Loạt bài: Bóc trần và đập tan luận điệu lợi dụng nhân quyền để chống phá cách mạng Việt Nam
Bài 1: Những thành tựu không thể phủ nhận về quyền con người tại Việt Nam
Bài 1: Những thành tựu không thể phủ nhận về quyền con người tại Việt Nam
Bài 2: Vạch trần luận điệu phủ nhận thành tựu nhân quyền ở Việt Nam
Bài cuối: Cần nhận thức đúng về kết quả thực hiện nhân quyền tại Việt Nam
Quyền con người là một phạm trù đa diện, do đó có nhiều định nghĩa khác nhau, theo một tài liệu của Liên hợp quốc, có đến gần 50 định nghĩa về quyền con người đã được công bố. Mỗi định nghĩa tiếp cận vấn đề từ một góc độ nhất định, chỉ ra những thuộc tính nhất định, nhưng không định nghĩa nào bao hàm được tất cả các thuộc tính của quyền con người(1).
Mặc dù không có định nghĩa chung và tính phù hợp của các định nghĩa hiện có về quyền con người phụ thuộc vào sự nhìn nhận chủ quan của mỗi cá nhân, tuy nhiên, ở cấp độ quốc tế, định nghĩa của Văn phòng Cao ủy Liên hợp quốc về quyền con người thường được trích dẫn bởi các nhà nghiên cứu.
Văn phòng Cao ủy Liên hợp quốc về quyền con người đưa ra định nghĩa như sau: Nhân quyền hay quyền con người là những bảo đảm pháp lý toàn cầu có tác dụng bảo vệ các cá nhân và các nhóm chống lại những hành động hoặc sự bỏ mặc mà làm tổn hại đến nhân phẩm, những sự được phép và tự do cơ bản của con người.
Ở Việt Nam, một số định nghĩa về quyền con người do một số chuyên gia, cơ quan nghiên cứu từng nêu ra nhưng xét chung, quyền con người thường được hiểu là những nhu cầu, lợi ích tự nhiên, vốn có và khách quan của con người được ghi nhận và bảo vệ trong pháp luật quốc gia và các thỏa thuận pháp lý quốc tế.
Quyền con người là những quyền tự nhiên của con người và không bị tước bỏ bởi bất cứ ai và bất cứ chính thể nào. Quyền con người là giá trị phổ quát mà tất cả người dân các quốc gia đều mong muốn quyền của mình được bảo đảm; quyền này được nêu trong hầu hết các điều ước quốc tế.
Tiếp cận vấn đề về nhân quyền, theo Đại từ điển Tiếng Việt, nhân quyền chính là quyền con người, là thành quả và kết tinh giá trị nhân văn của nhân loại.
Kể từ khi Liên hợp quốc được thành lập (năm 1945), quyền con người đã được quy định cụ thể trong hàng trăm văn kiện pháp luật quốc tế, trở thành một hệ thống tiêu chuẩn pháp lý toàn cầu đòi hỏi mọi quốc gia tôn trọng và thực hiện.
Trong đó, những sự kiện, văn kiện đánh dấu sự phát triển về nhận thức và cơ chế thực hiện nhân quyền thế giới là vào ngày 10/12/1948, với việc thông qua Tuyên ngôn Quốc tế nhân quyền (Tuyên ngôn), Liên hợp quốc đã công bố bản thỏa thuận pháp lý quốc tế đầu tiên về quyền con người. Đây là một bước tiến quan trọng của cộng đồng nhân loại khi xác định “phẩm giá vốn có và các quyền bình đẳng bất di bất dịch của tất cả các thành viên trong gia đình loài người là nền tảng của tự do, công lý và hòa bình trên thế giới”.
Có thể thấy rằng, quyền con người là thành quả phát triển lâu dài của lịch sử nhân loại, là giá trị chung của các dân tộc, được ghi nhận và bảo vệ bằng luật pháp quốc tế như Hiến chương Liên hợp quốc năm 1945, Tuyên ngôn Nhân quyền năm 1948 và hai Công ước về quyền con người năm 1966 (Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, văn hóa, xã hội và Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị).
