Vai trò của văn hóa chính trị đối với kiểm soát quyền lực chính trị
Văn hóa chính trị là tập hợp các giá trị, thái độ, niềm tin được cộng đồng chia sẻ và nó có thể chi phối, định hướng hoạt động của các cá nhân và tổ chức khi các chủ thể này tham gia vào đời sống chính trị.
Kiểm soát quyền lực chính trị là việc sử dụng các công cụ, phương tiện, biện pháp để tác động vào chủ thể mang quyền lực nhằm hạn chế xu hướng tha hóa quyền lực.
Văn hóa chính trị có vai trò và tác động rất lớn đến việc kiểm soát quyền lực chính trị và việc hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực chính trị.
Để kiểm soát quyền lực chính trị phải xây dựng được các thể chế, thiết chế, cơ chế kiểm soát. Văn hóa chính trị tác động đến quá trình này, từ đó góp phần vào việc thực hiện kiểm soát quyền lực chính trị. Các chủ thể của cơ chế kiểm soát quyền lực chính trị là những tổ chức và cá nhân có thẩm quyền, nghĩa là theo quy định của pháp luật, có quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm kiểm soát quyền lực chính trị. Đối tượng bị kiểm soát là các tổ chức và cá nhân nắm giữ và thực hiện quyền lực chính trị, không trừ một ai, một cơ quan nào. Văn hóa chính trị tác động vào giá trị, hành vi chính trị của các chủ thể và đối tượng của cơ chế kiểm soát quyền lực chính trị, trên cơ sở đó nâng cao hiệu quả kiểm soát quyền lực chính trị. Như vậy, sự tác động của văn hóa chính trị đến việc kiểm soát quyền lực chính trị là rất toàn diện.
1. Văn hóa chính trị tác động đến thể chế kiểm soát quyền lực chính trị
Để thực hiện hoạt động kiểm soát quyền lực chính trị phải có một thể chế pháp lý về kiểm soát quyền lực chính trị. Thể chế pháp lý này được biểu hiện trong hệ thống các văn bản pháp luật, như Hiến pháp, Bộ luật, luật, pháp lệnh, nghị quyết, quyết định, chỉ thị, thông tư... liên quan đến việc thực hiện quyền lực chính trị và kiểm soát việc thực hiện quyền lực chính trị. Đây chính là các chuẩn mực văn hóa chính trị, làm cơ sở, căn cứ để xây dựng, định hướng và xử lý việc kiểm soát quyền lực chính trị.
Thể thế pháp lý để kiểm soát quyền lực chính trị là những chuẩn mực văn hóa chính trị chính thức có tính rộng rãi, tác động và điều chỉnh các chủ thể chính trị trong quá trình giành, giữ và thực thi quyền lực chính trị. Thể chế pháp lý liên quan đến kiểm soát quyền lực chính trị là những quy định về nguyên tắc, chủ thể đối tượng, nội dung, hình thức quy trình, thủ tục các biện pháp hậu quả pháp lý của hoạt động kiểm soát quyền lực chính trị. Các thiết chế kiểm soát quyền lực chính trị là hệ thống tổ chức thực thi hoạt động kiểm soát quyền lực chính trị dựa trên thể chế liên quan đến kiểm soát quyền lực chính trị. Nếu các thể chế này không giao đủ quyền cho các thiết chế thực thi hoạt động kiểm soát quyền lực chính trị hoặc các quy định về nội dung, hình thức, thủ tục thực hiện kiểm soát quyền lực chính trị quá phức tạp thì sẽ khó thực hiện được. Nếu không quy định chặt chẽ về hậu quả pháp lý thì việc kiểm soát quyền lực chính trị cũng chỉ là hình thức, không có tác dụng ngăn ngừa những hành vi trái pháp luật, lạm quyền, lộng quyền trong sử dụng quyền lực chính trị. Đồng thời, thể chế pháp lý về kiểm soát quyền lực chính trị còn là những văn bản pháp luật liên quan đến việc thực hiện quyền lực chính trị. Nếu các quy định này chặt chẽ thì sẽ khó có kẽ hở để cho những cá nhân, tổ chức (các chủ thể chính trị) thực thi quyền lực chính trị lạm quyền, lộng quyền. Thí dụ như, quy định chặt chẽ về vấn đề nêu gương, chống chạy chức, chạy quyền, quản lý và sử dụng tài sản công, giao quyền gắn với trách nhiệm rõ ràng, minh bạch...
