Công chúng truyền thông trong bối cảnh truyền thông số ở Việt Nam
Trong bối cảnh hiện nay, các công nghệ thuộc mô hình truyền thông mới đã và đang trở thành phổ biến tại các cơ quan báo chí truyền thông trên thế giới và Việt Nam. Theo đó, các công nghệ như internet vạn vật (IoT), dữ liệu lớn (Big Data); trí thông minh nhân tạo (AI) hay hội tụ truyền thông đã và đang được các cơ quan báo chí truyền thông ứng dụng hiệu quả. Các hoạt động này trải rộng từ các thiết bị đầu cuối đến hạ tầng truyền thông, từ mô hình quản lý đến quá trình sản xuất các sản phẩm báo chí truyền thông như ứng dụng trí thông minh nhân tạo để nhận diện và phân tích hành vi công chúng trên truyền hình hay điện thoại thông minh, các ứng dụng gợi ý nội dung hay tương tác với độc giả dựa trên giọng nói, gương mặt hay đồng bộ dữ liệu dựa trên phân tích dữ liệu lớn hoặc tối ưu hóa sản xuất, biên tập kiểm duyệt tự động hay triển khai các hoạt động truyền thông trên mạng xã hội và Internet.
1. Dòng sản phẩm báo chí dựa trên công nghệ số là sự thể hiện của xu hướng báo chí dữ liệu và báo chí sáng tạo nên công chúng đều có khả năng lựa chọn thông tin, tự phân tích và lý giải... Báo chí dựa trên công nghệ số với các đặc điểm phi tuyến tính trong cốt truyện, độc giả có thể tự do lựa chọn cách đọc của mình. Thậm chí với công nghệ kỹ thuật, công chúng có thể tự do tương tác với các yếu tố trong tác phẩm theo nhu cầu cá nhân, ngoài ra còn có thể trở thành chủ thể phát thông tin (chia sẻ, bình luận), trực tiếp tham gia và trở thành một yếu tố của quá trình truyền thông.
Trong báo chí, truyền thông, công nghệ truyền thông số tạo ra một cơ hội cho các cơ quan báo chí, truyền thông ứng dụng mạnh mẽ công nghệ thông tin trong tổ chức, sản xuất, phát hành các sản phẩm báo chí, truyền thông tới công chúng. Theo đó, công nghệ đa nền tảng trên cơ sở áp dụng đa nền tảng trong công nghệ thông tin để các cơ quan, tổ chức báo chí, truyền thông tổ chức hoạt động báo chí, truyền thông hiệu quả mà ít phụ thuộc vào các công nghệ.
Thông qua báo chí đa nền tảng, công chúng có thể tiếp cận tới thông tin thông qua nhiều nền tảng kỹ thuật số khác nhau như: truyền thông đại chúng, truyền thông Internet, mạng xã hội và truyền thông xã hội... Đặc biệt, các giải pháp kỹ thuật, công nghệ hầu hết dựa vào các nền tảng khác nhau để hỗ trợ các hoạt động của cơ quan báo chí, truyền thông khai thác tối đa tài nguyên của mình để phục vụ công chúng một cách hiệu quả nhất.
Khi Internet phát triển và tác động mạnh mẽ tới các cơ quan báo chí, truyền thông thì có nhiều nghiên cứu về xu thế của báo chí đa nền tảng dựa trên các hành vi của công chúng. Ban đầu, website được ưu tiên, sau đó là nội dung số để chỉ một chiến lược số cho tòa soạn cụ thể. Gần đây, thiết bị di động lại được ưu tiên cũng như ưu tiên phát thông tin tới mạng xã hội với mục tiêu sản xuất các sản phẩm báo chí, truyền thông hướng tới việc phù hợp với thiết bị di động, phù hợp với sự nhanh nhạy của truyền thông xã hội và mạng xã hội. Khi sử dụng công nghệ đa nền tảng, thông tin tự tìm đến công chúng thay vì công chúng phải tìm đến thông tin. Chỉ cần sử dụng một thiết bị công nghệ số, công chúng có thể thỏa mãn nhu cầu của bản thân từ tiếp nhận thông tin đến giao tiếp xã hội, giải trí và thực thi các nhu cầu cá nhân.