Có thể nói, quyền con người không có gì xa lạ trên đất nước Việt Nam. Từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đến nay, quyền con người luôn là mục tiêu nhất quán, xuyên suốt trong suốt tiến trình cách mạng. Hiến pháp đầu tiên - năm 1946, đến Hiến pháp năm 2013, đều khẳng định quyền con người và quyền công dân đều được tôn trọng và bảo đảm.
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đặc biệt quan tâm đến quyền con người của mỗi người dân Việt Nam. Cả cuộc đời Người luôn mong mỏi để mỗi người dân Việt Nam được hưởng những quyền con người như bao dân tộc hòa bình khác trên thế giới.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền con người bắt nguồn từ lịch sử dân tộc và thực tiễn của đất nước, kế thừa có chọn lọc những tư tưởng nhân quyền tiến bộ của phương Đông cũng như phương Tây. Đặc biệt là vận dụng sáng tạo tư tưởng giải phóng con người và xã hội của chủ nghĩa Mác - Lênin.
Nổi bật nhất trong tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền con người được thể hiện trong Bản Tuyên ngôn độc lập. Ngày 2/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình ở Thủ đô Hà Nội, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ lâm thời đọc Tuyên ngôn Độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Người đã tuyên bố rằng: “Tất cả mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”.
Bản Tuyên ngôn độc lập năm 1945 không chỉ đưa dân tộc Việt Nam bước vào kỷ nguyên độc lập, tự do mà đó còn là nền tảng cho sự phát triển của quyền con người.
Trong suốt giai đoạn lịch sử cách mạng, Đảng và Nhà nước Việt Nam luôn xác định nhân quyền là nội dung có tính pháp lý, phải liên tục được phát triển, bổ sung, hoàn thiện. Phản ánh kết quả nhận thức khoa học, tiên tiến, văn minh về nhân quyền. Quan điểm và chính sách nhất quán của Đảng và Nhà nước ta trong suốt các thời kỳ lịch sử là tôn trọng và bảo đảm quyền con người; quyền con người là quan điểm, nội dung xuyên suốt trong Hiến pháp Việt Nam qua các thời kỳ và đã tiếp cận nhân quyền theo cả chiều rộng, chiều sâu, với các nội dung phù hợp mục tiêu phát triển của Việt Nam, phù hợp nhận thức chung của nhân loại tiến bộ.
Trong thời kỳ đổi mới, trên cơ sở kế thừa thành tựu trong các thời kỳ cách mạng ở nước ta và vận dụng, phát triển sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền con người, cũng như tiếp thu tinh hoa tư tưởng, pháp luật nhân quyền quốc tế, nhận thức và đường lối chỉ đạo của Đảng ta về quyền con người tiếp tục có nhiều bước phát triển mới.
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (năm 1986) khẳng định quan điểm xuyên suốt là: “Cùng với việc chăm lo đời sống Nhân dân, các cơ quan Nhà nước phải tôn trọng và bảo đảm những quyền công dân mà Hiến pháp đã quy định”(2) và “… bảo đảm quyền dân chủ thật sự của Nhân dân lao động, đồng thời kiên quyết trừng trị những kẻ vi phạm quyền làm chủ của Nhân dân”(3).
Những năm gần đây, Đảng, Nhà nước đã ban hành nhiều Chỉ thị về vấn đề quyền con người, đơn cử như: Chỉ thị số 12/CT/TW của Ban Bí thư Trung ương; Chỉ thị số 41/CT-TTg ngày 2/12/2004 của Thủ tướng Chính phủ về “Tăng cường công tác bảo vệ, đấu tranh về nhân quyền trong tình hình mới”. Để đảm bảo tốt hơn quyền con người, ngày 20/7/2010, Ban Bí thư đã ban hành Chỉ thị 44-CT/TW về công tác nhân quyền trong tình hình mới là cơ sở quan trọng bảo đảm thực hiện quyền con người ở nước ta…
Sách trắng về thành tựu quyền con người của Việt Nam khẳng định quyền con người và quyền dân tộc cơ bản là thống nhất: “quyền thiêng liêng, cơ bản nhất của con người là quyền được sống trong độc lập, tự do, quyền được tự quyết định vận mệnh của mình”.
