Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện cơ sở pháp luật bảo đảm dân chủ ở Việt Nam
1. Mối quan hệ giữa dân chủ và pháp luật
Thuật ngữ dân chủ ra đời vào khoảng thế kỷ thứ VII - VI TCN. Theo đánh giá của Aristotle (384 - 322 TCN), thì Solon (khoảng 638 - 559 TCN) là người đầu tiên đặt nền tảng cho nguyên lý dân chủ. Trong tư tưởng của mình, Solon mong muốn xây dựng một nhà nước trên cơ sở một nền dân chủ thông qua tuyển cử và hòa nhập sức mạnh đối với pháp luật, pháp luật đóng vai trò quan trọng trong việc thực thi quyền làm chủ của nhân dân.
Dân chủ trong lịch sử nhân loại là một phạm trù đa nghĩa và có mối quan hệ gắn bó với pháp luật. Trong bài viết này, chúng tôi tập trung xem xét thuật ngữ dân chủ ở khía cạnh là một chỉnh thể hiện thực - nền dân chủ. Nghĩa là “dân chủ” bao hàm trong nó mọi khía cạnh vật chất và tinh thần của dân chủ, từ kinh tế, chính trị, xã hội cho đến văn hóa. Nền dân chủ ấy chỉ có thể được đảm bảo thực hiện và đạt kết quả cao nhất thông qua pháp luật, đặc biệt trong điều kiện của nhà nước pháp quyền thì mối quan hệ ấy trở nên khăng khít hơn bao giờ hết.
Trong giai đoạn hiện nay, Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đang tiến hành xây dựng và hoàn thiện một nền dân chủ mới - nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Xét về bản chất, dân chủ XHCN là quyền làm chủ của nhân dân trong việc tham gia quản lý đất nước về mọi mặt, hay nói cách khác là “quyền lực thuộc về nhân dân”. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định rõ quan điểm về dân chủ trong việc xây dựng Nhà nước Việt Nam là: “Nước ta là nước dân chủ. Bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân. Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân”(1). Mà trước hết, quyền đó phải được thể hiện bằng pháp luật, được pháp luật ghi nhận và bảo vệ. Chính nhờ có pháp luật và thông qua pháp luật mà người dân nắm được các quyền hạn cũng như nghĩa vụ của mình trong việc thực hiện dân chủ và tự giác thực hiện, từ đó đảm bảo cho xã hội vừa có dân chủ, vừa có kỷ cương. Thấm nhuần chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta luôn đề cao dân chủ và không ngừng phát huy dân chủ trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Ngay từ Đại hội VI - Đại hội đầu tiên đánh dấu quá trình đổi mới, Đảng ta đã xác định việc mở rộng dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy quyền làm chủ của nhân dân là nguyên tắc quan trọng trong hoạt động của Đảng: “Trong toàn bộ hoạt động của mình, Đảng phải quán triệt tư tưởng “lấy dân làm gốc”, xây dựng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động”(2).
Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (1991), Đảng ta chỉ rõ: “Toàn bộ tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị nước ta trong giai đoạn mới là nhằm xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân. Dân chủ gắn liền với công bằng xã hội phải được thực hiện trong thực tế cuộc sống trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội thông qua hoạt động của nhà nước do dân cử ra và bằng các hình thức dân chủ trực tiếp”(3). Quan điểm này tiếp tục được ghi nhận trong Cương lĩnh bổ sung và phát triển năm 2011.
Như vậy, Đảng ta đã coi việc xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa không chỉ là một trong những nội dung thể hiện bản chất của chế độ xã hội chủ nghĩa mà còn là quy luật hình thành, phát triển và tự hoàn thiện của chính hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa. “Dân chủ vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc đổi mới, đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta”. Xuất phát từ vai trò đó của dân chủ, Đảng và Nhà nước ta đã không ngừng xây dựng và hoàn thiện cơ sở pháp luật để thực hiện dân chủ, phát huy tối đa quyền làm chủ của nhân dân trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Dân chủ và pháp luật luôn có mối quan hệ mật thiết với nhau, tạo điều kiện cho nhau phát triển. Việc thực hiện dân chủ phải dựa vào pháp luật và thông qua pháp luật. Ngược lại, nội dung của pháp luật phải hướng tới các mục tiêu dân chủ hay nói cách khác, dân chủ là thước đo sự tiến bộ của pháp luật. Các hoạt động pháp luật như xây dựng, thực hiện, bảo vệ pháp luật... muốn đạt được hiệu quả cao thì cần phải dựa trên cơ sở dân chủ và tiến hành bằng phương thức dân chủ. Tuy nhiên, để có thể đưa ra những phương hướng và giải pháp cụ thể nhằm hoàn thiện cơ sở pháp luật thực hiện dân chủ ở Việt Nam, chúng ta cần xem xét mối quan hệ cụ thể giữa pháp luật và dân chủ một cách kỹ lưỡng.
