Báo chí truyền thông trong “thời đại tin giả
Bối cảnh truyền thông mới
Năm 2016, từ điển Oxford đã chọn từ Posttruth là từ của năm. Từ này chỉ một bối cảnh mà việc xác nhận cảm xúc và niềm tin cá nhân có ảnh hưởng tới việc định hình ý kiến dư luận hơn là những thực tế khách quan. Từ này có nghĩa là “sự thật chủ quan” hay “sự thật ngóng đợi”, khi chủ thể muốn tin vào những gì họ muốn thấy. Đây là một từ miêu tả thời đại hiện tại với sự hậu thuẫn của mạng xã hội.
Đặc biệt, sự xuất hiện của Facebook đánh dấu một bước phát triển mới cho truyền thông xã hội ở Việt Nam. Khi xét đến quy mô lan tỏa của thông tin, James Ball (2017, tr.143)(1) tuyên bố: “Facebook mang đến các trang web, thích hợp và phổ biến như nhau, lưu lượng truy cập cạnh tranh để thu hút sự chú ý của công chúng và cho các nhà quảng cáo của họ”.Tại Việt Nam, mạng xã hội ngày càng phát triển và trở thành “sân chơi” rộng lớn để giao lưu, chia sẻ và kết nối của giới trẻ. Bối cảnh truyền thông mới cho thấy, thói quen và hành vi tiếp nhận thông tin của công chúng trên thế giới nói chung và ở Việt Nam nói riêng đã thay đổi. Hơn nữa, tất cả “cư dân mạng” đều có thể tạo ra thông tin và tác động tới mức độ phát tán và phân luồng thông tin.
Anne Senior(2) , phóng viên của Reuters ví môi trường mạng xã hội bây giờ như “quảng trường” trong một ngôi làng thời trung cổ. Mọi lời đồn thổi, hay tin giả đều xuất phát từ “quảng trường” đó. Tuy nhiên, nếu tốc độ của thông tin rất hẹp và có thể đứt đoạn trong phạm vi ngôi làng truyền thống thì với ngôi làng toàn cầu, sự phổ biến thông tin chỉ qua một cú click chuột, một người có thể nói với trung bình 500 người trong danh sách bạn bè của mình.
Qua đó có thể thấy, báo chí dần nhận ra những điểm mạnh của các phương tiện truyền thông mới trong tác nghiệp và xuất bản tin tức, nhưng đồng thời cũng nhận ra mặt trái của nền tảng này khi phải phân định sự thật với sự tràn lan của lời đồn chưa được kiểm chứng hay tin giả khắp mọi nơi.
“Thời đại của tin giả”
Khái niệm tin giả đã được Edson C. Tandoc Jr., Zheng Wei Lim & Richard Ling (2017, tr.2)(3) đưa ra rất rõ trong một bài báo khoa học: “Trong ngôn ngữ đương đại, đặc biệt là truyền thông, có vẻ như xác định tin tức giả mạo khi đề cập các bài viết lan truyền dựa trên các tài khoản hư cấu được tạo ra giống như các báo cáo tin tức.
Ba học giả cũng nhận định hai động lực chính cho việc sản xuất tin giả là tài chính và ý thức hệ. Một mặt, những câu chuyện giả mạo về những vấn đề tiêu cực, gây phẫn nộ và lan truyền nhanh, độ phủ rộng khiến đối tượng tạo ra tin giả có lượng tương tác lớn để có thể chuyển đổi thành doanh thu quảng cáo. Mặt khác, những người tạo ra tin giả quảng bá các ý tưởng hoặc những người mà họ ưa thích, đôi khi còn nhằm làm mất uy tín người khác có thể là đối thủ cạnh tranh trong chính trị, kinh doanh hoặc đời sống cá nhân.
Một nhà nghiên cứu của Viện Công nghệ Massachusetts (MIT - Mỹ) đã được tờ Financial Times(4) trích lại rằng: Tin giả mang tính tiểu thuyết (hư cấu) hơn là tin thật, và đó có thể là lý do tại sao chúng ta chia sẻ sai lầm nhanh hơn và rộng rãi nhiều hơn.
Các ví dụ về tin tức giả mạo trên cho thấy, các cơ quan báo chí cũng trở thành nạn nhân của tin giả. Ngoài ra, nhiều trường hợp, chính báo chí truyền thống lại trở thành nguồn phát tán tin giả. Do đó, khi báo chí chạy theo tin tức mà chưa được kiểm chứng đều có thể để lại hậu quả đối với xã hội và công chúng của mình. Những áp lực thu hút bạn đọc mà các nhà báo hay các toà soạn phải gồng mình chạy đua với tốc độ mạng xã hội đôi khi khiến họ bỏ qua khâu kiểm chứng thông tin.
