(LLCT&TT) Trên cơ sở kiên định định hướng xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, tổng kết sâu sắc thực tiễn 35 năm tiến hành công cuộc đổi mới và nghiên cứu lý luận, Đại hội XIII của Đảng đã nêu nhiều luận điểm mới về quản lý nhà nước đối với các lĩnh vực của đời sống xã hội và toàn xã hội. Bài viết này nêu nhận thức bước đầu về một số luận điểm mới của Đảng về quản lý nhà nước thể hiện trong các Văn kiện Đại hội XIII của Đảng.
1. Đặt quản lý nhà nước trong thể chế phát triển đất nước
Ở nước ta, trong thời kỳ đổi mới đã định hình thể chế chính trị xã hội chủ nghĩa theo cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ”; nền kinh tế nước ta được khẳng định vận hành theo thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; công cuộc bảo vệ Tổ quốc dựa trên nền quốc phòng toàn dân, thế trận quốc phòng toàn dân, nền an ninh nhân dân, thế trận an ninh nhân dân và khu vực phòng thủ tỉnh, thành phố. Trong lĩnh vực kinh tế, thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đang từng bước được hoàn thiện theo hướng hiện đại, đồng bộ và hội nhập với thế giới, trong đó đã nhận thức và giải quyết tốt mối quan hệ giữa nhà nước, thị trường và xã hội; quan hệ giữa nhà nước, doanh nghiệp và người dân. Đại hội XIII của Đảng đã tổng kết một bài học kinh nghiệm của 5 năm nhiệm kỳ Đại hội XII là tập trung ưu tiên xây dựng đồng bộ thể chế phát triển; từ đó, khẳng định một trong những nhiệm vụ trọng tâm của nhiệm kỳ Đại hội XIII là xây dựng, hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển phù hợp với nền kinh tế thị trường đầy đủ, hiện đại, hội nhập quốc tế và đột phá chiến lược thứ nhất trong ba đột phá chiến lược trong những năm tới là: “Hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển, trước hết là thể chế phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”(1). Như vậy, từ nay hoạt động của Nhà nước nói chung, công tác quản lý nhà nước nói riêng, phải nằm trong tổng thể thể chế phát triển đất nước và phục vụ đắc lực cho việc thực hiện thành công thể chế đó.
Theo đó, công tác quản lý nhà nước phải đẩy mạnh việc xây dựng hệ thống pháp luật đầy đủ, kịp thời, đồng bộ, thống nhất, khả thi, công khai, minh bạch, ổn định; lấy quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người dân, doanh nghiệp làm trọng tâm thúc đẩy đổi mới sáng tạo, bảo đảm yêu cầu phát triển nhanh, bền vững; phát triển và nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia, hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo, lấy doanh nghiệp làm trung tâm; Chính phủ tăng cường năng lực dự báo và khả năng phản ứng chính sách trong điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế.
2. Gắn quản lý nhà nước với quản trị quốc gia
Trong những năm qua, thuật ngữ “quản trị quốc gia” đã được sử dụng phổ biến trong các văn bản chính trị, pháp lý ở nhiều nước. Ở Việt Nam, thuật ngữ này đã được đề cập, bàn luận ở một số diễn đàn và lần đầu tiên được chính thức sử dụng trong Văn kiện Đại hội XIII của Đảng. Trên cơ sở đánh giá, trong 5 năm qua, năng lực quản trị nhà nước, điều hành phát triển kinh tế - xã hội đã được nâng cao và một trong những kinh nghiệm là phải coi trọng đổi mới quản trị quốc gia theo hướng hiện đại, hiệu quả, nhất là quản lý phát triển và quản lý xã hội. Chính vì vậy, trong các đột phá chiến lược của Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021-2030, Đại hội XIII của Đảng ghi rõ nội dung: “Đổi mới quản trị quốc gia theo hướng hiện đại, nhất là quản lý phát triển và quản lý xã hội”(2). Quản trị quốc gia không chỉ là việc của Nhà nước, mà còn gắn liền với giải quyết tốt