2. Văn hóa chính trị xác định mục tiêu của chế độ chính trị, là nền tảng trong kiểm soát quyền lực chính trị
Hoạt động quyền lực luôn gắn liền và điều chỉnh bởi mục tiêu chính trị. Thành tố quan trọng trong văn hóa chính trị xác định mục tiêu chính trị là hệ tư tưởng chính trị. Hệ tư tưởng chính trị chỉ ra mục tiêu, đường lối, chiến lược, sách lược, từ đó điều chỉnh hành vi của các chủ thể khi tham gia vào đời sống chính trị. Chỉ ra mục tiêu là cơ sở, căn cứ cho việc xác định mục đích, lợi ích đúng đắn của các chủ thể chính trị, làm cho quyền lực chính trị được thực thi đúng bản chất, hiệu quả và được tự kiểm soát.
Như tất cả các hoạt động khác của con người, hoạt động chính trị cũng là hoạt động có ý thức, hướng đích và được định hướng bởi mục tiêu. Đặc biệt, hoạt động chính trị là hoạt động liên quan đến quyền lực chính trị, ảnh hưởng đến sinh mệnh của số đông trong cộng đồng, vì vậy việc xác định mục tiêu, cũng như hoạt động đúng theo mục tiêu được xác định là điều vô cùng quan trọng, giúp cho hoạt động chính trị đúng mục đích, lý tưởng, quyền lực được thực thi một cách đúng đắn, hiệu quả trong sự kiểm soát. Chỉ khi có mục tiêu rõ ràng, đúng đắn mới có thể xác định được phương pháp hợp lý, cụ thể, trên cơ sở đó hình thành lý tưởng chính trị, bản lĩnh chính trị vững vàng, tạo thành sức mạnh giúp các chủ thể vượt qua những khó khăn, trở ngại, cám dỗ, đấu tranh với những điều sai trái, chệch hướng, xa rời mục tiêu, lý tưởng và lợi ích đúng đắn. Đó chính là cách thức kiểm soát quyền lực quan trọng và hiệu quả nhất.
Các chủ thể chính trị, chủ thể của quyền lực đồng thời cũng là các đối tượng cần kiểm soát quyền lực chính trị là các cá nhân, tổ chức trong quá trình chính trị, trước hết phải xác định đúng mục tiêu chính trị, hay nói cách khác, phải thấm nhuần và kiên định hệ tư tưởng chính trị mà họ đang theo đuổi, từ đó hình thành động cơ chính trị trong sáng, khoa học, thì quá trình thực thi quyền lực chính trị sẽ đạt hiệu quả cao và trở thành quá trình tự kiểm soát quyền lực chính trị.
Chính mục tiêu chính trị đúng đắn và rõ ràng là cơ sở để hình thành các giá trị chính trị cụ thể, chuẩn mực chính trị, từ đó điều chỉnh hành vi chính trị kiểm soát quyền lực của các chủ thể.
Hoạt động chính trị bản chất là hoạt động gắn với lợi ích. Trên cơ sở hệ tư tưởng, mục tiêu chính trị, các chủ thể chính trị sẽ xác định được lợi ích đúng đắn, phù hợp, đấu tranh với những tư tưởng, lợi ích sai trái, đi ngược lại mục tiêu chính trị của mình. Ngược lại, nếu không xác định được mục tiêu chính trị và không kiên định mục tiêu chính trị sẽ dẫn đến chệch hướng, hoang mang, dao động, làm cho quá trình thực thi quyền lực không những kém hiệu quả, mà còn dễ dẫn đến tình trạng tha hóa, biến chất, lạm quyền, lộng quyền, vì những mục tiêu, mục đích sai trái, mất kiểm soát.