Kế thừa, bổ sung và phát triển những quan điểm các kỳ đại hội trước, Đại hội lần thứ XIII của Đảng bổ sung mối quan hệ giữa lấy con người làm trung tâm - bảo đảm quyền con người - phát triển con người toàn diện gắn bó khăng khít với mối quan hệ giữa thực hành dân chủ, pháp quyền nhằm giữ gìn pháp chế, kỷ cương xã hội và khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, nhấn mạnh: “Tập trung khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, niềm tự hào, ý chí tự cường, lòng nhân ái, tinh thần đoàn kết, đồng thuận xã hội và khát vọng phát triển đất nước của toàn dân tộc. Xây dựng các cơ chế, chính sách phát huy tinh thần cống hiến vì đất nước của mọi người dân Việt Nam. Phát huy tối đa nhân tố con người; con người là trung tâm, chủ thể, là nguồn lực chủ yếu và mục tiêu của sự phát triển”(4).
Có thể thấy rõ nhất trong Hiến pháp năm 2013 của nước ta đã dành riêng Chương II để quy định về “quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân”.
Các điều trong Hiến pháp khẳng định: “Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật; Quyền con người, quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng”(5).
Nhận thấy tầm quan trọng đặc biệt của nhân quyền nên ngay từ năm 1957, Việt Nam đã gia nhập nhiều công ước của Luật Nhân đạo quốc tế. Năm 1977, Việt Nam trở thành thành viên của Liên hợp quốc, Việt Nam đã tích cực, chủ động gia nhập hầu hết các công ước ước nhân quyền quốc tế chủ chốt như: Công ước về quyền dân sự, chính trị; Công ước về quyền kinh tế, xã hội, văn hóa; Công ước về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt chủng tộc; Công ước về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ… Tính đến nay, Việt Nam đã phê chuẩn, gia nhập 7/9 công ước cơ bản của Liên hợp quốc về quyền con người; phê chuẩn, gia nhập 25 công ước của Tổ chức lao động quốc tế (ILO)…
Việt Nam là nước thứ hai trên thế giới và nước đầu tiên ở khu vực châu Á tham gia Công ước quyền trẻ em; Công ước quốc tế về quyền của người khuyết tật. Những cam kết của Việt Nam đối với các điều ước quốc tế đã được phản ánh trong các văn bản pháp luật trong nước.
Trong giai đoạn hiện nay, Việt Nam đã và đang tiếp tục xây dựng một nhà nước của dân, do dân và vì dân, với những chính sách nhất quán tôn trọng và bảo đảm các quyền con người được lồng ghép vào mọi chiến lược và chương trình phát triển của đất nước. Sau gần 40 năm đổi mới đất nước, với những thành tựu quan trọng mà Đảng, nhân dân Việt Nam đã đạt dược, diện mạo trên tất cả các lĩnh vực của đất nước đã thay đổi và có sự phát triển mới, đời sống của nhân dân không ngừng được cải thiện, môi trường chính trị - xã hội ổn định, nhân dân được sống cuộc sống hòa bình, ấm no, tự do, hạnh phúc.
Cùng với những thành tựu trong xây dựng đất nước và cùng với những nỗ lực xây dựng và hoàn thiện thể chế về quyền con người, Việt Nam đã đạt nhiều thành tựu trong bảo đảm quyền con người trên các phương diện của đời sống xã hội. Các quyền con người về dân sự, kinh tế, chính trị, văn hóa ở Việt Nam được quy định rõ trong chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước. Từ năm 2013 đến nay, hệ thống pháp luật Việt Nam liên tục được xây dựng và hoàn thiện tương đối đồng bộ, đáp ứng về cơ bản quyền con người mới hơn 100 văn bản luật, pháp lệnh liên quan bảo đảm quyền con người, quyền công dân.
Trong đó, các quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí và thông tin; quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo; quyền bình đẳng của các dân tộc; quyền sống, được tôn trọng về nhân phẩm và bất khả xâm phạm về thân thể; quyền tự do đi lại và cư trú… của người dân được tôn trọng. Đồng thời, các bộ luật như: Luật Hình sự 2015, Bộ luật Dân sự 2015, Luật Trưng cầu ý dân 2015, Luật Trẻ em 2016, Luật Trợ giúp pháp lý 2017, Luật An ninh mạng 2018… Bộ luật Lao động (sửa đổi) thông qua cuối năm 2019 với nhiều quy định mới bảo đảm tốt hơn quyền của người lao động.
