Xây dựng "thế trận lòng dân" bảo vệ Tổ quốc theo tinh thần Đại hội XIII của Đảng
1. Xây dựng “thế trận lòng dân” bảo vệ Tổ quốc là sự kế thừa truyền thống, bài học từ lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc; là sự phát triển sáng tạo và quan điểm xuyên suốt, nhất quán của Đảng ta
Trong lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam cho thấy: Khi “lòng dân thuận” thì nước mạnh, “lòng dân ly tán” thì nước yếu. Vì vậy, bài học hàng đầu mà ông cha ta đúc kết là “việc nhân nghĩa cốt ở yên dân” và “khoan thư sức dân để làm kế sâu rễ, bền gốc là thượng sách giữ nước”… Sự mất hay còn của nền độc lập dân tộc, sự hưng thịnh hay suy vong của các triều đại hầu hết đều do yếu tố “lòng dân” được nhận thức đúng, được quan tâm, chăm lo xây dựng hay bị coi nhẹ, xem thường thông qua thực thi các chính sách.
Thực tiễn lịch sử cho thấy, triều đại phong kiến nào chú trọng việc “quy tụ lòng người”, biểu thị được nguyện vọng, ý chí và tình cảm thống nhất mạnh mẽ của cả dân tộc và nêu cao tư tưởng “trọng dân”, “an dân”, “nước lấy dân làm gốc”, “chúng chí thành thành”… thì quy tụ được lòng dân, tạo dựng được “thế trận lòng dân” vững chắc để đánh bại những kẻ thù xâm lược, giữ yên bờ cõi, bảo vệ độc lập dân tộc. Bên cạnh đó, dù có thành cao, hào sâu và “nỏ thần” lợi hại như thời An Dương Vương hoặc quân đội hùng hậu, thành lũy kiên cố thời nhà Hồ, nhưng do không giữ được lòng dân, không có mối quan hệ mật thiết với nhân dân, là nguyên nhân căn bản dẫn đến thất bại.
Đảng Cộng sản Việt Nam từ khi ra đời đến nay luôn đứng vững trên lập trường, quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Nhìn lại lịch sử dân tộc và yêu cầu nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam qua các thời kỳ, chúng ta thấy rõ sự khẳng định, phát triển của Đảng ta về xây dựng “thế trận lòng dân” là hoàn toàn đúng đắn, xuất phát từ cơ sở lý luận và thực tiễn.
Chủ nghĩa Mác - Lênin luôn khẳng định, quần chúng nhân dân là chủ nhân chân chính của lịch sử, cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân “không phải chế độ nhà nước tạo ra nhân dân mà nhân dân tạo ra chế độ nhà nước”(1) và “Không có sự đồng tình ủng hộ của đại đa số nhân dân lao động đối với đội tiền phong của mình tức là đối với giai cấp vô sản, thì cách mạng vô sản không thể thực hiện được…”(2).
Quán triệt quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về vai trò của quần chúng nhân dân, kế thừa bài học lịch sử, trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta luôn đặc biệt coi trọng yếu tố “lòng dân”, lấy việc xây dựng và phát huy khối đại đoàn kết toàn dân tộc làm động lực chủ yếu để tạo nên sức mạnh tổng hợp cho công cuộc giải phóng, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Người khẳng định: Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Người luôn nhấn mạnh, yếu tố quyết định sự thành công của cách mạng là sự đồng sức, đồng lòng của toàn dân, là sự đoàn kết “muôn người như một” dưới sự lãnh đạo của Đảng: “Ở trong xã hội, muốn thành công phải có ba điều kiện là thiên thời, địa lợi và nhân hòa. Ba điều kiện ấy đều quan trọng cả. Nhưng thiên thời không quan trọng bằng địa lợi, mà địa lợi không quan trọng bằng nhân hòa. Nhân hòa là thế nào? Nhân hòa là tất cả mọi người đều nhất trí”(3).