Pháp luật ra đời và phát triển thông qua sự sáng tạo của ý thức con người trên cơ sở nhận thức về các hiện tượng pháp lý tồn tại trong đời sống xã hội, từ đó đưa ra những quy tắc, chuẩn mực ứng xử chung cho các chủ thể, bao gồm các cá nhân, cộng đồng và các tổ chức chính trị xã hội. Trong quan hệ với dân chủ, pháp luật là sự cụ thể hóa của Hiến pháp, nó hướng dẫn, điều chỉnh việc thực hiện dân chủ ở nước ta. Đồng thời, pháp luật là phương tiện ghi nhận và thực hiện nền dân chủ, là cơ sở để tổ chức các thiết chế dân chủ, các hình thức thực hiện dân chủ trong xã hội. Không thể có dân chủ chung chung, trừu tượng, mà dân chủ là cụ thể. Nghĩa là, quyền lợi phải đi liền với nghĩa vụ theo quy định của pháp luật. Tất cả quyền dân chủ của nhân dân phải được cụ thể hóa bằng pháp luật và được hiện thực hóa trong đời sống xã hội.
Ngược lại, dân chủ lại là thước đo để đánh giá sự tiến bộ của pháp luật và cũng là yếu tố cơ bản nhất để so sánh hệ thống pháp luật giữa các quốc gia, các chế độ chính trị khác nhau qua các thời kỳ lịch sử. Nói về vấn đề này, Chủ tịch Hồ Chí Minh từng so sánh: “Luật pháp cũ là ý chí của thực dân Pháp, không phải là ý chí chung của toàn thể nhân dân ta. Luật pháp cũ đặt ra để giữ gìn trật tự xã hội thật nhưng trật tự ấy chỉ có lợi cho thực dân, phong kiến. Luật pháp đặt ra trước hết để trừng trị, áp bức. Tư bản đặt ra luật pháp để trừng trị công nhân và nông dân lao động”(4). Qua đó, Người khẳng định: Pháp luật của chúng ta là “pháp luật thật sự dân chủ vì nó bảo vệ quyền tự do, dân chủ rộng rãi cho nhân dân lao động”(5). Như vậy, dấu hiệu để Người so sánh sự khác nhau giữa hai nền pháp luật: pháp luật thực dân và pháp luật xã hội chủ nghĩa chính là dân chủ. Sở dĩ pháp luật của thực dân, phong kiến phản tiến bộ chính là bởi nó chỉ phục vụ cho thiểu số những kẻ áp bức, bóc lột. Mục đích của pháp luật thực dân hướng đến chỉ là duy trì sự thống trị, hợp pháp hóa việc chà đạp lên quyền tự do, dân chủ của nhân dân mà thôi. Chính bản chất phi dân chủ của pháp luật thực dân đã khiến nó phải bị diệt vong trong quá trình xã hội tiến lên xây dựng chế độ xã hội mới - xã hội xã hội chủ nghĩa.
Khác với nền dân chủ dưới chế độ cũ, nền dân chủ xã hội chủ nghĩa mà pháp luật nước ta ghi nhận và củng cố nhằm mục đích phục vụ cho đa số nhân lao động và được thể hiện trên tất cả các lĩnh vực: kinh tế, chính trị, tư tưởng, văn hóa, xã hội. Hiến pháp đầu tiên của nước ta ban hành năm 1946 ghi nhận: “Tất cả công dân Việt Nam đều ngang quyền về mọi phương diện: kinh tế, chính trị, văn hóa”(6). Cụ thể, trên lĩnh vực kinh tế: pháp luật ghi nhận quyền tự do, sự ngang bằng về cơ hội giữa các chủ thể sản xuất và kinh doanh, các thành phần kinh tế trong xã hội. Các đơn vị kinh tế trong và ngoài nước được hoạt động theo cơ chế tự chủ trong sản xuất, kinh doanh và đều bình đẳng trước pháp luật. Trên lĩnh vực chính trị, pháp luật tạo mọi điều kiện để nhân dân tham gia vào các công việc chung của Nhà nước và xã hội, tất cả quyền lực đều thuộc về nhân dân, đặc biệt là quyền lực Nhà nước (quyền ứng cử, bầu cử). Bên cạnh đó, pháp luật cũng ghi nhận các quyền dân chủ, tự do trong sinh hoạt chính trị của người dân (quyền thông tin và được thông tin), đa dạng hóa các hình thức dân chủ (dân chủ đại diện, dân chủ trực tiếp...), trong đó chú trọng đến việc đảm bảo và thực hiện dân chủ trực tiếp để nhân dân có thể tham gia, đóng góp ý kiến vào những công việc chung của đất nước. Trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa - xã hội, pháp luật bảo vệ quyền tự do tư tưởng của công dân, giải phóng tinh thần và phát huy mọi khả năng của con người (pháp luật ghi nhận quyền con người, quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, ghi nhận nguyên tắc công dân được làm những tất cả những gì mà pháp luật không cấm),...