Đáng chú ý về quyền tự do tín ngưỡng tôn giáo, Luật Tín ngưỡng, tôn giáo năm 2016 đã có những quy định cụ thể hơn về quyền này không chỉ đối với người có quốc tịch Việt Nam mà cả người nước ngoài sinh sống tại Việt Nam. Quyền này còn quy định cho phép người đang thi hành án phạt tù, ở các trại tạm giam, tạm giữ được sử dụng kinh thánh... Những thành tựu về nhân quyền mà chúng ta đã đạt được là bằng chứng cho thấy Việt Nam đã phát triển theo chiều hướng rất tích cực, và được dư luận thế giới công nhận. Đó là những thành tựu không thể phủ nhận.
Mới đây nhất, ngày 15/4/2024, Bộ Ngoại giao tổ chức họp báo quốc tế công bố Báo cáo quốc gia của Việt Nam theo cơ chế rà soát định kỳ phổ quát (UPR) chu kỳ IV của Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc. Với chính sách nhất quán về bảo vệ, thúc đẩy quyền con người, Việt Nam rất coi trọng cơ chế UPR và luôn nghiêm túc xây dựng các báo cáo quốc gia cũng như triển khai các khuyến nghị mà Việt Nam chấp thuận tại tất cả chu kỳ. Việt Nam đã chính thức nộp báo cáo UPR chu kỳ IV và ngày 10/5, tại Trụ sở Liên hiệp quốc tại Giơ-ne-vơ, Thụy Sĩ, Nhóm làm việc về Cơ chế rà soát định kỳ phổ quát (UPR) chu kỳ IV của Hội đồng Nhân quyền Liên hiệp quốc đã đồng thuận thông qua Báo cáo quốc gia UPR của Việt Nam.
Cùng với những đóng góp tích cực và thành tựu trên, trong thời gian qua, Việt Nam còn tham gia tích cực, là thành viên có trách nhiệm trong các hoạt động của Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc từ khi cơ quan này được thành lập từ năm 2006 đến nay. Chúng ta đã tham gia tích cực các hoạt động của Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc và Việt Nam đóng góp tích cực, trách nhiệm và hiệu quả hơn vào nỗ lực chung thúc đẩy và bảo vệ quyền con người trên thế giới. Trong đó, Việt Nam 2 lần trở thành thành viên Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc (nhiệm kỳ 2014 - 2016 và nhiệm kỳ 2023 - 2025). Những nỗ lực và các sáng kiến, đóng góp của Việt Nam trong thúc đẩy và bảo vệ quyền con người được các nước đồng tình, ủng hộ, cộng đồng quốc tế ghi nhận, đánh giá cao.
Như vậy có thể khẳng định rằng những kết quả, thành tựu to lớn trên lĩnh vực thúc đẩy, bảo vệ, bảo đảm quyền con người mà Việt Nam đã đạt được trong 40 năm qua, là minh chứng sinh động cho thấy quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước Việt Nam là đúng đắn, là vì quyền con người. Từ chủ trương mục tiêu xuyên suốt đến hành động cụ thể, Nhà nước Việt Nam đã và đang hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật về quyền con người. Đây là cơ sở pháp lý vững chắc cho việc bảo đảm, bảo vệ và thực thi quyền con người; đồng thời, là căn cứ quan trọng để nhận diện, đấu tranh phản bác những thủ đoạn lợi dụng nhân quyền để chống phá Việt Nam./.
_________________________________________________________
(1) Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, (2018), Giáo trình Lý luận và pháp luật về quyền con người (dành cho hệ đào tạo Cao cấp lý luận chính trị), Nxb Lý luận chính trị.
(2) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI. Nxb Sự thật, H. 1987, tr112.
(3) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI. Nxb Sự thật, H. 1987, tr117.
(4) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Tập 1, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, H. 2021, tr28.