Xây dựng “thế trận lòng dân”trong các giai đoạn từ khi Đảng ra đời đến trước đổi mới. Đảng ta đã lãnh đạo giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, thực hiện chính sách đoàn kết dân tộc rộng rãi, có chính sách phù hợp với quyền lợi của các giai cấp, các tầng lớp nhân dân; tạo nên sự đồng thuận, gắn bó chặt chẽ giữa Đảng với nhân dân, là cơ sở để huy động nhân lực, vật lực, tăng cường sức mạnh thế trận chiến tranh nhân dân. Tinh thần yêu nước, khát vọng độc lập tự do, ý chí tự lực, tự cường, niềm tự hào dân tộc của nhân dân ta được phát huy cao độ. Qua đó, Đảng ta đã tạo ra sự đồng thuận trong toàn dân, giữa Đảng với nhân dân để thực hiện nhiệm vụ giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN, đem lại cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho nhân dân và giữ vững thành quả cách mạng.
Chính việc tạo nên “thế trận lòng dân” vững chắc, phát huy được sức mạnh tổng hợp của mọi lực lượng cả trong nước và quốc tế, Đảng ta đã lãnh đạo toàn dân tộc tiến hành thắng lợi cuộc Tổng khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền vào tháng 8 năm 1945; làm nên chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”; chiến thắng lịch sử ngày 30.4.1975, kết thúc 21 năm kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước, mở ra kỷ nguyên mới, cả nước đi lên CNXH và bảo vệ vững chắc chủ quyền biên giới thiêng liêng của Tổ quốc.
Xây dựng “thế trận lòng dân” trong thời kỳ đổi mới. Trên cơ sở kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, nhận thức và đánh giá đúng tình hình thực tiễn, qua các kỳ đại hội, Đảng đã đề ra, kiên trì thực hiện đường lối đổi mới toàn diện đất nước. Những chủ trương, quan điểm đúng đắn của Đảng về xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc đã thu hút ngày càng đông đảo quần chúng tham gia vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, phát huy sức mạnh đại đoàn kết dân tộc, động viên các tầng lớp nhân dân, các dân tộc, tôn giáo, người Việt Nam định cư ở nước ngoài đoàn kết chặt chẽ tạo thành thế trận vững chắc.
Niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng được củng cố, sự đồng thuận trong các tầng lớp nhân dân về con đường đi lên CNXH được tăng cường, đó là những điều kiện thuận lợi để củng cố “thế trận lòng dân” trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Những thành tựu của đất nước qua hơn 35 năm đổi mới cả về kinh tế, chính trị, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại, nhất là vị thế, uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế ngày càng được nâng cao đã cho thấy rõ điều đó.
Cho đến trước Đại hội X của Đảng, trong các văn kiện chính thức, Đảng ta chưa sử dụng thuật ngữ “thế trận lòng dân”, nhưng tư tưởng “dựa vào dân”, lấy “dân làm gốc”, “đoàn kết toàn dân để tạo sức mạnh tổng hợp” luôn nhất quán, xuyên suốt trong đường lối quân sự, quốc phòng của Đảng.
Tại Đại hội X, lần đầu tiên thuật ngữ “thế trận lòng dân” được Đảng ta sử dụng khi nhấn mạnh nhiệm vụ: “Xây dựng thế trận lòng dân làm nền tảng phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc”(4).
Đại hội XI của Đảng chỉ rõ: “Xây dựng “thế trận lòng dân” vững chắc trong thực hiện Chiến lược bảo vệ Tổ quốc”(5). Tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 8 khóa IX về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc, Đảng ta tiếp tục khẳng định phương châm giữ nước là phải chăm lo xây dựng cho “kinh tế phải vững, quốc phòng phải mạnh, thực lực phải cường, lòng dân phải yên, chính trị - xã hội ổn định, cả dân tộc là một khối thống nhất”(6). Trong đó, Trung ương đặc biệt nhấn mạnh đến yêu cầu về không ngừng củng cố, tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc.
Đại hội XII của Đảng một lần nữa nhấn mạnh nhiệm vụ: “Xây dựng thế trận lòng dân, tạo nền tảng vững chắc xây dựng nền quốc phòng toàn dân và nền an ninh nhân dân”(7).
Khẳng định vai trò, vị trí, tầm quan trọng có tính cốt tử của “lòng dân” và “thế trận lòng dân”, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng chỉ rõ: “Làm hợp lòng dân thì dân tin và chế độ ta còn, Đảng ta còn. Ngược lại, nếu làm cái gì trái lòng dân, để mất niềm tin là mất tất cả”(8). Đồng thời, nhấn mạnh: “trong mọi công việc của Đảng và Nhà nước, luôn xác định “dân là gốc”, thật sự tin tưởng, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân; kiên trì thực hiện đúng nguyên tắc: “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”. Nhân dân là trung tâm, là chủ thể của công cuộc đổi mới; mọi chủ trương, chính sách phải thực sự xuất phát từ nguyện vọng, quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân”(9).