mối quan hệ giữa Nhà nước, thị trường và xã hội; với khẳng định và phát huy tốt vai trò, trách nhiệm và sự tham gia của doanh nghiệp và xã hội (các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội và người dân). Theo đó, Nhà nước không chỉ làm tốt việc xây dựng và hoàn thiện thể chế, bảo vệ quyền tài sản, quyền kinh doanh, giữ ổn định kinh tế vĩ mô, các cân đối lớn của nền kinh tế; tạo môi trường thuận lợi, công khai, minh bạch cho các doanh nghiệp, các tổ chức xã hội và thị trường hoạt động; điều tiết, định hướng, thúc đẩy kinh tế phát triển, gắn kết phát triển kinh tế với phát triển văn hóa, xã hội, bảo vệ môi trường, bảo đảm quốc phòng, an ninh; quản lý nền kinh tế bằng luật pháp, cơ chế, chính sách, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, các tiêu chuẩn, định mức và lực lượng kinh tế nhà nước phù hợp với các yêu cầu và quy luật của kinh tế thị trường, mà còn phải xây dựng và thực thi pháp luật, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch nâng cao chất lượng, hiệu quả quản trị quốc gia; áp dụng chế độ quản trị doanh nghiệp hiện đại để nâng cao hiệu quả; phát huy vai trò của người dân, doanh nghiệp, các tổ chức chính trị - xã hội, nghề nghiệp và cộng đồng trong tham gia xây dựng, phản biện và giám sát thực hiện pháp luật, cơ chế, chính sách của Nhà nước; tạo điều kiện để các tổ chức xã hội làm tốt vai trò tạo sự liên kết, phối hợp hoạt động, giải quyết những vấn đề phát sinh giữa các thành viên; đại diện và bảo vệ lợi ích của các thành viên trong quan hệ với các chủ thể, đối tác khác; cung cấp dịch vụ hỗ trợ cho các thành viên; phản ánh nguyện vọng, lợi ích của các tầng lớp nhân dân với Nhà nước và tham gia phản biện luật pháp, cơ chế, chính sách của Nhà nước, giám sát các cơ quan và đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước trong việc thực thi pháp luật.
3. Đặt quản lý nhà nước trong quá trình chuyển đổi số quốc gia và bối cảnh của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư
Bối cảnh thế giới hiện nay và trong những năm tới nổi lên một số đặc điểm: kinh tế số đang trở thành mô hình phát triển được nhiều quốc gia lựa chọn; công nghệ số thúc đẩy phát triển kinh tế số, xã hội số, làm thay đổi phương thức quản lý nhà nước, mô hình sản xuất kinh doanh, tiêu dùng và đời sống văn hóa, xã hội; khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang diễn biến rất nhanh, tạo ra các đột phá, tác động sâu rộng và đa chiều trên phạm vi toàn cầu; khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo ngày càng trở thành nhân tố quyết định đối với năng lực cạnh tranh của mỗi quốc gia.
Ở trong nước, đến nay, hạ tầng thông tin và truyền thông đã phát triển khá hiện đại, rộng khắp, kết nối với quốc tế và bước đầu hình thành siêu xa lộ thông tin; đã từng bước xây dựng hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu lớn; ứng dụng công nghệ thông tin trong cơ quan quản lý nhà nước ngày càng được hoàn thiện mang lại hiệu quả thiết thực; công tác cải cách thủ tục hành chính, xây dựng chính quyền điện tử, cung cấp dịch vụ công trực tuyến đạt nhiều kết quả tích cực; cơ chế một cửa, một cửa liên thông, một cửa quốc gia, một cửa ASEAN tiếp tục được duy trì, mở rộng, cải thiện về chất lượng, hiệu quả hoạt động giúp cải thiện nhiều chỉ số xếp hạng quốc tế về năng lực cạnh tranh, môi trường kinh doanh, đổi mới sáng tạo, phát triển bền vững; đã tập trung triển khai các giải pháp trọng tâm xây dựng chính phủ điện tử hướng tới chính phủ số và đạt được những kết quả bước đầu; các hoạt động ứng dụng công nghệ thống tin trong cơ quan nhà nước nói chung đã phát triển hơn.