Bên cạnh đó, công nghệ đa nền tảng cũng giúp các cơ quan báo chí, truyền thông triển khai các nội dung có hình thức thể hiện phù hợp với các thiết bị mà công chúng sử dụng. Do đặc thù của mỗi nền tảng mà nội dung và hình thức trình bày cần khác nhau, ví dụ việc hiển thị nội dung trên Facebook, Youtube… sẽ khác nhau khi sử dụng các thiết bị khác nhau. Chính vì thế, cơ quan báo chí, truyền thông sẽ phải thay đổi cách viết, cách trình bày, hình thức thể hiện… để đáp ứng và phù hợp với công chúng. Đồng thời, các cơ quan báo chí cũng cần tính toán việc kết hợp các nền tảng trong một chỉnh thể thống nhất, cho phép các cơ quan báo chí, truyền thông khi phát hành nội dung trên các nền tảng khác nhau được liên kết thống nhất với sự tương tác với công chúng.
Ví dụ, khi công chúng xem video, đọc một bài báo trên máy tính xách tay thì cũng giống như khi sử dụng các thiết bị khác (như điện thoại thông minh chẳng hạn). Báo chí, truyền thông ứng dụng đa nền tảng đòi hỏi thông tin phải xuất hiện bất cứ nơi nào công chúng có mặt, chủ động đưa tin tới công chúng thay vì cách tiếp cận truyền thống là công chúng tìm đến thông tin. Điều này đang đưa báo chí, truyền thông trở về với nguyên tắc cơ bản nhất của mình, nguyên tắc coi độc giả là số một.
Ứng dụng đa nền tảng của cơ quan báo chí, truyền thông tập trung vào các khía cạnh: quản lý, tổ chức sản xuất sản phẩm báo chí, truyền thông và phát hành. Đối với việc quản lý, tổ chức sản xuất các sản phẩm, các cơ quan tổ chức báo chí, truyền thông khi ứng dụng các kỹ thuật, công nghệ cần bảo đảm sự thống nhất và hài hòa với các nền tảng áp dụng tại cơ quan, tổ chức của mình. Như khi áp dụng các hệ thống công nghệ thông tin khác nhau, cần chuẩn hóa các sản phẩm trên cơ sở phù hợp với đơn vị mình. Bên cạnh đó, đối với phát hành các sản phẩm báo chí, truyền thông thì các tuyến bài muốn tiếp cận được công chúng cần đa dạng hóa cách thức tiếp cận.
Thực tế cho thấy, công chúng ngày nay có thể tiếp cận thông tin không phụ thuộc vào thời gian, không gian và với nhiều hình thức khác nhau với nhiều nền tảng khác nhau như báo điện tử, phát thanh, truyền hình, postcad, mạng xã hội, truyền thông xã hội. Các nền tảng báo chí, truyền thông mới ra đời đòi hỏi các cơ quan báo chí, truyền thông cần xây dựng nhiều mạng lưới trang, các kênh chuyên biệt nhằm tiếp cận tối đa tới công chúng với xu hướng ứng dụng công nghệ và xây dựng các chiến lược mang tính dài hơi để mở rộng lĩnh vực phát hành thông tin trên cả báo in, báo điện tử, ứng dụng đọc báo trên thiết bị di động, trên mạng xã hội Facebook, Twitter (Fanpage, Page), các kênh Youtube, Tik Tok…
2. Công chúng truyền thông là một trong những chủ thể được quan tâm khi đề cập đến báo chí, truyền thông. Việc nắm rõ tính chất, đặc điểm và nhu cầu của công chúng truyền thông là một trong những yếu tố hàng đầu để đảm bảo hiệu quả truyền thông, đặc biệt là trong bối cảnh của truyền thống số và chuyển đổi số quốc gia hiện nay. Trong nghiên cứu về công chúng truyền thông thì phân khúc công chúng là một khái niệm nhằm giải quyết vấn đề đưa thông điệp truyền thông đến đúng công chúng mục tiêu của các cơ quan báo chí truyền thông. Thực tế cho thấy, việc lựa chọn đúng và phân khúc công chúng truyền thông hợp lý là tiền đề cho sự thành công của các chiến dịch truyền thông.