2. Những vấn đề cơ bản về xây dựng “thế trận lòng dân” bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa theo tinh thần Đại hội XIII của Đảng
Một là, xây dựng “thế trận lòng dân” được đặt trong quan điểm nhất quán “dân là gốc”, nhân dân là chủ thể, là trung tâm của nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
Bài học sâu sắc nhất mà Đảng ta rút ra từ thực tiễn cách mạng là huy động, tập hợp được đông đảo quần chúng nhân dân, nhân dân thực sự là trung tâm của mọi quan điểm, đường lối lãnh đạo. Tư tưởng dựa vào dân, lấy dân làm gốc, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc luôn nhất quán, xuyên suốt trong đường lối quân sự, quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc. Đại hội VI của Đảng xác định “trong toàn bộ hoạt động của mình, Đảng phải quán triệt tư tưởng lấy dân làm gốc”.
Đại hội VII và Đại hội VIII, bài học “lấy dân làm gốc” tiếp tục được Đảng ta khẳng định, Đại hội IX chỉ rõ “đổi mới phải dựa vào nhân dân, vì lợi ích của nhân dân”… đến Đại hội XII, tư tưởng “dân là gốc” tiếp tục được khẳng định, trở thành một trong 5 bài học được Đảng ta đúc kết: “đổi mới phải luôn luôn quán triệt quan điểm “dân là gốc”, vì lợi ích của nhân dân, dựa vào nhân dân, phát huy vai trò làm chủ, tinh thần trách nhiệm, sức sáng tạo và mọi nguồn lực của nhân dân; phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc”(10).
Phát triển tư tưởng “dân làm gốc”, Đại hội XIII của Đảng tiếp tục đặt xây dựng “thế trận lòng dân” trong quan hệ nhất quán với tư tưởng phát huy vai trò của nhân dân, nhân dân là chủ thể của công cuộc đổi mới, của nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Từ thực tiễn công cuộc đổi mới, Đại hội XIII xác định: “trong mọi công việc của Đảng và Nhà nước, phải luôn quán triệt sâu sắc quan điểm “dân là gốc”; thật sự tin tưởng, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, kiên trì thực hiện phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”. Nhân dân là trung tâm, là chủ thể của công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”(11).
Như vậy, quan điểm xây dựng “thế trận lòng dân” theo tinh thần Đại hội XIII của Đảng là thống nhất và kế thừa quan điểm “dân là gốc”. Cuộc sống, nguyện vọng, lợi ích chính đáng của nhân dân, hạnh phúc ấm no của nhân dân là cơ sở xây dựng “thế trận lòng dân” vững chắc. Ở chiều ngược lại, xây dựng “thế trận lòng dân” vững chắc là điều kiện bảo đảm thắng lợi của nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, nhân dân thực sự là chủ thể, là trung tâm của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Hai là, đặt xây dựng và phát huy mạnh mẽ “thế trận lòng dân” trong nền quốc phòng toàn dân và nền an ninh nhân dân vững chắc làm nền tảng cho sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc
Nhất quán quan điểm về xây dựng “thế trận lòng dân” trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Đại hội XIII tiếp tục khẳng định và nâng tầm quan điểm về “thế trận lòng dân”, đặt vấn đề xây dựng “thế trận lòng dân” trong tính chỉnh thể với xây dựng nền quốc phòng toàn dân, nền an ninh nhân dân.
Đại hội XII xác định: “xây dựng “thế trận lòng dân”, tạo nền tảng vững chắc xây dựng nền quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân”(12), tới Đại hội XIII đã có sự bổ sung, phát triển khi khẳng định, xây dựng “thế trận lòng dân” ngay trong xây dựng nền quốc phòng toàn dân, nền an ninh nhân dân: “xây dựng “thế trận lòng dân”, thế trận quốc phòng toàn dân và thế trận an ninh nhân dânvững chắc làm nền tảng cho sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc”(13).