Song song với việc ghi nhận quyền tự do dân chủ của nhân dân, pháp luật còn quy định chặt chẽ, chính xác các nhiệm vụ và quyền hạn của các thiết chế quyền lực để bảo đảm quyền dân chủ của nhân dân. Đồng thời cũng tạo cơ chế bảo đảm cho nhân dân thực hiện việc kiểm tra, giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội, các cá nhân được trao quyền lực... Qua đó, pháp luật góp phần hạn chế, ngăn chặn tình trạng lạm dụng chức quyền, chuyên quyền, vi phạm các quyền tự do dân chủ của các chủ thể quyền lực đối với nhân dân.
Như vậy, thông qua các chuẩn mực, quy phạm pháp luật mà quyền dân chủ của nhân dân được thực hiện và đảm bảo thực hiện. Pháp luật ghi nhận giữa các công dân không những công bằng về quyền mà còn bình đẳng về nghĩa vụ và trách nhiệm. Nhận thức đầy đủ được tầm quan trọng của pháp luật đối với việc thực hiện dân chủ và phát huy quyền làm chủ của nhân dân nên ngay từ Nghị quyết Đại hội VI, Đảng ta đã khẳng định: “Quản lý đất nước bằng pháp luật chứ không chỉ bằng đạo lý. Pháp luật là thể chế hóa đường lối, chủ trương của Đảng, thể hiện ý chí của nhân dân, phải được thực hiện thống nhất trong cả nước. Tuân theo pháp luật là chấp hành đường lối, chủ trương của Đảng. Quản lý bằng pháp luật đòi hỏi phải quan tâm xây dựng pháp luật. Từng bước bổ sung và hoàn thiện hệ thống pháp luật để đảm bảo cho bộ máy nhà nước được tổ chức và hoạt động theo pháp luật”(7).
Trong nhà nước pháp quyền XHCN, dân chủ được biểu hiện và thực hiện dưới nhiều hình thức, phương tiện khác nhau. Tuy nhiên, hình thức phổ biến nhất, hiệu quả nhất hiện nay là thông qua pháp luật và hiện thực hóa bằng pháp luật. Tính chất dân chủ sẽ là thước đo đánh giá sự tiến bộ, phát triển của một nền pháp luật. Một nền pháp luật chỉ được coi là tiến bộ khi những giá trị đích thực của dân chủ được thể hiện trong các hoạt động pháp luật: từ hoạt động lập pháp đến hoạt động hiện thực hóa luật pháp. Nghĩa là quá trình lập pháp phải được tiến hành bằng phương thức dân chủ, huy động sự tham gia tích cực, chủ động của người dân vào hoạt động này. Dân chủ cũng đòi hỏi khi xây dựng hệ thống chính sách và pháp luật cần xác định rõ quyền hạn và nghĩa vụ của công dân. Đồng thời, khi pháp luật được phổ biến trong cuộc sống, thông qua sự phản ánh từ cơ sở, pháp luật dần dần có sự điều chỉnh cho phù hợp với ý chí và nguyện vọng của nhân dân. Phải làm sao để pháp luật nước ta thể hiện đầy đủ ý chí và nguyện vọng của các tầng lớp nhân dân. Đó là con đường duy nhất và hiệu quả nhất để những quy tắc, chuẩn mực pháp luật được hiện thực hóa một cách sống động trong đời sống, hình thành văn hóa pháp lý trong xã hội. Đảng ta đã nhấn mạnh: điều quan trọng để phát huy dân chủ là phải xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, nâng cao dân trí, trình độ hiểu biết pháp luật của người dân. Đồng thời “mọi đường lối, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước đều vì lợi ích của nhân dân, có sự tham gia ý kiến của nhân dân”(8).