(5) Quốc hội (2013), Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Nguồn: Bài đăng trên báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam, ngày 14/06/2024
Bài liên quan
- Vạch trần thủ đoạn của tổ chức "Năng lượng gốc Trống Đồng Việt Nam" - Bài 3: Kiên quyết chặn sự lây lan, bám rễ (tiếp theo và hết)
- Vạch trần thủ đoạn của tổ chức “Năng lượng gốc Trống Đồng Việt Nam” - Bài 2: Lừa đảo gây quỹ để chống phá đất nước
- Vạch trần thủ đoạn của tổ chức "Năng lượng gốc Trống Đồng Việt Nam" - Bài 1: Chiêu lừa hiểm độc nhắm vào người mắc bệnh hiểm nghèo
- Những thách thức về bảo vệ nền tảng tư tưởng trên các phương tiện truyền thông xã hội
- Uy tín giả- tác hại thật - Bài 3: Ngăn chặn, đẩy lùi uy tín giả
Xem nhiều
- 1 Ảnh hưởng của truyền thông xã hội đến hoạt động báo chí
- 2 Công tác dân tộc qua những bài học cụ thể của Chủ tịch Hồ Chí Minh từ ngày đầu thành lập nước
- 3 Các yếu tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của sinh viên về học tập tại Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- 4 Truyền thông về cơ hội phát triển bền vững, thích ứng với biến đổi khí hậu khi ứng dụng thành tựu khoa học và công nghệ ở đồng bằng sông Cửu long trên báo chí Việt Nam
- 5 Mấy vấn đề cơ chế tài chính đáp ứng phục vụ nhiệm vụ chiến lược của Học viện Báo chí và Tuyên truyền hiện nay
- 6 Một số phương tiện truyền thông mới trên nền tảng web 3.0 hiện nay
Liên kết
- Báo điện tử đảng cộng sản việt nam
- Báo nhân dân
- Báo Quân đội nhân dân
- Cổng thông tin điện tử Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Cổng thông tin điện tử Học viện Chính trị quốc gia hồ chí minh
- Tạp chí Cộng sản
- Tạp chí Giáo dục lý luận
- Tạp chí Giáo dục và Xã hội
- Tạp chí Khoa học xã hội và Nhân văn
- Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam
- Tạp chí Lý luận chính trị
- Tạp chí Nghiên cứu con người
- TẠP CHÍ Nghiên cứu dân tộc
- Tạp chí Người làm báo
- Tạp chí Nội chính
- Tạp chí Quản lý Nhà nước
- Tạp chí Tổ chức Nhà nước
- Tạp chí Tuyên giáo
- Tạp chí Xây Dựng Đảng
- Thư viện số Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Trang thông tin điện tử Hội đồng Lý luận Trung ương
Hệ thống chính trị Việt Nam truyền thống và hiện đại từ góc nhìn đổi mới
Nhìn toàn bộ tiến trình lịch sử chính trị của dân tộc, “Hệ thống chính trị” nước ta dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là một thiết chế chính trị mạnh, mô hình này phù hợp với hoàn cảnh Việt Nam và đúng với quy luật vận động của lịch sử. Và, cũng từ thực tế lịch sử, có thể thấy sức mạnh thực sự của Hệ thống chính trị mà chúng ta đang có chủ yếu không phải do tính chất nhất nguyên mà là do uy tín của Đảng, Nhà nước và lãnh tụ Hồ Chí Minh. Sức sống của hệ thống chính trị là sự phù hợp, thống nhất giữa mục đích của Đảng với nguyện vọng của nhân dân, với nhu cầu phát triển của đất nước. Hệ thống chính trị Việt Nam đương đại, trên cơ sở kết tinh các giá trị thiết chế truyền thống gắn với hiện đại không ngừng đổi mới phát triển khẳng định sức mạnh của Hệ thống tổ chức quyền lực Chính trị Việt Nam có vai trò quyết định thành công xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN.