Trong bối cảnh đó, Đại hội XIII của Đảng chủ trương: “Thúc đẩy mạnh mẽ chuyển đổi số quốc gia, phát triển kinh tế số, xã hội số để tạo bứt phá về nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế”(3); đẩy mạnh chuyển đổi số nền kinh tế quốc gia và phát triển kinh tế số; tạo bứt phá trong phát triển hạ tầng công nghệ thông tin, viễn thông, xây dựng, kết nối cơ sở dữ liệu quốc gia; coi đẩy mạnh chuyển đổi số quốc gia, phát triển kinh tế số trên nền tảng khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo là một trong những định hướng phát triển đất nước trong giai đoạn 2021-2030, với mục tiêu đến năm 2025, kinh tế số đạt khoảng 20% GDP; đến năm 2025 nước ta thuộc nhóm 4 nước dẫn đầu ASEAN trong xếp hạng chính phủ điện tử theo đánh giá của Liên hợp quốc. Theo đó, trong quản lý nhà nước cần thúc đẩy xây dựng chính quyền điện tử, tăng cường sự kết nối, trao đổi thông tin thường xuyên giữa chính quyền các cấp, giữa chính quyền với người dân và doanh nghiệp; nâng cao năng lực hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia; đẩy mạnh xây dựng chính phủ điện tử, tiến tới chính phủ số, trong đó tập trung phát triển hạ tầng số phục vụ các cơ quan nhà nước một cách tập trung, thông suốt; thiết kế đồng bộ, xây dựng và đưa vào vận hành hệ thống tích hợp, kết nối liên thông các cơ sở dữ liệu lớn, nhất là dữ liệu về dân cư, y tế, giáo dục, bảo hiểm, doanh nghiệp, đất đai, nhà ở… phục vụ kịp thời, hiệu quả cho phát triển kinh tế - xã hội và đời sống nhân dân.
Thực hiện chuyển đổi số quốc gia một cách toàn diện để phát triển kinh tế số, xây dựng xã hội số. Phấn đấu đến năm 2030, hoàn thành xây dựng chính phủ số; đứng trong nhóm 50 quốc gia hàng đầu thế giới và xếp thứ ba trong khu vực ASEAN về chính phủ điện tử, kinh tế số. Thực hiện chuyển đổi số trong quản trị quốc gia, quản lý nhà nước, trong tất cả các cơ quan nhà nước. Đặc biệt, trong công tác quản lý nhà nước cần hoàn thiện thể chế để thúc đẩy quá trình chuyển đổi số. Đẩy nhanh xây dựng khung chính sách, pháp luật đối với xây dựng chính phủ điện tử hướng tới chính phủ số. Xây dựng, thử nghiệm, hoàn thiện khung khổ pháp lý cho các mô hình kinh doanh mới ứng dụng công nghệ cao, mô hình kinh tế chia sẻ, giao dịch, quản lý các tài sản kỹ thuật số, đầu tư mạo hiểm, các phương thức thanh toán mới, hệ thống xác thực và định danh điện tử. Sớm hoàn thành việc xây dựng và đưa vào khai thác, sử dụng cơ sở dữ liệu quan trọng và nền tảng kết nối, chia sẻ quốc gia; xây dựng chương trình hỗ trợ chuyển đổi số cho doanh nghiệp Việt Nam; chuẩn bị nguồn nhân lực cho chuyển đổi số, phát triển kinh tế số, xã hội số; phổ cập, xóa mù về công nghệ, tri thức công nghệ cho người dân; quy hoạch xây dựng hạ tầng thanh toán số quốc gia theo hướng đồng bộ, thống nhất, dùng chung, tận dụng và khai thác có hiệu quả hạ tầng mạng lưới viễn thông để triển khai các dịch vụ thanh toán cho người dân với chi phí thấp.
Tăng cường khả năng tiếp cận dịch vụ hành chính công của những đối tượng khó khăn đặc thù. Thúc đẩy việc xử lý hồ sơ công việc trên môi trường mạng hướng tới cơ quan nhà nước “không giấy tờ”. Hoàn thiện các hệ thống thông tin một cửa điện tử, cổng dịch vụ công các cấp kết nối với cổng dịch vụ công quốc gia. Hoàn thành kết nối, liên thông giữa các cơ quan hành chính nhà nước với các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp và các doanh nghiệp. Hoàn thiện các quy trình, thủ tục hành chính phù hợp với hoạt động của chính phủ số, cắt giảm tối đa giao dịch trực tiếp.