Có thể thấy rằng, việc xác định “xây dựng và phát huy mạnh mẽ “thế trận lòng dân” trong nền quốc phòng toàn dân và nền an ninh nhân dân”(14) làm nền tảng cho sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc trong Văn kiện Đại hội XIII thể hiện bước phát triển trong tư duy lý luận của Đảng. So với các kỳ đại hội trước, “thế trận lòng dân” được đặt lên hàng đầu trong mối quan hệ với thế trận quốc phòng toàn dân và thế trận an ninh nhân dân.
Đây không đơn thuần là sự sắp xếp cơ học mà đó là sự khẳng định, bổ sung, có sự phát triển mới trong tư duy của Đảng ta về đường lối quân sự, quốc phòng và nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Đó là sự xác định rõ vị trí, ý nghĩa “thế trận lòng dân”. Bởi vốn dĩ “thế trận lòng dân” nằm trong lòng thế trận quốc phòng toàn dân và thế trận an ninh nhân dân chứ không phải nằm ngoài như một yếu tố để tạo nền tảng. “Thế trận lòng dân” thâm nhập vào từng yếu tố, tạo sức mạnh nội sinh từ bên trong, góp phần xây dựng, củng cố vững chắc nền quốc phòng toàn dân, nền an ninh nhân dân vững chắc, trên cơ sở đó phát huy sức mạnh của toàn dân tộc, xây dựng và bảo vệ thành công Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Ba là, đại đoàn kết toàn dân tộc là cơ sở xây dựng “thế trận lòng dân” bảo vệ Tổ quốc
Cốt lõi của xây dựng “thế trận lòng dân” bảo vệ Tổ quốc chính là sự đoàn kết, thống nhất của cả dân tộc thành một khối vững chắc xung quanh Đảng và cùng hành động thống nhất dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý, điều hành của Nhà nước; giữ vững niềm tin, ý chí quyết tâm vượt qua mọi khó khăn, thử thách, vì mục tiêu, lý tưởng xã hội chủ nghĩa, kiên quyết đập tan mọi âm mưu chống phá của các thế lực thù địch.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “không quân đội nào, không khí giới nào có thể đánh ngã được tinh thần hy sinh của toàn thể dân tộc”(15). Do vậy, trước sự phát triển của nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, việc quán triệt quan điểm “dân là gốc”, xây dựng, củng cố “thế trận lòng dân” bảo vệ Tổ quốc trên cơ sở phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc là yêu cầu khách quan, là điều kiện tiên quyết góp phần phát huy sức mạnh của dân tộc trong từng thành tố của hệ thống chính trị, từng lĩnh vực của đời sống xã hội, trong mỗi người dân, tạo nền tảng chính trị - xã hội vững chắc cho sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc.
Bốn là, quan tâm xây dựng “thế trận lòng dân” bảo vệ Tổ quốc tại các địa bàn chiến lược, vùng đặc biệt khó khăn, biên giới, biển, đảo
Xây dựng “thế trận lòng dân” bảo vệ Tổ quốc trên các địa bàn chiến lược, vùng đặc biệt khó khăn, biên giới, biển, đảo là nền tảng phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, góp phần xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân, thế trận an ninh nhân dân vững chắc, bảo vệ thắng lợi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, an ninh biên giới quốc gia.
Đại hội XIII xác định “kết hợp chặt chẽ phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội với củng cố, tăng cường quốc phòng, an ninh trên từng vùng lãnh thổ, trên các địa bàn chiến lược, biên giới, biển, đảo”(16). Đây là phương hướng, quan điểm chỉ đạo của Đảng về xây dựng và củng cố “thế trận lòng dân” bảo vệ Tổ quốc trên các địa bàn; là sự cụ thể hóa quan điểm xây dựng “thế trận lòng dân” vững chắc trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa vào tình hình cụ thể. Nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền, an ninh biên giới sẽ không thể hoàn thành nếu không dựa vào sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, “thế trận lòng dân” vững chắc.