Trong lĩnh vực báo chí, truyền thông, khái niệm phân khúc công chúng là việc phân chia công chúng thành các tập hợp, các nhóm công chúng mục tiêu để phù hợp với mục tiêu truyền thông. Có nhiều cách phân loại công chúng, ví dụ sử dụng đặc điểm nhân khẩu học độ tuổi, giới tính, học vấn, vùng miền, tôn giáo hay tiêu chí tâm lý, vòng đời như các nhóm vị thành niên, nhóm thanh niên, nhóm trưởng thành…
Lý thuyết phân khúc công chúng được sử dụng rộng rãi trong báo chí truyền thông hay quan hệ công chúng, quảng cáo. Mục tiêu chính của các lý thuyết này là phân loại công chúng để xác định thông tin cốt lõi, nhu cầu và hành vi của công chúng để xây dựng các kế hoạch, chiến lược truyền thông phù hợp. Cách chia nhóm công chúng có ý nghĩa quan trọng trong thiết kế thông điệp, tổ chức thực hiện các chiến lược, kế hoạch, chiến dịch truyền thông và đánh giá, đo lường hiệu quả của hoạt động truyền thông. Thực tiễn cho thấy, việc lựa chọn cách thức phân khúc công chúng là cơ sở để quyết định có triển khai một chương trình, một ấn phẩm truyền thông hay không.
3. Nhu cầu tiếp nhận thông tin của công chúng truyền thông. Cùng với sự phát triển của ngành báo chí, truyền thông dưới tác động của tiến trình chuyển đổi số quốc gia, nhu cầu thông tin của công chúng ngày một cao. Để đáp ứng nhu cầu này, các thiết chế truyền thông đã không ngừng thay đổi, tái cơ cấu và chuyển đổi số để thỏa mãn các nhu cầu của công chúng. Trong bối cảnh mới, môi trường truyền thông ngày càng đa dạng, đa chiều và phong phú thì công chúng đã thay đổi từ chủ thể tiếp nhận thụ động trở thành các chủ thể tiếp nhận chủ động. Họ trực tiếp tham gia vào quá trình truyền thông và có quyền tham gia trực tiếp vào việc lựa chọn thông tin.
Công nghệ số tạo ra các phương tiện truyền thông mới, loại hình truyền thông mới, cho phép thiết lập các quan hệ giao tiếp hai chiều, trực tiếp từ nguồn phát đến công chúng và ngược lại. Mô hình truyền thông hai chiều và đa chiều ra đời dưới sự bùng nổ của truyền thông xã hội và truyền thông Internet khiến công chúng từ đối tượng chỉ tiếp nhận thông điệp thành đối tượng được lựa chọn thông điệp, bày tỏ mong muốn và yêu cầu thông tin cũng như tham gia như một thành tố quyết định trong quá trình vận hành của mô hình truyền thông.
Thực tiễn cho thấy, công chúng truyền thông có vai trò đặc biệt quan trọng, họ là người nuôi dưỡng, đánh giá và thẩm định cuối cùng, tham gia vào sự sống còn của các thiết chế truyền thông. Nhu cầu của công chúng truyền thông là luôn muốn được nguồn thông tin chính xác, bất cứ khi nào họ muốn, lựa chọn bất kỳ loại hình truyền thông nào mà họ thấy thuận tiện, đồng thời họ luôn lựa chọn các nội dung và chủ đề theo nhu cầu của mình.
Theo nhiều nghiên cứu, người Việt Nam có thời gian và tần suất sử dụng internet thuộc hàng những nước nhiều nhất khu vực. Trong đó, công chúng trẻ có xu hướng sử dụng các kênh truyền thông xã hội để tiếp cận thông tin. Thực tiễn cho thấy, công chúng trẻ có xu hướng sử dụng báo mạng và nguồn tin trực tuyến và nhóm này có xu hướng gia tăng do sự kéo theo, học hỏi của nhóm phân khúc công chúng truyền thống. Đây cũng là lý do nhiều cơ quan báo chí, truyền thông ở Mỹ đã chuyển dần sang các hình thức phát hành trực tuyến, thông qua nền tảng Internet thay vì các phương thức phát hành truyền thống. Đồng thời, các hành vi của công chúng trẻ cũng được công chúng ở các lứa tuổi khác nhau học tập, kéo theo sự phát triển của các sản phẩm báo chí - truyền thông nhằm phù hợp với nhu cầu và thị hiếu của tất cả công chúng.