4. Nhấn mạnh chức năng kiến tạo của Nhà nước
Ngay từ đầu nhiệm kỳ, Chính phủ khóa XIV đã đặt vấn đề xây dựng Chính phủ kiến tạo. Tổng kết việc thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2016 - 2020, Đại hội XIII của Đảng rút ra một kinh nghiệm: cải cách bộ máy chính quyền các cấp, xây dựng nhà nước kiến tạo phát triển, liêm chính, hành động là nền tảng. Để hoàn thành các mục tiêu, nhiệm vụ trong những năm tới và phát huy tốt vai trò của Nhà nước, Đại hội XIII của Đảng chính thức khẳng định chức năng kiến tạo của Nhà nước: “Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước và năng lực kiến tạo phát triển”(4).
Như vậy, cùng với việc Nhà nước thực hiện tốt chức năng xây dựng và quản lý như lâu nay, cần tiếp tục nâng cao năng lực kiến tạo phát triển của Nhà nước, trong đó chú trọng năng lực dự báo, xây dựng khung khổ pháp lý, tạo lập môi trường, tập trung nâng cao năng lực phục vụ, hỗ trợ phát triển; giải quyết tốt hơn mối quan hệ giữa Nhà nước, thị trường và xã hội; giữa Nhà nước, doanh nghiệp và người dân; khắc phục những điểm nghẽn cản trở sự phát triển của đất nước, nhất là về thể chế, chính sách.
Nhà nước cần tập trung xây dựng và phát triển các trung tâm đổi mới sáng tạo quốc gia, tập trung vào các công nghệ lõi của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư; thúc đẩy phát triển mạnh hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia và hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo, đẩy nhanh thành lập các trung tâm khởi nghiệp sáng tạo quốc gia, trước mắt tại Hà Nội, Đà Nẵng, Thành phố Hồ Chí Minh; tăng cường liên kết các mạng lưới đổi mới sáng tạo trong và ngoài nước;…
5. ANhấn mạnh nhiệm vụ quản lý phát triển xã hội của Nhà nước
Trong định hướng tổng quát xây dựng đất nước nhanh và bền vững đến năm 2030 và năm 2045, quản lý phát triển xã hội là nhiệm vụ trọng tâm và có những nội dung mới. Vấn đề đặt ra hiện nay không chỉ là giải quyết tốt các vấn đề xã hội, thực hiện tốt công tác quản lý xã hội, mà là quản lý sự phát triển xã hội. Trong Báo cáo chính trị tại Đại hội XIII của Đảng có riêng mục VIII “Quản lý phát triển xã hội bền vững, bảo đảm tiến bộ, công bằng xã hội”(5).
Định hướng thứ năm phát triển đất nước giai đoạn 2021-2030 được Đại hội XIII của Đảng xác định là: quản lý phát triển xã hội có hiệu quả, nghiêm minh, bảo đảm an ninh xã hội, an ninh con người; thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; xây dựng môi trường văn hóa, đạo đức xã hội lành mạnh, văn minh; chú trọng nâng cao chất lượng dịch vụ y tế, chất lượng dân số, gắn dân số với phát triển; quan tâm đến mọi người dân, bảo đảm chính sách lao động, việc làm, thu nhập, thực hiện tốt phúc lợi xã hội, an sinh xã hội; không ngừng cải thiện toàn diện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Theo đó, Nhà nước cần xây dựng và thực hiện đồng bộ thể chế, chính sách phát triển xã hội, quản lý phát triển xã hội bền vững, hài hòa. Trên cơ sở dự báo đúng xu hướng biến đổi cơ cấu xã hội ở nước ta trong những năm tới, Nhà nước xây dựng các chính sách xã hội và quản lý phát triển xã hội phù hợp, giải quyết hài hòa các quan hệ xã hội, kiểm soát phân tầng xã hội và xử lý kịp thời, hiệu quả các rủi ro, mâu thuẫn, xung đột xã hội, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân.
Trong quản lý phát triển xã hội, Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh vấn đề bảo đảm an ninh xã hội, an ninh con người, trong đó có việc bảo đảm an ninh của con người trước những biến đổi khí hậu, dịch bệnh; thực hiện ngày càng tốt hơn an sinh xã hội và phúc lợi xã hội; bảo vệ và trợ giúp các đối tượng dễ bị tổn thương trong nền kinh tế thị trường; bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô và an ninh kinh tế trước những biến động bất trắc của thị trường và kinh tế thế giới.