Những vấn đề đặt ra
Việc số hóa thông tin đã thách thức các khái niệm tin tức truyền thống. Nền tảng trực tuyến cung cấp không gian cho các nhà báo không chỉ để tiếp cận một lượng khán giả đông đảo.
Tuy nhiên, dù mạng xã hội có phát triển thế nào và ai cũng có thể trở thành nguồn phát hay “nhà báo công dân” chỉ với chiếc điện thoại thông minh (smartphone) và kết nối Internet, nhưng báo chí chính thống vẫn luôn giữ vai trò là bên thứ 3 khách quan để kiểm chứng nguồn tin và “gác cổng xã hội”. Chính vì vậy, báo chí phải tạo được lòng tin với công chúng. Nội dung và tính chính xác của thông tin rất quan trọng với sự tồn tại và uy tín của tờ báo.
Trong báo cáo Digital News Project của Reuters về xu hướng truyền thông và công nghệ định hình ngành công nghiệp tin tức năm 2018, tác giả Nic Newman chỉ ra rằng, đây là năm quan trọng đối với mối quan hệ giữa các nhà xuất bản tin tức và nhà cung cấp nền tảng như Google và Facebook nhằm chống lại làn sóng chỉ trích về tác động của họ đối với xã hội và về báo chí. Thời đại của trí tuệ nhân tạo sẽ mang lại những cơ hội mới cho sự sáng tạo, nhưng cũng khiến thông tin sai lệch và bị thao túng nhiều hơn.
Các cơ quan báo chí và nhà báo nắm bắt được các ảnh hưởng này, họ tự học hỏi, bổ sung cho mình các kiến thức và tận dụng được sự phát triển của mạng xã hội. Thực tế, họ trang bị cho mình những kiến thức về công nghệ và nắm rõ được tầm quan trọng của các phương tiện truyền thông mới, để làm chủ việc tác nghiệp trong nền báo chí hiện đại.
Duy trì nguyên tắc bất biến của báo chí
Tuy nhiên trong thời đại số, ngoài những nguyên tắc bất biến, nhà báo có thể được trang bị thêm các kĩ năng số để hỗ trợ cho họ trong quá trình tác nghiệp tốt hơn. Báo chí đa nền tảng thực tế trang bị cho nhà báo kiến thức và kỹ năng để sản xuất nội dung cho bất kỳ nền tảng nào và cho phép họ nắm bắt cơ hội khi nền tảng mới xuất hiện.Dù trong nền tảng nào hay thời đại nào, nguyên tắc tác nghiệp của nhà báo không hề thay đổi. Có thể kể ra một số nguyên tắc chính sau: Kể sự thật - cam kết thông tin chính xác, kiểm tra và kiểm tra lại; Độc lập và công bằng - những câu chuyện hoàn thành mà không có sự nổi trội của thông tin đáng chú ý, cố gắng tránh thiên vị; Nhân văn và đoàn kết - làm không mục đích, không có thiệt hại trực tiếp đến người khác, giảm thiểu tác hại...
Ngay cả việc đặt tiêu đề cho một bài báo cũng yêu cầu sự chính xác tuyệt đối, tránh trường hợp tít một đằng, nội dung một nẻo. Thông thường, công chúng hay chú ý tới tiêu đề của bài báo. Với các thuật toán và tối ưu hóa từ khóa tìm kiếm, công chúng lại càng dễ dàng bị gợi ý đọc các tin tức theo gợi ý. Ngoài ra, công chúng có khi chia sẻ, bình luận những câu chuyện mà thực tế có thể họ không đọc hết và kiểm chứng câu chuyện đó và đặt hết niềm tin về sự thật của câu chuyện vào cái tiêu đề đó. Chính điều đó, đòi hỏi các nhà báo không nên bẻ cong sự thật hoặc giật tít, câu view...
Kiểm chứng thông tin là hành động kiểm tra, xác nhận thực tế trong văn bản để xác định tính xác thực và chính xác của các tuyên bố trong văn bản. Hành động này có thể được thực hiện hoặc trước hoặc sau khi văn bản đã được xuất bản. Đây là công việc cơ bản của nghề báo. Tuy nhiên trong kỉ nguyên số, nhà báo có thể tận dụng lại những gì của chính nền tảng số để kiểm chứng thông tin trước và sau khi đăng và phòng chống tin giả. Tờ báo Washington Post (Mỹ) có hẳn chuyên trang Fact Checker(5) trang PolitiFact (6) có đăng các bài “bóc phốt” nội dung không đúng sự thật hoặc thiếu chính xác trong phát biểu, tuyên bố của các chính khách.