Ngày 18.2.1998, Bộ Chính trị (khóa VIII) đã ra Chỉ thị số 30-CT/TW Về xây dựng và thực hiện Quy chế Dân chủ ở cơ sở. Đây là lần đầu tiên Đảng ta có một văn bản riêng về vấn đề này. Bộ Chính trị chỉ rõ phải ban hành Chỉ thị này là vì: “quyền làm chủ của nhân dân còn bị vi phạm ở nhiều nơi, trên nhiều lĩnh vực; tệ quan liêu, mệnh lệnh, cửa quyền, tham nhũng, sách nhiễu, gây phiền hà cho dân vẫn đang phổ biến và nghiêm trọng mà chúng ta chưa đẩy lùi, ngăn chặn được. Phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” chưa được cụ thể hóa và thể chế hóa thành luật pháp, chậm đi vào cuộc sống”(9). Theo đó,“khâu quan trọng và cấp bách trước mắt là phát huy quyền làm chủ của nhân dân ở cơ sở, là nơi trực tiếp thực hiện mọi chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, là nơi cần thực hiện quyền làm chủ của nhân dân một cách trực tiếp và rộng rãi nhất. Muốn vậy, Nhà nước cần ban hành Quy chế Dân chủ ở cơ sở có tính pháp lý, yêu cầu mọi người, mọi tổ chức ở cơ sở đều phải nghiêm chỉnh thực hiện”(10).
Việc ban hành Chỉ thị 30 của Đảng nhằm mục tiêu tiếp tục mở rộng dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta, phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong xây dựng và quản lý Nhà nước, thực hiện tốt phương châm “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”. Chỉ thị đã nêu rõ nhiệm vụ quan trọng và cấp bách trước mắt là phải phát huy quyền làm chủ của nhân dân ở cấp cơ sở. Bởi vì cơ sở chính là nền tảng, là tế bào tạo dựng nên một xã hội nhất định. Đó là địa bàn sinh sống cụ thể của người dân, là nơi mọi người lao động, sản xuất tạo ra của cải vật chất và tinh thần của xã hội. Cơ sở chính là thực tiễn cuộc sống, vì vậy, nó vừa là điểm xuất phát của mọi chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, vừa là nơi triển khai thực hiện, kiểm định và bổ sung, phát triển đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước. Do đó, thực hiện dân chủ ở cơ sở sẽ đem lại quyền dân chủ trực tiếp cho người dân. Đây vừa là điều kiện, vừa là tiền đề để xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa.
Để thực hiện Chỉ thị 30-CT/TW của Bộ Chính trị, Ủy ban Thường vụ Quốc hội (khóa X) đã ban hành các nghị quyết số 45/1998, số 55/1998 và số 60/1998 giao cho Chính phủ ban hành các nghị định về thực hiện Quy chế Dân chủ ở 3 loại hình cơ sở. Chính phủ đã ban hành 3 nghị định bổ sung và cụ thể hóa vấn đề này là: Nghị định số 29/1998NĐ-CP Quy chế thực hiện Dân chủ ở xã (ngày 11.5.1998); Nghị định số 71/1998/NĐ-CP Quy chế thực hiện Dân chủ trong hoạt động của các cơ quan (ngày 8.9.1998); và Nghị định số 07/1999/NĐ-CP Quy chế thực hiện Dân chủ ở doanh nghiệp nhà nước (ngày 13.2.1999). Triển khai Chỉ thị 30, các Ban chỉ đạo thực hiện Quy chế Dân chủ từ Trung ương đến cơ sở đã được thành lập. Ngày 28.3.2002, Ban Bí thư Trung ương Đảng (khóa IX) đã ra Chỉ thị số 10-CT/TW về Tiếp tục đẩy mạnh việc xây dựng và thực hiện Quy chế Dân chủ ở cơ sở.
Có thể nói, Chỉ thị 30 của Bộ Chính trị là một chủ trương đúng đắn, hợp lòng dân của Đảng ta. Chỉ thị được ban hành đúng lúc, đáp ứng sự mong đợi của nhân dân nên được toàn dân hưởng ứng rộng rãi, đã nhanh chóng đi vào cuộc sống, được thực hiện trên diện rộng ở hầu khắp 3 loại hình cơ sở (xã, phường, thị trấn; cơ quan; doanh nghiệp nhà nước). Ở những nơi làm tốt việc xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở đã tạo nên sự chuyển biến đáng kể về nhận thức của các thành viên trong hệ thống chính trị cũng như của nhân dân về dân chủ, làm cho mọi người quan tâm và tham gia thực hiện tốt việc phát huy quyền làm chủ của nhân dân từ cơ sở. Theo đó, các chủ trương của Đảng và Nhà nước về phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, bảo đảm an ninh - quốc phòng được nhân dân hiểu biết rõ, hăng hái tham gia góp ý kiến và thi đua thực hiện. Phần lớn các vướng mắc giữa nhân dân và chính quyền được hòa giải, góp phần củng cố khối đại đoàn kết toàn dân, tạo không khí chan hòa, cởi mở trong cộng đồng, góp phần tạo sự ổn định chính trị, xã hội.
Xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở cũng đã góp phần tác động tích cực tới việc củng cố, đổi mới, nâng cao chất lượng của hệ thống chính trị ở cơ sở, xây dựng, chỉnh đốn Đảng và thúc đẩy việc đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, xây dựng chính quyền trong sạch, vững mạnh. Bên cạnh đó, thực hiện quy chế này cũng thúc đẩy cải cách thủ tục hành chính, cải tiến sự chỉ đạo, quản lý, điều hành của chính quyền, làm chuyển biến tác phong công tác của cán bộ, đảng viên, công chức; đổi mới phương thức, nội dung hoạt động của cả hệ thống chính trị theo hướng “trọng dân, gần dân, hiểu dân, học dân và có trách nhiệm với dân”.
Tuy nhiên, so với yêu cầu của Chỉ thị 30, những kết quả trong việc xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở những năm qua còn chưa đồng đều và vững chắc. Trên thực tế, không ít cấp ủy đảng, tổ chức, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và đoàn thể nhân dân chưa nắm vững tinh thần Chỉ thị của Đảng và các nghị định của Nhà nước về vấn đề này. Một số bộ, ngành, đoàn thể trung ương còn chậm ban hành các văn bản chỉ đạo và hướng dẫn việc thực hiện Quy chế dân chủ trong lĩnh vực, ngành, đoàn thể mình. Nhiều nơi còn tình trạng “khoán trắng” việc xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ cơ sở cho ban chỉ đạo, không có sự kiểm tra thường xuyên để có chủ trương và giải pháp đồng bộ, thiết thực nên việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở còn mang nặng tính hình thức. Tình trạng vi phạm quyền làm chủ của nhân dân vẫn còn nhiều, những biểu hiện quan liêu, tham nhũng, tiêu cực vẫn diễn ra khá phổ biến ở “một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên”... Thực trạng ấy nếu không được phát hiện và đấu tranh ngăn chặn, khắc phục kịp thời thì sẽ dẫn đến hậu quả làm giảm lòng tin, gây bất bình trong nhân dân.
Trước tình hình đó, ngày 20.4.2007, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành Pháp lệnh số 34/2007 PL-UBTVQH khóa 11 về Thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn.
Có thể nói, trước yêu cầu của công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, hội nhập kinh tế quốc tế, hơn lúc nào hết chúng ta phải tiếp tục xây dựng và hoàn thiện cơ sở pháp luật thực hiện dân chủ ở cơ sở, mở rộng dân chủ trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.
Pháp lệnh về thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn đã và đang đi vào cuộc sống, chứa đựng những giá trị lý luận, thực tiễn sâu sắc. Pháp lệnh được ban hành đã tạo ra một luồng sinh khí mới, bầu không khí dân chủ và ý thức dân chủ, ý thức chấp hành pháp luật của người dân được nâng lên rõ rệt. Tuy nhiên, việc xây dựng và thực hiện Pháp lệnh dân chủ ở xã, phường, thị trấn là công việc đòi hỏi phải được tiến hành thường xuyên, lâu dài nhưng cũng không kém phần cấp thiết trong đời sống xã hội nước ta. Do vậy, tiếp tục nghiên cứu, rút kinh nghiệm việc thực hiện, nâng cao giá trị pháp lý của Pháp lệnh về thực hiện dân chủ ở 3 loại hình cơ sở, qua đó mở rộng ra một số loại hình cơ sở khác là việc làm rất cần thiết trong giai đoạn hiện nay.