Có thể nói, không xác định và không kiên định hệ tư tưởng chính trị, hoặc xa rời mục tiêu chính là nguyên nhân cơ bản dẫn đến tình trạng mất kiểm soát quyền lực chính trị, là loại địch từ bên trong, không chỉ nguy hại với chính chủ thể chính trị đó, mà còn đe dọa đến sự an nguy của chế độ, như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng khẳng định: “Địch bên ngoài không đáng sợ. Địch bên trong đáng sợ hơn, vì nó phá hoại từ trong phá ra”(1).
3. Văn hóa chính trị định hướng giá trị cho quá trình thực thi quyền lực chính trị, từ đó góp phần vào việc kiểm soát quyền lực chính trị
Văn hóa chính trị là những giá trị, lý tưởng cao đẹp mà con người hướng tới trong hoạt động chính trị. Các giá trị ấy định hướng quá trình thực thi quyền lực của các chủ thể chính trị, bao gồm các cá nhân và tổ chức.
Giá trị văn hóa chính trị định hướng cho quá trình cầm quyền và kiểm soát quyền lực của Đảng.
Cơ chế kiểm soát quyền lực trong đảng, xét theo nghĩa rộng là việc thiết kế, tổ chức và thực thi quyền lực trong đảng sao cho đúng mục đích, hiệu quả nhất. Việc tổ chức và thức thi quyền lực trong đảng, cũng như cơ chế kiểm soát quyền lực, phải tuân theo các nguyên tắc nhất định: lý tưởng, mục tiêu bản chất của Đảng ta, nguyên tắc tập trung dân chủ, quyền lãnh đạo của Đảng là toàn diện, tuyệt đối, nguyên tắc công khai, minh bạch, nguyên tắc thượng tôn Hiến pháp, pháp luật... Xét theo nghĩa hẹp, cơ chế kiểm soát quyền lực trong Đảng là toàn bộ những cách thức, quy trình, quy định mà dựa vào đó Đảng (và xã hội) có thể can thiệp để giữ cho quyền lực trong Đảng được thực thi đúng mục đích, hiệu quả. Giá trị của văn hóa chính trị tham gia vào định hình và điều chỉnh các phương thức kiểm soát đó. Trong đó, giá trị cốt lõi, mục tiêu là căn cứ xuyên suốt để xây dựng và kiểm soát quyền lực của Đảng. Từ đó, các giá trị chính trị cụ thể, được cụ thể hóa thành các chuẩn mực sẽ điều chỉnh và là phương thức kiểm soát quyền lực với Đảng thông qua các chủ thể là đảng viên và tổ chức của Đảng.
Với tư cách là cơ quan cầm quyền, cơ quan lãnh đạo, có thể thấy mỗi đường lối, quyết sách sách của Đảng phải mang một giá trị văn hóa định hướng với toàn hệ thống chính trị và xã hội. Theo đó, tính giá trị của văn hóa chính trị được thấm đẫm trong đường lối, quyết sách và hoạt động của Đảng để ngang tầm với vị thế tiên phong lãnh đạo là một phương thức kiểm soát quyền lực tự thân của Đảng. Nếu các giá trị văn hóa không được xác lập và định hướng trong hoạt động cầm quyền thì Đảng sẽ không thể thực hiện được vai trò lãnh đạo, dẫn dắt trong quá trình thực thi quyền lực.
Giá trị văn hóa chính trị định hướng, dẫn dắt quá trình thực thi quyền lực của Nhà nước.