3. Một số giải pháp xây dựng “thế trận lòng dân” bảo vệ Tổ quốc theo tinh thần Đại hội XIII của Đảng
Một là, tiếp tục củng cố, nâng cao nhận thức về vị trí, vai trò của nhân dân và “thế trận lòng dân” trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc
Đây là giải pháp có ý nghĩa then chốt, tác động trực tiếp đến nhận thức, thái độ, trách nhiệm của mọi tầng lớp nhân dân, trên cơ sở đó, định hướng hành động xây dựng, củng cố “thế trận lòng dân” bảo vệ Tổ quốc. Thông qua giáo dục, tuyên truyền nâng cao nhận thức của nhân dân về vị trí, vai trò, tầm quan trọng của “thế trận lòng dân” bảo vệ Tổ quốc; quan điểm, đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về xây dựng, củng cố “thế trận lòng dân” trong tình hình mới… tạo sự đồng thuận trong nhân dân, xây dựng và phát huy khối đại đoàn kết toàn dân tộc, củng cố “thế trận lòng dân” vững chắc làm nền tảng cho sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.
Hiện nay, tình hình thế giới, trong nước có nhiều diễn biến phức tạp, khó dự báo, sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đứng trước nhiều thuận lợi và cũng không ít khó khăn, thử thách; các thế lực thù địch đẩy mạnh thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình” nhằm chống phá cách mạng nước ta, đặt ra yêu cầu nâng cao nhận thức của các tầng lớp nhân dân về thời cơ, thách thức với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc nói chung, những yêu cầu mới nhằm củng cố “thế trận lòng dân” bảo vệ Tổ quốc nói riêng. Do đó, cần “đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức, trách nhiệm của toàn Đảng toàn dân, toàn quân, của các cấp, các ngành, của mỗi cán bộ, đảng viên và người dân đối với nhiệm vụ tăng cường quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc”(17)…
Hai là, thực hiện có hiệu quả chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân, gắn phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường quốc phòng, an ninh
Đây là vấn đề “then chốt” trong xây dựng “thế trận lòng dân” bảo vệ Tổ quốc. Hiệu quả thực hiện chiến lược phát triển kinh tế - xã hội sẽ tác động trực tiếp đến củng cố nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân. Qua đó, củng cố niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý, điều hành của Nhà nước, tạo sự thống nhất, đồng thuận trong nhân dân, góp phần khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Cần tập trung thực hiện có hiệu quả chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, đầu tư có trọng tâm, trọng điểm, nhất là trên các địa bàn khó khăn, biên giới, hải đảo; đầu tư cơ sở vật chất, hiện đại hóa cơ sở hạ tầng, có các chính sách đầu tư và chính sách hỗ trợ nhân dân phát triển kinh tế… Phát triển kinh tế gắn với giải quyết có hiệu quả các vấn đề xã hội, từng bước nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân.
Kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường quốc phòng an ninh; bảo đảm mỗi chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội đều gắn kết chặt chẽ với tăng cường quốc phòng an ninh, bảo đảm môi trường hòa bình, ổn định để phát triển kinh tế - xã hội. Xây dựng, củng cố địa bàn an toàn, củng cố tiềm lực quốc phòng, an ninh, nhất là vùng sâu, vùng xa, hải đảo, những địa bàn đặc biệt khó khăn theo tinh thần “kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội với củng cố quốc phòng, an ninh, nhất là tại địa bàn chiến lược, vùng đặc biệt khó khăn, biên giới, hải đảo, khu kinh tế trọng điểm”(18). Việc kết hợp chặt chẽ kinh tế, xã hội, quốc phòng an ninh, đối ngoại phải phù hợp với đặc điểm, thế mạnh của từng địa phương.
Ba là, xây dựng “thế trận lòng dân” bảo vệ Tổ quốc gắn với xây dựng hệ thống chính trị cơ sở vững mạnh, nhất là trên các địa bàn biên giới, hải đảo, vùng đặc biệt khó khăn
Xây dựng “thế trận lòng dân” bảo vệ Tổ quốc là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị và toàn thể nhân dân đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước. Trong đó, hệ thống chính trị cơ sở là nơi cụ thể hóa quan điểm, đường lối của Đảng đến các tầng lớp nhân dân, trực tiếp thực hiện nhiệm vụ quản lý, điều hành xã hội ở địa phương. Do đó, xây dựng “thế trận lòng dân” luôn phải đặt trong mối quan hệ với xây dựng hệ thống chính trị cơ sở vững mạnh.