Tập đoàn Google đang hỗ trợ nhiều dịch vụ tin tức về năng lực kiểm chứng thông tin. Sử dụng search operators của Google được rất nhiều nhà báo ưa thích và sử dụng thường xuyên. Các thuật toán trong việc đưa ra kết quả tìm kiếm của Google rất có sức mạnh và hiệu quả. Ngoài những sự hỗ trợ của công nghệ, ứng dụng của trí tuệ nhân tạo, yếu tố con người, chính bản thân các nhà báo là điều quan trọng trong việc phòng và chống tin giả.
Vĩ thanh
Mặt trái của Internet chính là khi các tin tức giả mạo được phát tán và có thể gây nguy hại cho công chúng. Một câu chuyện tuyệt vời có thể giải trí, nhưng thông tin sai lệch về cơ bản có thể thay đổi cách công chúng nhìn nhận thế giới, ảnh hưởng đến ý kiến, hành vi và thậm chí là lá phiếu bầu.
Sự cởi mở hơn của các nhà cung cấp nền tảng truyền thông xã hội và sự hợp tác lớn hơn của họ với các các cơ quan liên quan trong việc giải quyết vấn đề tin tức giả là điều cần thiết. Các tổ chức báo chí truyền thống chính là những đối tác tiềm năng. Họ tìm kiếm, kiểm tra và phổ biến tin tức. Các nhà báo được đào tạo để đánh giá tính xác thực, thu hút khối lượng bình luận trực tuyến và thảo luận trên các nền tảng truyền thông xã hội, và có động cơ rõ ràng để duy trì lòng tin vào những đóng góp của chính họ cho đời sống của công chúng.
Hơn nữa sự phát triển của mạng xã hội đã chiếm lĩnh thời gian và mối quan tâm lớn của công chúng. Điều này khiến báo chí phải nhìn nhận lại cách tiếp cận, khai thác và trình bày tin tức của mình một cách hấp dẫn, thời thượng mà vẫn bảo đảm được các nguyên tắc chính xác của mình. Đặc biệt nếu báo chí muốn tiếp cận được nhóm công chúng thế hệ Y, Z họ phải có những sản phẩm sáng tạo và dễ tương tác với độc giả trên website và nền tảng mạng xã hội hơn./.
___________________
Bài đăng trên Tạp chí điện tử Người làm báo số ra ngày 15.8.2019
(1) James Ball, 2017. Post-truth: How bullshit conquered the world. London: Biteback Publishing
(2) Nhà báo Anne Senior là phóng viên, biên tập viên kỳ cựu của Reuters với kinh nghiệm nhiều năm tại khu vực châu Âu, Mỹ và châu Á trong nhiều lĩnh vực báo in, truyền hình và báo điện tử.
(3) Edson C. Tandoc Jr., Zheng Wei Lim & Richard Ling (2017): Defining “Fake News”, Digital Journalism, DOI: 10.1080/21670811.2017.1360143
(4) https ://www.theguardian.com/commentisfree/ 2018/mar/19/fake-news-social-media-twittermit-journalism
(5) https://www.washingtonpost.com/news/fact-checker
(6) http://www.politifact.com
TS Phạm Hải Chung
Nguồn: http://nguoilambao.vn
Bài liên quan
- Tác động của truyền thông thương hiệu đến giá trị cảm nhận và sự gắn bó của sinh viên tại các trường đại học kỹ thuật ở Hà Nội
- Giải pháp tăng cường định hướng hành vi tiếp nhận thông tin báo chí trên nền tảng facebook của sinh viên hệ 9+
- Quản trị hoạt động truyền thông thương hiệu bệnh viện công trong bối cảnh chuyển đổi số
- Tác động của truyền thông CSR đến niềm tin thương hiệu và ý định mua của người tiêu dùng hiện nay
- Truyền thông về an ninh mạng tại hệ thống ngân hàng ở Việt Nam trong môi trường chuyển đổi số hiện nay
Xem nhiều
-
1
Xây dựng khung đạo đức và quản trị trí tuệ nhân tạo (AI) trong truyền thông chính sách tại Việt Nam