2. Quan điểm và giải pháp xây dựng và hoàn thiện cơ sở pháp luật đảm bảo dân chủ ở Việt Nam hiện nay
Thứ nhất, cần tiếp tục đẩy mạnh công tác giáo dục, tuyên truyền cho các cán bộ chủ chốt trong các cơ quan Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân về những chủ trương chỉ đạo của Đảng, Nhà nước về dân chủ nói chung và việc thực hiện dân chủ ở cơ sở nói riêng như Chỉ thị số 30 của Bộ Chính trị khóa VIII, Chỉ thị số 10 của Ban Bí thư Trung ương Đảng khóa IX, Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn...Qua đó nâng cao nhận thức cho các cán bộ, đảng viên và toàn thể nhân dân về vấn đề dân chủ và mở rộng dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Đặc biệt là mối quan hệ chặt chẽ giữa dân chủ với pháp luật trong giai đoạn hiện nay.
Thứ hai, nâng cao trình độ dân trí nói chung và những kiến thức về pháp luật nói riêng cho nhân dân. Hình thành lối sống và văn hóa pháp lý cho người dân. Bởi sẽ không có một nền văn hóa pháp lý tiến bộ, không có một nền dân chủ thực sự khi mà trong xã hội, nhân dân không có thói quen sống và làm việc theo Hiến pháp, pháp luật và thiếu hiểu biết về dân chủ.
Thứ ba, cần xây dựng hệ thống chính sách và pháp luật theo yêu cầu dân chủ. Xác định rõ quyền và nghĩa vụ của công dân trong các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội, mà trước hết là dân chủ trong các lĩnh vực kinh tế, chính trị và tư tưởng. Xây dựng hệ thống pháp luật hoàn thiện, có những quy định chặt chẽ về chống lộng quyền, chống tham nhũng đối với các cá nhân được trao quyền lực, tạo lòng tin trong nhân dân đối với Đảng và Nhà nước.
Thứ tư, thực hiện Pháp lệnh dân chủ ở cơ sở cần có sự phối hợp đồng thời, thống nhất trong hoạt động giữa Đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân nhằm tích cực xây dựng hệ thống chính trị ở cơ sở trong sạch và vững mạnh. Tiếp tục dân chủ hóa các hoạt động của Nhà nước và xã hội, thu hút và tạo điều kiện cho mọi người, mọi tầng lớp nhân dân tham gia vào công việc chung của Đảng, Nhà nước và xã hội. Tuy nhiên, việc mở rộng dân chủ phải đi liền với pháp chế, với trật tự xã hội cần thiết. Cần đảm bảo nguyên tắc pháp chế trong tổ chức và hoạt động của tất cả các cơ quan nhà nước, các tổ chức xã hội và xử sự của công dân.
Thứ năm, để việc thực hiện dân chủ có hiệu quả, cần gắn việc xây dựng và thực hiện dân chủ với việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị, phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng hệ thống chính trị, đặc biệt ở cấp cơ sở. Có chính sách động viên, khen thưởng kịp thời những địa phương, cá nhân làm tốt; đồng thời giải quyết tốt mối quan hệ giữa dân chủ và kỷ cương, kiên quyết xử lý những phần tử lợi dụng dân chủ gây mất đoàn kết nội bộ, gây rối, vi phạm pháp luật và vi phạm quyền làm chủ của nhân dân. Đây cũng là thời điểm phù hợp để nâng cấp Pháp lệnh số 34 thành Luật thực hành dân chủ ở cơ sở. Điều này sẽ tạo cơ sở pháp lý vững chắc cho việc đảm bảo dân chủ ở nước ta hiện nay.
Thứ sáu, việc xây dựng và thực hiện dân chủ ở cơ sở ở nước ta đã được thực tiễn khẳng định là một chủ trương đúng đắn, tác động tích cực tới nhiều mặt của đời sống xã hội, trực tiếp thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển, tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa Đảng, Nhà nước và Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Tuy nhiên, để thực hiện chủ trương đó ngày càng có hiệu quả hơn, mang tính bền vững và lâu dài, đòi hỏi phải có sự lãnh đạo, chỉ đạo thường xuyên của các cấp ủy, sự thực thi nghiêm túc của chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và sự tham gia tích cực, tự giác của toàn thể nhân dân.
Thứ bảy, cần tạo môi trường xã hội lành mạnh để mở rộng dân chủ, tăng cường pháp chế thông qua việc xây dựng và củng cố nhà nước pháp quyền và xã hội dân sự trên thực tế. Đảng ta nhấn mạnh: “Xây dựng một xã hội dân chủ, trong đó cán bộ, đảng viên và công chức phải thực sự là công bộc của nhân dân. Xác định các hình thức tổ chức và có cơ chế để nhân dân thực hiện quyền dân chủ trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội. Đề cao trách nhiệm của các tổ chức Đảng, Nhà nước đối với nhân dân”(11).