Trong hệ thống chính trị, hoạt động của Nhà nước là trung tâm của hoạt động chính trị. Thực thi quyền lực nhà nước với 3 quyền cơ bản là lập pháp, hành pháp, tư pháp chính là những hoạt động chính trị cốt lõi. Sự tác động của văn hóa chính trị đến quá trình thực thi quyền lực nhà nước thể hiện ở các khía cạnh sau:
Thứ nhất, văn hóa chính trị định hướng cho hoạt động lập pháp của Nhà nước phải vì lợi ích của nhân dân. Quốc hội là cơ quan thực hiện quyền lập pháp của Nhà nước. Giá trị văn hóa chính trị định hướng cho quá trình xây dựng pháp luật, chính sách của Nhà nước ta như Đảng ta khẳng định đó là phải phục vụ lợi ích nhân dân “tiếp tục phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Mọi đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đều xuất phát từ nguyện vọng, quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân, được Nhân dân tham gia ý kiến”(2). Vai trò của văn hóa chính trị ở đây chính là những giá trị văn hóa chính trị phục vụ nhân dân, chi phối hoạt động chính trị (xây dựng pháp luật, chính sách của nhà nước) của các chủ thể soạn thảo và thông qua pháp luật sẽ tạo ra cơ chế ngăn ngừa từ bên trong đối với những hoạt động tha hóa, nhũng lạm trong quá trình này, bảo đảm pháp luật phản ánh ý chí, nguyện vọng, lợi ích của nhân dân.
Thứ hai, văn hóa chính trị định hướng cho hoạt động hành pháp của Nhà nước phục vụ lợi ích của nhân dân. Quyền hành pháp là quyền thực thi pháp luật và tổ chức đời sống theo pháp luật, bao gồm quyền lập quy và quyền hành chính. Trên thực tế, quyền hành pháp quản lý nguồn lực quốc gia, ngân sách, tài nguyên thiên nhiên, nguồn nhân lực, đội ngũ cán bộ, công chức, cung cấp dịch vụ công... Tuy nhiên, quyền này cũng đang chứa đựng những nguy cơ có thể bị những cá nhân, tổ chức có trách nhiệm thực thi quyền hành pháp lợi dụng để phục vụ lợi ích cá nhân mà xâm phạm đến lợi ích của nhân dân. Quyền lập quy là quyền ban hành các văn bản dưới luật để đưa các đạo luật vào cuộc sống. Thực tiễn những năm gần đây cho thấy, “khoảng 12% số văn bản được kiểm tra do cơ quan chức năng ban hành đã bị phát hiện có dấu hiệu trái luật”(3). Quyền hành pháp còn là quyền tổ chức, điều hành các hoạt động kinh tế - xã hội, cung cấp các dịch vụ hành chính công thiết yếu cho người dân. Do đó, quyền hành chính tác động rất lớn đến cuộc sống và các hoạt động kinh tế, xã hội của người dân. Do đó, các chủ thể thực thi quyền hành chính này có thể gây khó dễ, chậm trễ trong việc cung cấp các dịch vụ công ảnh hưởng đến cuộc sống và các hoạt động của người dân sẽ khiến một số công dân chấp nhận bỏ thêm “chi phí” để có được sự nhanh chóng, thuận tiện, từ đó quyền hành chính không hướng tới phục vụ nhân dân mà mang lại lợi ích cho người thực thi quyền lực. Tuy nhiên, khi các hoạt động hành pháp này được sự định hướng của các giá trị văn hóa chính trị sẽ ngăn chặn được các hoạt động lợi dụng quyền hành pháp để mưu lợi riêng bảo đảm cho hoạt động hành pháp hướng tới phục vụ nhân dân. Ở Việt Nam, Chính phủ Việt Nam đã và đang thể hiện quyết tâm chính trị cao độ, hướng tới xây dựng một chính phủ kiến tạo, liêm chính, hành động, vì nhân dân phục vụ(4). Thời gian qua, Nhà nước ta đang đẩy mạnh cải cách hành chính để xây dựng một nền hành chính phục vụ nhân dân tốt hơn như đơn giản hóa thủ tục hành chính tạo thuận tiện cho người dân; cán bộ, công chức có thái độ phục vụ nhân dân, không sách nhiễu nhân dân trong quá trình thực thi công vụ. Như vậy, giá trị chi phối, định hướng cho hoạt động hành pháp ở nước ta cũng chính là phục vụ lợi ích của nhân dân. Khi các giá trị văn hóa chính trị này chi phối suy nghĩ và hành động của các chủ thể thực thi quyền hành pháp sẽ bảo đảm cho quyền hành pháp được thực thi đúng mục đích, đó là cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước từ bên trong.