Theo đó, cần tập trung nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng; giáo dục, rèn luyện bản lĩnh chính trị, năng lực công tác, phẩm chất đạo đức, tác phong, lối sống cho đội ngũ đảng viên; thực hiện tốt Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI và nghị quyết Trung ương 4 khóa XII gắn với thực hiện chỉ thị 05-CT/TW của Bộ Chính trị khóa XII về “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”, Kết luận số 21-KL/TW ngày 25.10.2021 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị; kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”… Qua đó, không ngừng củng cố khối đại đoàn kết toàn dân, tạo sự thống nhất, đồng thuận trong nhân dân, giải quyết có hiệu quả các vấn đề dân tộc, tôn giáo, những bức xúc của nhân dân. Tuyệt đối không để kẻ thù lợi dụng, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân, ảnh hưởng niềm tin của nhân dân với hệ thống cơ sở chính trị địa phương.
Cần có sự quan tâm đặc biệt đối với các địa bàn biên giới, hải đảo, vùng đặc biệt khó khăn. Nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị cơ sở, xây dựng và thực hiện giải pháp toàn diện về kinh tế, văn hóa, xã hội phù hợp với đặc điểm của từng địa phương. Góp phần nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân, củng cố vững chắc “thế trận lòng dân”, niềm tin của nhân dân với chế độ xã hội chủ nghĩa.
Bốn là, phát huy vai trò của Quân đội tham gia xây dựng “thế trận lòng dân” bảo vệ Tổ quốc
Quân đội nhân dân Việt Nam là lực lượng có vai trò đặc biệt quan trọng trong tham gia xây dựng “thế trận lòng dân” bảo vệ Tổ quốc. Đại hội XIII của Đảng xác định: Củng cố quốc phòng, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên của Đảng, Nhà nước, hệ thống chính trị và toàn dân, trong đó Quân đội nhân dân là nòng cốt. Đây là quan điểm nhất quán, xuyên suốt của Đảng và Nhà nước ta.
Theo đó, Quân đội nhân dân Việt Nam cần được xây dựng vững mạnh toàn diện, thực sự là lực lượng nòng cốt để xây dựng “thế trận lòng dân” bảo vệ Tổ quốc. Các cấp ủy, chỉ huy cần tập trung làm tốt công tác giáo dục để nâng cao nhận thức đúng đắn, đầy đủ về nhiệm vụ và trách nhiệm cho cán bộ, chiến sĩ trong toàn quân và nhân dân ý nghĩa, tầm quan trọng của xây dựng “thế trận lòng dân” bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Thực hiện tốt công tác dân vận, dân tộc, tôn giáo nhất là trên các địa bàn đặc biệt khó khăn, liên hệ chặt chẽ với cấp ủy, chính quyền và nhân dân địa phương nơi đóng quân, tham gia có hiệu quả vào phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống nhân dân trên địa bàn, đi đầu giúp nhân dân khắc phục hậu quả thiên tai, dịch bệnh, tìm kiếm cứu hộ, cứu nạn. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền quan điểm, đường lối của Đảng đến các tầng lớp nhân dân, đặc biệt là vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo, vùng đặc biệt khó khăn. Quan tân xây dựng và củng cố đoàn kết quân dân, góp phần quan trọng củng cố khối đại đoàn kết dân tộc, đoàn kết quân - dân.
Năm là, nêu cao tinh thần cảnh giác cách mạng, chủ động đấu tranh làm thất bại âm mưu thủ đoạn “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch
Cần thường xuyên tuyên truyền, giáo dục cho cán bộ, chiến sĩ và nhân dân nhận thức rõ âm mưu, thủ đoạn và phương thức tiến hành của các thế lực thù địch hòng gây mất niềm tin của nhân dân, chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc, phá vỡ “thế trận lòng dân” vững chắc trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc XHCN.
Tiếp tục đổi mới hình thức, biện pháp tuyên truyền, vận động nhân dân; kịp thời, nhạy bén nhận diện, phân loại và kiên quyết đấu tranh vạch trần bản chất, âm mưu, thủ đoạn, những quan điểm sai trái,thù địch, những luận điệu xuyên tạc, bóp méo sự thật của các thế lực thù địch, cơ hội chính trị. Thực hiện nhất quán chính sách dân tộc, tôn giáo của Đảng, Nhà nước; tuyên truyền, vận động nhân dân không tin, không nghe theo kẻ xấu kích động, gây rối trật tự, an toàn xã hội, vượt biên trái phép, tham gia “tà đạo, đạo lạ” và các tổ chức bất hợp pháp. Giải quyết có hiệu quả nhu cầu, lợi ích chính đáng của nhân dân, tuyệt đối không để kẻ thù lợi dụng; xây dựng hệ thống chính trị ở cơ sở vững mạnh, không ngừng chăm lo đời sống nhân dân; đấu tranh có hiệu quả trên mặt trận tư tưởng lý luận, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.