Tóm lại, là một bộ phận của hình thái ý thức xã hội, pháp luật có vai trò quan trọng trong việc điều chỉnh thái độ, hành vi của con người trong quá trình giải quyết các mối quan hệ xã hội cũng như khi thực hiện các nhiệm vụ chính trị trong thực tiễn. Nó là một trong những yếu tố bảo đảm quyền tự do dân chủ của nhân dân, trực tiếp điều chỉnh, bổ sung, hoàn thiện các giá trị dân chủ. Đồng thời, thông qua pháp luật và bằng pháp luật, quyền dân chủ của nhân dân được ghi nhận và bảo đảm thực hiện. Do vậy, trong giai đoạn hiện nay, muốn phát huy quyền làm chủ của nhân dân, để nhân dân tự quyết đinh lấy vận mệnh của mình thì cần phải pháp luật hóa các quyền dân chủ và việc thực hiện dân chủ phải dựa trên cơ sở của pháp luật. Hay nói cách khác là cần phải tiếp tục xây dựng và hoàn thiện cơ sở pháp luật thực hiện dân chủ ở nước ta.
__________________
Bài đăng trên Tạp chí Lý luận chính trị số 9-2020
* Bài viết là sản phẩm của đề tài cấp Bộ: “Giải quyết mối quan hệ giữa thực hành dân chủ và tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội ở Việt Nam trong điều kiện mới” do TS Nguyễn Anh Tuấn làm Chủ nhiệm, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh là cơ quan Chủ trì.
(1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, tr.698.
(2) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1987, tr.29.
(3) Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1991, tr.19.
(4), (5) Hồ Chí Minh - Nhà nước và pháp luật, Nxb Pháp lý, Hà Nội, 1985, tr.185, 187.
(6) Hiến pháp Việt Nam qua các thời kỳ, Nxb TP Hồ Chí Minh, 2005, tr.15.
(7) ĐCSVN: Văn kiện Đảng Toàn tập, t.47, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr.455.
(8), (11) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr.125, 125.
(9), (10) Các văn kiện của Đảng và Nhà nước về Quy chế dân chủ ở cơ sở, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004, tr.9, 10.
TS Tống Đức Thảo - TS Trần Văn Thắng
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
Nguồn: http://lyluanchinhtri.vn
Bài liên quan
- Hệ thống chính trị Việt Nam truyền thống và hiện đại từ góc nhìn đổi mới
- Tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả
- Giữ gìn và bảo vệ giá trị văn hóa truyền thống các dân tộc ít người, góp phần củng cố, phát triển khối đại đoàn kết toàn dân tộc
- Xu hướng hòa bình, hợp tác, phát triển trên thế giới và vai trò của Việt Nam hiện nay
- Phát huy vai trò của ngành công nghiệp xuất bản trong việc gìn giữ bản sắc văn hóa dân tộc
Xem nhiều
- 1 Video Tư liệu: Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông 30 năm xây dựng và phát triển
- 2 Giữ gìn và bảo vệ giá trị văn hóa truyền thống các dân tộc ít người, góp phần củng cố, phát triển khối đại đoàn kết toàn dân tộc
- 3 Sử dụng ChatGPT trong việc cải thiện kỹ năng viết cho sinh viên học tiếng Anh
- 4 Phát triển nguồn nhân lực ở tỉnh Bến Tre: Thực trạng và giải pháp
- 5 Lễ kỷ niệm và Hội thảo khoa học “30 năm - Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông”
- 6 Lễ kỷ niệm và Hội thảo khoa học “Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông 30 năm xây dựng và phát triển”
Liên kết
- Báo điện tử đảng cộng sản việt nam
- Báo nhân dân
- Báo Quân đội nhân dân
- Cổng thông tin điện tử Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Cổng thông tin điện tử Học viện Chính trị quốc gia hồ chí minh
- Tạp chí Cộng sản
- Tạp chí Giáo dục lý luận
- Tạp chí Giáo dục và Xã hội
- Tạp chí Khoa học xã hội và Nhân văn
- Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam
- Tạp chí Lý luận chính trị
- Tạp chí Nghiên cứu con người
- TẠP CHÍ Nghiên cứu dân tộc
- Tạp chí Người làm báo
- Tạp chí Nội chính
- Tạp chí Quản lý Nhà nước
- Tạp chí Tổ chức Nhà nước
- Tạp chí Tuyên giáo
- Tạp chí Xây Dựng Đảng
- Thư viện số Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Trang thông tin điện tử Hội đồng Lý luận Trung ương
Học viện Báo chí và Tuyên truyền tổ chức kỳ họp thứ III Hội đồng tư vấn chuẩn chương trình đào tạo trình độ đại học khối ngành Báo chí và thông tin
Chiều 25/10/2024, Học viện Báo chí và Tuyên truyền tổ chức kỳ họp thứ III Hội đồng tư vấn chuẩn chương trình đào tạo trình độ đại học khối ngành Báo chí và thông tin. Đây là phiên họp cuối cùng trong kế hoạch làm việc chung của Hội đồng để thống nhất thông qua Chuẩn chương trình đào tạo khối ngành Báo chí và thông tin, bước cuối cùng trước khi trình Bộ Giáo dục và Đào tạo xem xét, nghiệm thu theo quy định.