Thứ ba, văn hóa chính trị định hướng cho hoạt động tư pháp của Nhà nước phục vụ lợi ích của nhân dân. Theo Hiến pháp Việt Nam năm 2013, tòa án là cơ quan duy nhất thực hiện quyền tư pháp, thực hiện chức năng xét xử; là cơ quan duy nhất có quyền ra phán quyết về các vi phạm pháp luật, các tranh chấp theo quy định của pháp luật và về các vấn đề pháp lý liên quan đến quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Như vậy, quyền tư pháp có vai trò quan trọng trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân, tránh sự xâm phạm từ các cá nhân, tổ chức khác, kể cả sự xâm phạm từ cán bộ và cơ quan nhà nước. Giá trị văn hóa chính trị định hướng cho việc thực hiện quyền tư pháp của Nhà nước ta được khẳng định trong Nghị quyết số 49- NQ/TW ngày 2.6.2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020: xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bước hiện đại, phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc Việt Nam XHCN; hoạt động tư pháp mà trọng tâm là hoạt động xét xử được tiến hành có hiệu quả và hiệu lực cao. Khi những giá trị văn hóa chính trị đó thấm sâu vào các chủ thể thực hiện quyền tư pháp sẽ làm cho quyền tư pháp thực hiện đúng mục đích, phục vụ lợi ích của nhân dân, của đất nước, bảo vệ pháp luật (ý chí, nguyện vọng của nhân dân). Như vậy, các giá trị văn hóa chính trị định hướng cho hoạt động thực hiện quyền tư pháp theo đúng mục đích đặt ra, điều này cũng là mục tiêu của công tác kiểm soát quyền tư pháp.
Các giá trị văn hóa chính trị cũng góp phần định hướng hoạt động thực thi quyền lực của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội. Mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã hội có vai trò rất quan trọng trong việc động viên, tập hợp các tầng lớp nhân dân, đoàn kết toàn dân, tăng cường sự nhất trí về chính trị và tinh thần trong nhân dân, tham gia xây dựng và củng cố chính quyền nhân dân, cùng Nhà nước chăm lo và bảo vệ lợi ích chính đáng của nhân dân, động viên nhân dân thực hiện quyền làm chủ, nghiêm chỉnh thi hành Hiến pháp và pháp luật, giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, đại biểu dân cử và cán bộ, viên chức nhà nước. Các giá trị văn hóa chính trị góp phần phát huy truyền thống lịch sử của Mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã hội trong quá trình thực thi quyền lực, cũng như giúp cho các tổ chức này xác định vị trí, mục tiêu chính trị, kiểm soát hoạt động và đẩy mạnh sức mạnh của mình, nâng cao vai trò, hiệu quả hoạt động, cũng như khả năng kiểm soát quyền lực chính trị.
4. Văn hóa chính trị tác động đến năng lực, ý thức của chủ thể tham gia kiểm soát quyền lực chính trị và đối tượng kiểm soát quyền lực chính trị
Thể chế pháp lý về kiểm soát quyền lực chính trị có hoàn thiện đến đâu nhưng chủ thể tham gia kiểm soát quyền lực chính trị không có văn hóa chính trị, không có đủ năng lực và tính tích cực trong thực hiện quyền kiểm soát quyền lực đã được pháp luật quy định thì hoạt động kiểm soát quyền lực chính trị trên thực tế sẽ không diễn ra hoặc diễn ra không hiệu quả. Do đó, văn hóa chính trị của các chủ thể tham gia kiểm soát quyền lực chính trị tác động rất lớn, thậm chí quyết định đến hiệu quả kiểm soát quyền lực chính trị. Đồng thời, văn hóa chính trị của đối tượng kiểm soát quyền lực chính trị (cá nhân, tổ chức thực thi quyền lực chính trị) cũng ảnh hưởng đến tính hiệu quả của hoạt động kiểm soát quyền lực chính trị.