_________________________________________________
(1) C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, T.I, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr. 350.
(2) V.I.Lênin: Toàn tập, T.39, Nxb. Tiến bộ, Mátxcơva, 1979, tr. 251.
(3) Hồ Chí Minh: Toàn tập, T.5, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 594.
(4) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2006, tr.109.
(5) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr.224-235.
(6) ĐCSVN: Văn kiện Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương khóa XI, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2013, tr.169.
(7), (10), (12) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2016, tr.149, 69, 34.
(8) Nguyễn Phú Trọng: Quyết tâm ngăn chặn và đẩy lùi tham nhũng, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2019, tr.80, 116-117.
(9) Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2022, tr. 261.
(11), (13), (14), (16), (17) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, T.I, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, 27-28, 49, 157, 278, 161.
(15) Hồ Chí Minh: Toàn tập, T.4, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 89.
(18) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, T.II, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr.151.
Nguồn: Bài đăng trên Tạp chí Lý luận chính trị điện tử ngày 26.7.2022
Bài liên quan
- Khơi dậy khát vọng phát triển đất nước, tự hào dân tộc cho thanh niên, sinh viên Việt Nam
- Xây dựng lối sống xã hội chủ nghĩa cho sinh viên Thủ đô Hà Nội hiện nay
- Quyết tâm xây dựng Đảng vững mạnh, nước Việt Nam giàu mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh
- Sự tham gia của người dân trong hoạch định chính sách công
- Đề cương về văn hóa Việt Nam năm 1943 khơi nguồn sáng tạo cho nền văn hoá, văn nghệ nhân dân trong thời đại mới
Xem nhiều
- 1 Mạch Nguồn số 55: Lửa
- 2 Nhà báo Nguyễn Phú Trọng
- 3 Mạch Nguồn số 54: Thắp lửa trị ân
- 4 Lễ tốt nghiệp Chương trình Cử nhân quốc tế Quảng cáo, Quan hệ công chúng và Thương hiệu Khóa V
- 5 Khảo sát sơ bộ đánh giá chất lượng chương trình đào đạo chính quy trình độ đại học tại Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- 6 Họp Ban Chỉ đạo, Ban Tổ chức kỷ niệm 75 năm truyền thống Học viện (1949-2024)
Liên kết
- Báo điện tử đảng cộng sản việt nam
- Báo nhân dân
- Báo Quân đội nhân dân
- Cổng thông tin điện tử Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Cổng thông tin điện tử Học viện Chính trị quốc gia hồ chí minh
- Tạp chí Cộng sản
- Tạp chí Giáo dục lý luận
- Tạp chí Giáo dục và Xã hội
- Tạp chí Khoa học xã hội và Nhân văn
- Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam
- Tạp chí Lý luận chính trị
- Tạp chí Nghiên cứu con người
- TẠP CHÍ Nghiên cứu dân tộc
- Tạp chí Người làm báo
- Tạp chí Nội chính
- Tạp chí Quản lý Nhà nước
- Tạp chí Tổ chức Nhà nước
- Tạp chí Tuyên giáo
- Tạp chí Xây Dựng Đảng
- Thư viện số Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Trang thông tin điện tử Hội đồng Lý luận Trung ương
Thông điệp về “khát vọng hoà bình” trong tranh cổ động Việt Nam thời kỳ kháng chiến chống Mỹ
Xuất hiện ở Việt Nam từ những năm 40 của thế kỷ 20, tranh cổ động gắn liền với lịch sử cách mạng Việt Nam và trở thành một phần quan trọng trong đời sống văn hoá tinh thần của nhân dân Việt Nam. Trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ, tranh cổ động trở thành thứ vũ khí tinh thần mạnh mẽ trong hành trình giành độc lập dân tộc. Tuy nhiên, tranh cổ động không chỉ mang trong mình sứ mệnh tuyên truyền vận động, cổ vũ, tinh thần chiến đấu, thúc giục mọi người tham gia chiến đấu, mà còn mang trong đó những giá trị thẩm mỹ và giá trị nghệ thuật cùng những thông điệp về khát vọng hoà bình. Bài viết này tập trung tìm hiểu về thông điệp “khát vọng hoà bình” trong tranh cổ động Việt Nam thời kỳ kháng chiến chống Mỹ (từ năm 1954 - 1975).