6. Khẳng định vai trò chủ thể của nhân dân trong quản lý và phát triển đất nước
Đại hội XIII của Đảng đã đúc rút bài học kinh nghiệm thứ hai của 5 năm nhiệm kỳ Đại hội XII là, trong mọi công việc của Đảng và Nhà nước, phải luôn quán triệt sâu sắc, thực hiện nghiêm túc quan điểm “dân là gốc”; thật sự tin tưởng, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, kiên trì thực hiện phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”. Nhân dân là trung tâm, là chủ thể của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Từ đó, Đại hội XIII của Đảng chủ trương: “Đề cao vai trò chủ thể, vị trí trung tâm của nhân dân trong chiến lược phát triển đất nước. Phát huy tính tích cực chính trị - xã hội, quyền và trách nhiệm của nhân dân…; có cơ chế giải phóng mọi tiềm năng, sức mạnh, khả năng sáng tạo, động viên nhân dân tham gia phát triển kinh tế và quản lý phát triển xã hội”(6).
Đối với công việc quản lý nhà nước, cần phát huy tính tích cực chính trị - xã hội, trí tuệ, quyền và trách nhiệm của nhân dân tham gia xây dựng Nhà nước; động viên nhân dân tham gia phát triển kinh tế; góp phần quản lý xã hội thông qua các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức xã hội - nghề nghiệp, các hoạt động tự quản cộng đồng. Để phát huy vai trò chủ thể của nhân dân trong quản lý nhà nước, quản lý xã hội, Nhà nước cần thực hiện nghiêm trách nhiệm của mình trước nhân dân.
Định hướng thứ mười phát triển đất nước giai đoạn 2021-2030 được Đại hội XIII của Đảng khẳng định: “Tăng cường công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình, kiểm soát quyền lực gắn với siết chặt kỷ luật, kỷ cương trong hoạt động của Nhà nước và của cán bộ, công chức, viên chức”(7); bảo đảm quyền được thông tin và cơ hội tiếp cận thông tin của mọi tầng lớp nhân dân; chống các biểu hiện dân chủ cực đoan, dân chủ hình thức.
7. Đẩy mạnh phân cấp, phân quyền, đề cao tính tự chịu trách nhiệm của chính quyền địa phương
Cùng với việc ghi nhận những ưu điểm của chính quyền địa phương, Đại hội XIII của Đảng cũng thẳng thắn chỉ ra một hạn chế là chức năng, nhiệm vụ, phân cấp, phân quyền chưa thật rõ ràng, hiệu lực, hiệu quả hoạt động còn hạn chế. Từ đó, Đại hội yêu cầu: “Đẩy mạnh phân cấp, phân quyền đi đôi với tăng cường kiểm tra, giám sát và kiểm soát chặt chẽ quyền lực; nâng cao chất lượng, hiệu lực, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát”(8); “có cơ chế để các địa phương phát huy quyền chủ động, sáng tạo, gắn với đề cao trách nhiệm, đồng thời bảo đảm sự lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý thống nhất của trung ương”(9). Theo đó, cần củng cố, hoàn thiện hệ thống chính quyền địa phương, tổng kết việc thí điểm chính quyền đô thị nhằm xây dựng và vận hành các mô hình quản trị chính quyền đô thị theo hướng tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; phân định rõ trách nhiệm, quyền hạn giữa trung ương và địa phương; kết hợp hài hòa giữa phát triển kinh tế địa phương, kinh tế vùng và kinh tế cả nước trên cơ sở phát huy hiệu quả các tiềm năng, thế mạnh của từng địa phương; đổi mới phân cấp ngân sách nhà nước, phân định rõ nguồn thu, nhiệm vụ chi của các cấp ngân sách theo hướng tăng cường vai trò chủ đạo của ngân sách trung ương, đồng thời bảo đảm tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm, khuyến khích và thúc đẩy sáng tạo của chính quyền địa phương.