Chủ thể tham gia kiểm soát quyền lực chính trị bên trong hệ thống chính trị như Đảng, Nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội. Chủ thể tham gia kiểm soát quyền lực bên ngoài bao gồm: các cơ quan bên ngoài (ví dụ: Nhà nước chịu sự kiểm soát của Đảng, giám sát của Mặt trận và các đoàn thể chính trị - xã hội), những người công tác chuyên trách và hội viên của Mặt trận Tổ quốc, Công đoàn, Hội Nông dân, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp phụ nữ, Hội Cựu chiến binh, thành viên tham gia các tổ chức xã hội, nghề nghiệp, thanh tra nhân dân, phương tiện truyền thông, cơ quan báo chí và những người dân cụ thể. Văn hóa chính trị trang bị những tri thức, năng lực cần thiết cho hoạt động chính trị, giúp các chủ thể hiểu biết về phương thức tổ chức và vận hành của quyền lực chính trị, qua đó mỗi cá nhân ý thức rõ hơn vai trò cũng như nghĩa vụ và bổn phận của mình trong hệ thống tổ chức quyền lực chính trị, giúp họ nhận thức rõ trách nhiệm tham gia kiểm soát quyền lực chính trị của mình cũng như biết rõ thầm quyền, trình tự, thủ tục kiểm soát quyền lực để họ tham gia kiểm soát quyền lực chính trị đúng luật định. Văn hóa chính trị của các chủ thể tham gia kiểm soát quyền lực chính trị bao gồm tri thức chính trị, kinh nghiệm chính trị, năng lực hoạt động chính trị giúp các chủ thể này có năng lực để thực hiện các hoạt động kiểm soát quyền lực chính trị có hiệu quả. Chủ thể tham gia kiểm soát quyền lực chính trị phải có tri thức, hiểu biết chính trị để phân tích, đánh giá mới lựa chọn được người có đủ năng lực, phẩm chất để họ “chọn mặt gửi vàng”. Chủ thể tham gia kiểm soát quyền lực chính trị phải có tri thức, kinh nghiệm chính trị mới phát hiện ra những quy định pháp luật bất hợp lý là sự cài cắm lợi ích của những người soạn thảo luật hoặc những quy định pháp luật sẽ cản trở việc bảo đảm quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân để có những đóng góp loại bỏ các quy định đó cũng như có khả năng đề xuất các quy định pháp luật hợp lý hơn.
Các chủ thể tham gia kiểm soát quyền lực chính trị phải có tri thức, kinh nghiệm chính trị để phát hiện ra những hoạt động trái pháp luật trong thực thi quyền lực chính trị để có cảnh báo, đưa ra những hậu quả pháp lý để ngăn chặn những hành vi đó. Do đó, nếu không có văn hóa chính trị thì các chủ thể tham gia kiểm soát quyền lực không biết quyền và cách thức tham gia kiểm soát quyền lực chính trị, hoạt động kiểm soát quyền lực chính trị của họ có diễn ra cũng không hiệu quả.
Hơn nữa, nếu các chủ thể thực hiện kiểm soát quyền lực chính trị không có lý tưởng chính trị là xây dựng một chế độ phục vụ lợi ích nhân dân định hướng cho hoạt động của họ, thậm chí họ còn muốn lợi dụng hoạt động kiểm soát quyền lực chính trị để tranh giành địa vị, đưa ra những ý kiến thiếu tính xây dựng, làm cho hoạt động kiểm soát quyền lực chính trị không đúng mục đích là để nâng cao hiệu lực, hiệu quả thực thi quyền lực chính trị. Nếu không có văn hóa chính trị, thậm chí các chủ thể sẽ không thực hiện quyền kiểm soát quyền lực chính trị của mình đã được pháp luật trao cho. Văn hóa chính trị còn là tình cảm, niềm tin, lý tưởng chính trị quyết định đến ý thức, thái độ, tính tích cực chính trị của các chủ thể thực hiện kiểm soát quyền lực chính trị. Nếu các chủ thể này có văn hóa chính trị cao, có mong muốn, quyết tâm xây dựng một chế độ chính trị của dân, do dân, vì dân, có tinh thần vì lợi ích chung họ sẽ tích cực tham gia vào các hoạt động kiểm soát quyền lực chính trị để thực hiện các giá trị, lý tưởng chính trị đó.
