cụ thể và nhân tố ảnh hưởng luôn có sự thay đổi. Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo, phương thức cầm quyền của Đảng trong giai đoạn hiện nay là yêu cầu khách quan của sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước và hội nhập quốc tế, là giải pháp quan trọng củng cố vị trí cầm quyền của Đảng, khẳng định sức sống mãnh liệt của chủ nghĩa xã hội.
Những điểm mới về công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng trong Văn kiện Đại hội XIII
Những điểm mới về công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng trong Văn kiện Đại hội XIII
Công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng là một bộ phận quan trọng trong công tác xây dựng Đảng. Tiếp tục phát huy những kết quả đã đạt được trong nhiệm kỳ 2016-2020, Đại hội XIII của Đảng đã đề ra các chủ trương, nhiệm vụ mới của công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng để góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng, làm cho Đảng ta luôn trong sạch, vững mạnh.
Bình luận