-
2
Nâng cao năng lực số cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã trong mô hình chính quyền địa phương hai cấp ở Việt Nam hiện nay
-
3
Xử lý khủng hoảng của doanh nghiệp sản xuất và phân phối thực phẩm chế biến sẵn tại Việt Nam
-
4
Các xu hướng sáng tạo nội dung truyền thông marketing hiện nay
-
5
Phim Tài liệu: Video Khoa xây dựng Đảng 50 năm Xây dựng và Phát triển
-
6
Nâng cao chất lượng hoạt động của Đảng ủy phường Yên Bái, tỉnh Lào Cai hiện nay
Liên kết
- Báo điện tử đảng cộng sản việt nam
- Báo nhân dân
- Báo Quân đội nhân dân
- Cổng thông tin điện tử Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Cổng thông tin điện tử Học viện Chính trị quốc gia hồ chí minh
- Tạp chí Cộng sản
- Tạp chí Giáo dục lý luận
- Tạp chí Giáo dục và Xã hội
- Tạp chí Khoa học xã hội và Nhân văn
- Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam
- Tạp chí Lý luận chính trị
- Tạp chí Nghiên cứu con người
- TẠP CHÍ Nghiên cứu dân tộc
- Tạp chí Người làm báo
- Tạp chí Nội chính
- Tạp chí Quản lý Nhà nước
- Tạp chí Tổ chức Nhà nước
- Tạp chí Tuyên giáo
- Tạp chí Xây Dựng Đảng
- Thư viện số Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Trang thông tin điện tử Hội đồng Lý luận Trung ương
Sự thay đổi thói quen, nhu cầu tiếp nhận công tin của công chúng phát thanh đô thị và khuyến nghị với các kênh phát thanh
Nghiên cứu này phân tích những thay đổi trong thói quen, nhu cầu tiếp nhận thông tin của công chúng phát thanh đô thị Việt Nam trong bối cảnh số hóa, tập trung vào ba biến số cốt lõi: thời điểm nghe (giờ vàng), thiết bị nghe và nội dung mong muốn. Dựa trên khảo sát 798 người tại Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh cùng các phỏng vấn định tính, kết quả cho thấy hành vi nghe phát thanh hiện nay đang chuyển dịch mạnh mẽ từ mô hình tuyến tính sang mô hình linh hoạt, cá nhân hóa. Hai khung giờ 6-9h sáng và 17-22h tối là “giờ vàng” gắn với nhịp sống đô thị, song hành với sự lên ngôi của điện thoại thông minh (43,1%) và podcast/audio phát lại (35,5%), phản ánh xu hướng nghe theo yêu cầu (on-demand) ngày càng phổ biến. Đặc biệt, nhu cầu nội dung thể hiện sự phân tầng rõ rệt, trong đó, Thời sự - Chính trị và Âm nhạc - Giải trí vẫn là nội dung được yêu thích trên sóng phát thanh.
Tác động của truyền thông thương hiệu đến giá trị cảm nhận và sự gắn bó của sinh viên tại các trường đại học kỹ thuật ở Hà Nội
Tác động của truyền thông thương hiệu đến giá trị cảm nhận và sự gắn bó của sinh viên tại các trường đại học kỹ thuật ở Hà Nội
Trong bối cảnh tự chủ đại học và cạnh tranh tuyển sinh, truyền thông thương hiệu của cơ sở đào tạo không chỉ là quảng bá mà còn là cơ chế kiến tạo trải nghiệm nhất quán cho người học. Bài viết sử dụng khung CBBE (giá trị thương hiệu dựa trên khách hàng) và tiếp cận IMC (truyền thông tích hợp) để mô tả hệ điểm chạm và thảo luận hàm ý tác động tới giá trị cảm nhận và sự gắn bó của sinh viên tại khối trường kỹ thuật ở Hà Nội. Đóng góp thực tiễn của nghiên cứu là cung cấp căn cứ để các trường kỹ thuật nâng chất lượng truyền thông, mở rộng tiếp cận và bồi dưỡng gắn bó bền vững của sinh viên.