Như vậy, sự tác động của văn hóa chính trị đến hoạt động kiểm soát quyền lực chính trị là rất lớn, từ xây dựng thể chế pháp lý đến tổ chức thực hiện hoạt động kiểm soát quyền lực chính trị. Văn hóa chính trị không chỉ tác động đến hoạt động kiểm soát quyền lực chính trị từ bên ngoài mà còn tác động đến cơ chế tự kiểm soát (kiểm soát từ bên trong) quyền lực chính trị của các chủ thể thực thi quyền lực chính trị. Văn hóa chính trị tồn tại trong từng chủ thể chính trị cụ thể, trong thể chế pháp lý về kiểm soát quyền lực chính trị, tác động đến tính hiệu quả của hoạt động kiểm soát quyền lực chính trị. Từ sự tác động mạnh mẽ của văn hóa chính trị đối với hoạt động kiểm soát quyền lực chính trị chúng ta thấy để nâng cao hiệu quả kiểm soát quyền lực chính trị cần chú ý nâng cao văn hóa chính trị của các đối tượng này (văn hóa chính trị của các nhà chính trị và của người dân).
_________________________________
(1) Hồ Chí Minh: Toàn tập (2011), Nxb. CTQG, H., T.5, tr.278.
(2) ĐCSVN (2016): Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, tr.169.
(3) Nguyễn Bá Chiến, Bùi Huy Tùng: Bàn về kiểm soát quyền lực nhà nước với việc sửa đổi Hiến pháp năm 1992, Tạp chí Quản lý nhà nước, số 8 năm 2012
(4) Nguyễn Thị Phượng: Chính phủ liêm chính và kiến tạo từ lý thuyết tới thực tiễn, http://noichinh.vn, ngày 1.2.2017.
Nguồn: Bài đăng trên Tạp chí Lý luận chính trị điện tử ngày 24.02.2021
Bài liên quan
- Những đóng góp của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng trong công tác xây dựng Đảng
- Nâng cao tính chính đáng cầm quyền của Đảng trong giai đoạn hiện nay
- Vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam trong đổi mới quản trị quốc gia theo hướng hiện đại, hiệu quả
- Từ chân lý “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” của Chủ tịch Hồ Chí Minh đến khát vọng xây dựng nước Việt Nam phát triển phồn vinh, hạnh phúc hiện nay
- Một số vấn đề về nhận diện bản chất của chủ nghĩa tư bản trong thời đại mới, góp phần củng cố vững chắc định hướng đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay
Xem nhiều
- 1 Video Tư liệu: Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông 30 năm xây dựng và phát triển
- 2 Sử dụng công nghệ trí tuệ nhân tạo trong sản xuất chương trình truyền hình
- 3 Giữ gìn và bảo vệ giá trị văn hóa truyền thống các dân tộc ít người, góp phần củng cố, phát triển khối đại đoàn kết toàn dân tộc
- 4 Phát triển nguồn nhân lực ở tỉnh Bến Tre: Thực trạng và giải pháp
- 5 Sử dụng ChatGPT trong việc cải thiện kỹ năng viết cho sinh viên học tiếng Anh
- 6 Lễ kỷ niệm và Hội thảo khoa học “30 năm - Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông”
Liên kết
- Báo điện tử đảng cộng sản việt nam
- Báo nhân dân
- Báo Quân đội nhân dân
- Cổng thông tin điện tử Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Cổng thông tin điện tử Học viện Chính trị quốc gia hồ chí minh
- Tạp chí Cộng sản
- Tạp chí Giáo dục lý luận
- Tạp chí Giáo dục và Xã hội
- Tạp chí Khoa học xã hội và Nhân văn
- Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam
- Tạp chí Lý luận chính trị
- Tạp chí Nghiên cứu con người
- TẠP CHÍ Nghiên cứu dân tộc
- Tạp chí Người làm báo
- Tạp chí Nội chính
- Tạp chí Quản lý Nhà nước
- Tạp chí Tổ chức Nhà nước
- Tạp chí Tuyên giáo
- Tạp chí Xây Dựng Đảng
- Thư viện số Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Trang thông tin điện tử Hội đồng Lý luận Trung ương
Ảnh hưởng của truyền thông xã hội đến hoạt động báo chí