Khơi dậy khát vọng phát triển đất nước, tự hào dân tộc cho thanh niên, sinh viên Việt Nam
Khơi dậy khát vọng phát triển đất nước, tự hào dân tộc cho thanh niên, sinh viên Việt Nam
Khơi dậy khát vọng phát triển đất nước là tiếp tục phát huy mạnh mẽ lòng tự hào, tinh thần dân tộc, tình yêu nước, ý chí tự lực, tự cường, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc trong mỗi người dân Việt Nam, đặc biệt là trong thế hệ trẻ, những thanh niên, sinh viên - lực lượng tiên phong trong công cuộc đổi mới, phát triển kinh tế - xã hội, trở thành chủ nhân tương lai của đất nước.
Xây dựng lối sống xã hội chủ nghĩa cho sinh viên Thủ đô Hà Nội hiện nay
Xây dựng lối sống xã hội chủ nghĩa cho sinh viên Thủ đô Hà Nội hiện nay
Thủ đô Hà Nội nghìn năm văn hiến – đầu não chính trị - hành chính quốc gia, trung tâm lớn về văn hóa, khoa học, giáo dục, kinh tế và giao dịch quốc tế của đất nước Việt Nam, là môi trường thuận lợi góp phần hình thành lối sống xã hội chủ nghĩa (XHCN) của một bộ phận không nhỏ sinh viên học tập trên địa bàn Thủ đô. Tuy nhiên, trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội (CNXH), việc xây dựng lối sống XHCN cho sinh viên Thủ đô cũng gặp không ít khó khăn thách thức. Bài viết đánh giá tầm quan trọng và trình bày nội dung của việc xây dựng lối sống XHCN cho sinh viên Thủ đô Hà Nội hiện nay.
Quyết tâm xây dựng Đảng vững mạnh, nước Việt Nam giàu mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh
Quyết tâm xây dựng Đảng vững mạnh, nước Việt Nam giàu mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh
Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam quang vinh, công cuộc đổi mới đất nước nhất định giành thắng lợi to lớn, Tổ quốc ta ngày càng cường thịnh, nhân dân ta ngày càng hạnh phúc, ấm no, đất nước ta ngày càng phát triển phồn vinh, hùng cường, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội. Tạp chí Cộng sản trân trọng giới thiệu bài viết của Đại tướng, GS, TS Tô Lâm, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam với tiêu đề: “Quyết tâm xây dựng Đảng vững mạnh, nước Việt Nam giàu mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”:
Sự tham gia của người dân trong hoạch định chính sách công
Sự tham gia của người dân trong hoạch định chính sách công
Sự tham gia của người dân trong quá trình hoạch định chính sách công là rất quan trọng và đem lại nhiều lợi ích. Khi người dân được tham gia đóng góp ý kiến, các chính sách công sẽ phù hợp hơn với nhu cầu và thực tế của cộng đồng. Điều này sẽ giúp nâng cao hiệu quả triển khai chính sách, tăng cường sự đồng thuận và ủng hộ của người dân. Sự tham gia của người dân mang lại sự minh bạch và trách nhiệm giải trình cao hơn cho chính phủ. Các quyết định chính sách được đưa ra dựa trên những thông tin và ý kiến đóng góp từ nhiều phía, giúp chính phủ ra quyết định sáng suốt hơn. Đồng thời, người dân cũng có cơ hội hiểu rõ hơn về các chính sách và có thể giám sát việc thực thi chính sách. Tuy nhiên, việc tham gia cũng cần được thực hiện một cách có hệ thống và hiệu quả. Chính phủ cần xây dựng các cơ chế tham gia phù hợp, đảm bảo sự đại diện đầy đủ của các nhóm dân cư khác nhau, và có biện pháp tiếp thu, xem xét các ý kiến đóng góp một cách công bằng và khách quan; học hỏi kinh nghiệm từ một số nước đã đi trước.
Bình luận