Hệ thống chính trị Việt Nam truyền thống và hiện đại từ góc nhìn đổi mới
Hệ thống chính trị Việt Nam truyền thống và hiện đại từ góc nhìn đổi mới
Nhìn toàn bộ tiến trình lịch sử chính trị của dân tộc, “Hệ thống chính trị” nước ta dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là một thiết chế chính trị mạnh, mô hình này phù hợp với hoàn cảnh Việt Nam và đúng với quy luật vận động của lịch sử. Và, cũng từ thực tế lịch sử, có thể thấy sức mạnh thực sự của Hệ thống chính trị mà chúng ta đang có chủ yếu không phải do tính chất nhất nguyên mà là do uy tín của Đảng, Nhà nước và lãnh tụ Hồ Chí Minh. Sức sống của hệ thống chính trị là sự phù hợp, thống nhất giữa mục đích của Đảng với nguyện vọng của nhân dân, với nhu cầu phát triển của đất nước. Hệ thống chính trị Việt Nam đương đại, trên cơ sở kết tinh các giá trị thiết chế truyền thống gắn với hiện đại không ngừng đổi mới phát triển khẳng định sức mạnh của Hệ thống tổ chức quyền lực Chính trị Việt Nam có vai trò quyết định thành công xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN.
Tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả
Tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả
Xây dựng tổ chức bộ máy hiệu lực, hiệu quả là công việc khó khăn, phức tạp, đòi hỏi sự đoàn kết, thống nhất, dũng cảm, sự hy sinh của từng cán bộ, đảng viên cùng với quyết tâm rất cao của toàn Đảng, cả hệ thống chính trị, trước hết là người đứng đầu cấp ủy, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và đoàn thể các cấp. Tạp chí Cộng sản trân trọng giới thiệu bài viết của đồng chí Tổng Bí thư Tô Lâm về xây dựng hệ thống chính trị với tiêu đề: “Tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả”:
Giữ gìn và bảo vệ giá trị văn hóa truyền thống các dân tộc ít người, góp phần củng cố, phát triển khối đại đoàn kết toàn dân tộc
Giữ gìn và bảo vệ giá trị văn hóa truyền thống các dân tộc ít người, góp phần củng cố, phát triển khối đại đoàn kết toàn dân tộc
Với cộng đồng 54 dân tộc anh em, Việt Nam là quốc gia có nền văn hóa đa dạng, phong phú, có những nét riêng, trở thành tài sản quý giá làm nên bản sắc văn hóa Việt Nam độc đáo, đặc sắc. Giữ gìn và bảo vệ các giá trị di sản văn hóa truyền thống chính là góp phần củng cố phát triển khối đại đoàn kết dân tộc - một sức mạnh nội sinh to lớn và vĩ đại, làm nên mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam, dưới lá cờ vẻ vang của Đảng.
Xu hướng hòa bình, hợp tác, phát triển trên thế giới và vai trò của Việt Nam hiện nay
Xu hướng hòa bình, hợp tác, phát triển trên thế giới và vai trò của Việt Nam hiện nay
Trong bối cảnh hiện nay sự cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn, chạy đua vũ trang, các cuộc xung đột tôn giáo, sắc tộc vẫn diễn ra ở nhiều nơi, đặc biệt là cuộc xung đột quân sự giữa Nga và Ukraina ở Đông Âu, giữa Israel và Palestine vùng các tổ chức hồi giáo ở Trung Đông diễn biến ngày càng căng thẳng đe dọa tới hòa bình, an ninh khu vực và thế giới. Tuy vậy, hòa bình, hợp tác và phát triển vẫn là mục tiêu hướng tới của các nước, là xu hướng chính trị -xã hội tất yếu của nhân loại, từ đó đặt ra vai trò, trách nhiệm của các quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam.
Bình luận