Bài viết nghiên cứu về tác động của truyền thông xã hội đối với hoạt động báo chí hiện nay, tập trung vào sự thay đổi trong hoạt động sản xuất, phân phối tin tức và cấu trúc nội dung báo chí. Truyền thông xã hội đã trở thành một nguồn tin phong phú, đa chiều và nhanh chóng, làm thay đổi đáng kể cách thức thu thập và truyền tải thông tin. Tuy nhiên, tính xác thực của nguồn tin mạng xã hội vẫn là một thách thức, đòi hỏi báo chí phải chú trọng vào việc kiểm chứng và phản hồi thông tin một cách chính xác. Trên tinh thần đó, bài viết đề xuất báo chí cần phát triển nội dung chất lượng cao, tăng cường kỹ năng công nghệ số của phóng viên và xây dựng các nền tảng số riêng để giảm sự phụ thuộc vào truyền thông xã hội, đảm bảo tính chính xác và đáng tin cậy trong kỷ nguyên số.
Những đóng góp của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng trong công tác xây dựng Đảng
Những đóng góp của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng trong công tác xây dựng Đảng
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã có những đóng góp to lớn đối với Đảng, với Tổ quốc, với Nhân dân. Đối với công tác xây dựng Đảng, Đồng chí giữ vai trò là ngọn cờ lý luận, là người truyền cảm hứng, là nhà lãnh đạo xuất sắc trong thực hành công tác xây dựng Đảng, là người cộng sản mẫu mực, là tấm gương sáng ngời cho cán bộ, đảng viên học tập, rèn luyện.
Nâng cao tính chính đáng cầm quyền của Đảng trong giai đoạn hiện nay
Nâng cao tính chính đáng cầm quyền của Đảng trong giai đoạn hiện nay
Trong quá trình thực thi quyền lực chính trị, tính chính đáng cầm quyền có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Tính chính đáng được xây dựng dựa trên cơ sở niềm tin của người dân đối với chủ thể cầm quyền, là sự thừa nhận rằng, chủ thể đó xứng đáng được cầm quyền. Nếu chủ thể cầm quyền có tính chính đáng cao, khi đưa ra các quyết định, các mệnh lệnh, mức độ chấp hành của người dân cũng cao. Điều này quy định tính hiệu quả của việc thực thi quyền lực.
Vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam trong đổi mới quản trị quốc gia theo hướng hiện đại, hiệu quả
Vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam trong đổi mới quản trị quốc gia theo hướng hiện đại, hiệu quả
Đổi mới quản trị quốc gia theo hướng hiện đại, hiệu quả là một chủ trương mới, được đưa ra trong Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, năm 2021. Tuy nhiên, nội dung, phương thức, bản chất của quản trị quốc gia là vấn đề còn khá mới mẻ và có nhiều ý kiến khác nhau. Mặt khác, vị trí, vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam trong quản trị quốc gia như thế nào? Bài viết góp phần thảo luận và phân tích, làm rõ những nội dung liên quan đến những vấn đề đó.
Từ chân lý “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” của Chủ tịch Hồ Chí Minh đến khát vọng xây dựng nước Việt Nam phát triển phồn vinh, hạnh phúc hiện nay
Từ chân lý “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” của Chủ tịch Hồ Chí Minh đến khát vọng xây dựng nước Việt Nam phát triển phồn vinh, hạnh phúc hiện nay
Chân lý “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” của Chủ tịch Hồ Chí Minh được Đảng ta kế thừa, vận dụng xuyên suốt quá trình lãnh đạo cách mạng. Trong bối cảnh mới hiện nay, nhiệm vụ tiếp tục quán triệt giá trị chân lý trên có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với công cuộc đổi mới đất nước, góp phần hiện thực hóa mục tiêu xây dựng nước Việt Nam phát triển phồn vinh, hạnh phúc.
Bình luận