Vạch trần thủ đoạn của tổ chức "Năng lượng gốc Trống Đồng Việt Nam" - Bài 3: Kiên quyết chặn sự lây lan, bám rễ (tiếp theo và hết)
Vạch trần thủ đoạn của tổ chức "Năng lượng gốc Trống Đồng Việt Nam" - Bài 3: Kiên quyết chặn sự lây lan, bám rễ (tiếp theo và hết)
Trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước, Đảng, Nhà nước ta luôn tôn trọng các tổ chức có thiện chí hỗ trợ, giúp đỡ cộng đồng xã hội nâng cao sức khỏe cả về thể chất và tinh thần; tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của người dân. Tuy nhiên, việc lợi dụng thiện chí của Đảng, Nhà nước Việt Nam để hoạt động bất hợp pháp, lừa đảo, trục lợi từ nhân dân; truyền bá tư tưởng phản động, mê tín, dị đoan, ảnh hưởng đến an ninh quốc gia, trận tự, an toàn xã hội như tổ chức “Năng lượng gốc Trống Đồng Việt Nam” (gọi tắt là NLG) thì cần cảnh giác và đấu tranh ngăn chặn sự lây lan, bám rễ trong cộng đồng.
Vạch trần thủ đoạn của tổ chức “Năng lượng gốc Trống Đồng Việt Nam” - Bài 2: Lừa đảo gây quỹ để chống phá đất nước
Vạch trần thủ đoạn của tổ chức “Năng lượng gốc Trống Đồng Việt Nam” - Bài 2: Lừa đảo gây quỹ để chống phá đất nước
Tổ chức “Năng lượng gốc Trống Đồng Việt Nam” (NLG) đã trở thành “hiện tượng” lôi kéo một bộ phận người Việt Nam tham gia, với những hứa hẹn về sức khỏe, hạnh phúc và cải thiện vận mệnh. Đằng sau vỏ bọc kiến tạo cuộc sống hạnh phúc, tổ chức này thực chất là một ổ nhóm phản động, với những chiêu trò, thủ đoạn tinh vi, dẫn dắt người dân theo con đường lệch lạc nhằm mục đích chống phá chính trị.
Vạch trần thủ đoạn của tổ chức "Năng lượng gốc Trống Đồng Việt Nam" - Bài 1: Chiêu lừa hiểm độc nhắm vào người mắc bệnh hiểm nghèo
Vạch trần thủ đoạn của tổ chức "Năng lượng gốc Trống Đồng Việt Nam" - Bài 1: Chiêu lừa hiểm độc nhắm vào người mắc bệnh hiểm nghèo
"Năng lượng gốc có thể chữa bách bệnh, kể cả bệnh nan y mà không cần dùng thuốc"; "Chữa khỏi bệnh từ xa, chỉ cần thông qua phương tiện truyền hình ảnh”... Tổ chức “Năng lượng gốc Trống Đồng Việt Nam” (sau đây gọi tắt là NLG) tung ra những luận điệu phi khoa học như vậy, nhưng vẫn có không ít người tin theo. Thời gian qua, nhiều độc giả của Báo Quân đội nhân dân đã phản ánh với tòa soạn sự bức xúc về hoạt động lén lút của tổ chức này. Nhóm phóng viên Báo Quân đội nhân dân đã điều tra về những thủ đoạn lừa đảo tinh vi của tổ chức NLG hiện nay.
Những thách thức về bảo vệ nền tảng tư tưởng trên các phương tiện truyền thông xã hội
Những thách thức về bảo vệ nền tảng tư tưởng trên các phương tiện truyền thông xã hội
Bảo vệ nền tảng tư tưởng trên các phương tiện truyền thông xã hội hiện nay đứng trước rất nhiều khó khăn, thách thức do các yếu tố chủ quan và khách quan mang lại. Lan toả các giá trị tư tưởng của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu để tiếp tục đưa đất nước tiến lên theo con đường xã hội chủ nghĩa. Vấn đề của hoạt động bảo vệ nền tảng tư tưởng trên các phương tiện truyền thông xã hội hiện nay là làm sao thu hút được sự quan tâm của đại bộ phận nhân dân, để nhân dân tin tưởng và làm theo Đảng thông qua những nội dung gần gũi, sinh động, hấp dẫn và hiện đại. Hai yếu tố ảnh hưởng lớn nhất tới hoạt động bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng chính là sự phát triển nhanh chóng của các phương tiện truyền thông, đặc biệt truyền thông xã hội và hiện tượng truyền thông hoá.
Bình luận