Giải pháp tăng cường định hướng hành vi tiếp nhận thông tin báo chí trên nền tảng facebook của sinh viên hệ 9+
Giải pháp tăng cường định hướng hành vi tiếp nhận thông tin báo chí trên nền tảng facebook của sinh viên hệ 9+
Trong bối cảnh chuyển đổi số quốc gia, Facebook không chỉ là không gian giao tiếp mà còn là kênh tiếp nhận và lan tỏa thông tin báo chí quan trọng. Việc nghiên cứu hành vi tiếp nhận thông tin báo chí trên nền tảng này của sinh viên hệ 9+ - nhóm học sinh tốt nghiệp Trung học cơ sở, đang theo học tại các cơ sở giáo dục nghề nghiệp, là lực lượng lao động trẻ đang trưởng thành trong môi trường số có ý nghĩa thiết thực: giúp sinh viên nâng cao năng lực chọn lọc, phân tích và phản biện thông tin, hình thành thói quen sử dụng mạng xã hội có trách nhiệm; đồng thời, giúp các cơ quan báo chí hiểu rõ hơn về nhu cầu, thói quen và xu hướng truyền thông của nhóm công chúng trẻ, từ đó, đổi mới nội dung và phương thức truyền thông số, góp phần xây dựng hệ sinh thái thông tin mạnh trong kỷ nguyên số. Bài viết đồng thời đề xuất một số giải pháp nhằm tăng cường định hướng hành vi tiếp nhận thông tin báo chí trên nền tảng Facebook của sinh viên hệ 9+ hiện nay.
Quản trị hoạt động truyền thông thương hiệu bệnh viện công trong bối cảnh chuyển đổi số
Quản trị hoạt động truyền thông thương hiệu bệnh viện công trong bối cảnh chuyển đổi số
Trong bối cảnh chuyển đổi số mạnh mẽ, các bệnh viện công (BVC) tại Việt Nam phải đối mặt với những thách thức đặc thù trong quản trị hoạt động truyền thông thương hiệu (TTTH). Hoạt động này không chỉ nhằm mục đích quảng bá mà còn là công cụ chiến lược để xây dựng niềm tin xã hội và thực thi sứ mệnh y tế cộng đồng. Sử dụng Bệnh viện Nhi Trung ương (BVNTW) làm trường hợp nghiên cứu điển hình, bài viết phân tích thực trạng quản trị hoạt động TTTH trên các phương tiện truyền thông số thông qua khảo sát thực tiễn và phỏng vấn chuyên sâu. Kết quả nghiên cứu cho thấy, BVNTW đạt được sự cam kết chiến lược mạnh mẽ từ ban lãnh đạo và độ tin cậy cao từ công chúng. Tuy nhiên, nghiên cứu cũng chỉ ra những mâu thuẫn mang tính hệ thống. Trên cơ sở đó, bài viết đề xuất một hệ thống giải pháp chiến lược, bao gồm việc xây dựng khung đo lường hiệu suất đa tầng, tối ưu hóa quy trình theo mức độ rủi ro và quản trị trải nghiệm thương hiệu đồng bộ, nhằm nâng cao hiệu quả quản trị TTTH tại các bệnh viện công.
Tác động của truyền thông CSR đến niềm tin thương hiệu và ý định mua của người tiêu dùng hiện nay
Tác động của truyền thông CSR đến niềm tin thương hiệu và ý định mua của người tiêu dùng hiện nay
Bài viết khái quát tác động của truyền thông về trách nhiệm xã hội doanh nghiệp (CSR) đối với niềm tin thương hiệu và ý định mua của người tiêu dùng trong bối cảnh truyền thông số. Dựa trên các khung lý thuyết nền tảng như Lý thuyết trao đổi xã hội (SET), mô hình Kích thích - Tổ chức - Đáp ứng (S - O - R) và Thuyết hành vi có kế hoạch (TPB), bài viết khẳng định, truyền thông CSR, đặc biệt qua báo chí điện tử và nền tảng mạng xã hội, có ảnh hưởng tích cực đến nhận thức, thái độ và hành vi tiêu dùng. Truyền thông CSR nhất quán, minh bạch không chỉ trực tiếp tác động đến ý định mua mà còn gián tiếp thông qua việc củng cố niềm tin thương hiệu, biến trung gian có tính quyết định trong quá trình hình thành hành vi tiêu dùng. Niềm tin thương hiệu được xem như một dạng vốn tâm lý và vốn biểu tượng của doanh nghiệp, giúp giảm thiểu rủi ro cảm nhận, tăng cam kết và duy trì lòng trung thành khách hàng. Dù còn có sự khác biệt trong nhận định của các nhà nghiên cứu nhưng phần lớn đều khẳng định vai trò chiến lược của truyền thông CSR trong việc kiến tạo lợi thế cạnh tranh, nâng cao giá trị thương hiệu và hướng tới phát triển bền vững.
llcttt1994dientu@gmail.com
024.38348033
Bình luận