8. Hoàn thiện thể chế và hệ thống pháp lý về vùng
Theo quy định tại Điều 110 Hiến pháp năm 2013, các đơn vị hành chính của nước ta được phân định: nước chia thành tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương. Tuy nhiên, trong phát triển kinh tế - xã hội có nhu cầu hình thành các vùng kinh tế. Vì vậy, trong các văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng thời kỳ gần đây đều xác định các chủ trương, nhiệm vụ phát triển các vùng kinh tế. Tuy nhiên, khái niệm vùng chưa được khẳng định rõ về căn cứ pháp lý và thể chế. Lần này, Đại hội XIII của Đảng chủ trương: “Hoàn thiện thể chế và hệ thống pháp lý về vùng”(10); một trong những nhiệm vụ trọng tâm của nhiệm kỳ Đại hội XIII là: “phát triển đồng bộ và tạo ra sự liên kết giữa các khu vực, các vùng”(11). Theo đó, phải giải quyết mối quan hệ giữa trung ương với vùng, giữa các tỉnh, thành phố trong vùng với vùng; nghiên cứu hệ thống luật pháp quy định về chính quyền địa phương phù hợp; nghiên cứu, ban hành quy chế phối hợp điều hành các vùng, liên vùng; xây dựng cơ chế, chính sách đặc thù thúc đẩy phát triển vùng, liên kết vùng.
Công tác quản lý nhà nước cần tập trung xây dựng quy hoạch vùng mang tính chất đột phá theo hướng tích hợp, đa ngành, hình thành chuỗi giá trị và triển khai thực hiện hiệu quả, lấy quy hoạch làm cơ sở quản lý phát triển vùng; xây dựng cơ chế, chính sách đặc thù thúc đẩy phát triển vùng, liên kết vùng và thể chế điều phối, phát triển kinh tế vùng đủ mạnh. Đối với các vùng kinh tế, Nhà nước cần đổi mới cơ chế quản lý, mô hình phát triển của các khu công nghệ cao, khu kinh tế, khu công nghiệp, khu du lịch gắn với đô thị hóa để trở thành động lực phát triển vùng. Xây dựng trung tâm đổi mới sáng tạo, trung tâm trí tuệ nhân tạo tại các vùng trọng điểm; xây dựng trung tâm kinh tế, tài chính ở một số địa điểm, đô thị, vùng có lợi thế đặc biệt, với thể chế, cơ chế, chính sách đặc thù có tính đột phá, có khả năng cạnh tranh quốc tế cao; phát triển hệ thống đô thị trung tâm phù hợp với chức năng của từng vùng.
Nhà nước cần cơ cấu lại kinh tế vùng, đổi mới thể chế liên kết giữa các địa phương trong vùng và giữa các vùng, phát huy vai trò các vùng kinh tế động lực và các đô thị lớn, quan tâm phát triển các vùng còn khó khăn, thu hẹp chênh lệch phát triển giữa các vùng; nâng cao chất lượng quy hoạch vùng; đổi mới, hoàn thiện thể chế quản lý vùng có hiệu quả, phát huy tốt nhất tiềm năng, lợi thế của từng vùng, tăng cường liên kết giữa các địa phương trong vùng và giữa các vùng. Phát triển hệ thống đô thị trung tâm phù hợp với chức năng của từng vùng. Xây dựng đồng bộ kết cấu hạ tầng, nâng cao hiệu quả hoạt động và đổi mới cơ chế quản lý, mô hình phát triển của các khu công nghệ cao, khu kinh tế, khu công nghiệp, khu du lịch trở thành động lực phát triển vùng.
Nhà nước nghiên cứu phát triển các mô hình khu kinh tế, khu công nghiệp mới ở từng vùng, trong đó áp dụng các cơ chế quản lý nhà nước và phương thức phát triển thuận lợi, có hiệu quả cao hơn về kinh tế - xã hội. Tăng cường tính liên kết nội vùng và liên vùng, thúc đẩy các vùng, các địa phương tham gia vào các mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu, mở ra các không gian phát triển mới./.
____________________________________________
(1), (2), (3), (5), (6), (7), (8), (9), (11) ĐCSVN (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, T.1, tr.202, 220, 46, 147, 51, 118, 42, 198, 200.
(4), (10) ĐCSVN (2021),Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, T.2, tr.146, 114-115.
Bình luận