Thực tế hiện nay, phân khúc công chúng trẻ (từ 19 đến 24 tuổi) có xu hướng sử dụng các phương tiện truyền thông mới, truyền thông xã hội và có thái độ hoài nghi với các phương tiện truyền thông truyền thống, trong khi đó, phân khúc công chúng lớn tuổi (từ 45 đến 54 tuổi) chủ yếu sử dụng các phương tiện truyền thông truyền thống.
Một trong những tác động đối với công chúng trẻ đó là do các phương tiện truyền thông mới với sự hỗ trợ của công nghệ cho phép công chúng trẻ tiếp cận ngày càng mạnh mẽ tới các sản phẩm truyền thông theo yêu cầu. Các cơ quan báo chí, truyền thông cũng cần thay đổi phương thức cung cấp thông tin và lựa chọn thông tin theo nhu cầu(1).
Khi nhu cầu tiếp cận thông tin của công chúng truyền thông tăng lên thì các cơ quan báo chí truyền thông cần sản xuất, cung cấp đa dạng hóa các nội dung, cung cấp kịp thời các thông tin mới, chính xác. Đặc biệt, trong bối cảnh hiện nay, công chúng truyền thông đang bị bao vây bởi các thông tin nhiễu loạn, thất thiệt, giả mạo từ nhiều nguồn khác nhau, như truyền thông internet và mạng xã hội. Chính vì thế, khả năng cung cấp thông tin các cơ quan báo chí truyền thông cần được mở rộng, linh hoạt với quy mô lớn, đồng thời việc phát hành, phân phối nội dung cũng phải mở rộng dựa trên mô hình đa nền tảng nhưng vẫn bảo đảm nhất quán và đồng bộ về thông tin và thông điệp truyền thông.
4. Điều kiện và trình độ tiếp cận các phương tiện truyền thông của công chúng truyền thông. Các sản phẩm báo chí, truyền thông mới ra đời và phát triển cùng với sự phát triển của công nghệ thông tin. Chính vì vậy, để có thể tiếp cận được phương tiện truyền thông này, công chúng buộc phải có điều kiện và trình độ nhất định: (1) công chúng cần phải sở hữu những thiết bị hiện đại như máy tính để bàn, máy tính xách tay, điện thoại thông minh và máy tính bảng. Những thiết bị này cần có kết nối internet với tốc độ đủ mạnh để công chúng có thể tiếp cận hình ảnh và âm thanh một cách đầy đủ và rõ nét; (2) công chúng cần có những kỹ năng công nghệ thông tin cơ bản để thao tác trên thiết bị của mình, nhằm tiếp cận được thông tin cần thiết.
Sự hình thành, phát triển của các phương tiện truyền thông mới dựa trên công nghệ số khiến cho các hoạt động tiếp nhận thông tin của công chúng ngày càng thay đổi. Trong truyền thông số, sự phân biệt chủ thể truyền thông chỉ mang tính tương đối. Công chúng trong khả năng sử dụng kỹ thuật công nghệ của mình, không chỉ tiếp nhận thông tin mà còn quảng bá thông tin. Các khái niệm mới ra đời do sự tiếp cận của công chúng khi sử dụng các thiết bị kỹ thuật và công nghệ “nội dung tạo ra bởi công chúng”...
Trong truyền thông hiện đại, không có một chiến dịch hay thông điệp truyền thông nào dành cho tất cả công chúng. Truyền thông xã hội và truyền thông Intenet đã đặc biệt chú trọng tới cá nhân hóa, phụ thuộc vào thiết bị của người sử dụng để tạo ra các sản phẩm cá nhân hóa để đưa thông tin đến với công chúng theo cách công chúng muốn. Công nghệ truyền thông số cũng tạo nên yêu cầu các cơ quan, tổ chức báo chí, truyền thông quan tâm các thị trường ngách để đáp ứng yêu cầu của nhóm công chúng chuyên biệt. Chính vì thế, các cơ quan, tổ chức báo chí cần xây dựng các chiến lược sản xuất nội dung của mình.
Sự phát triển các loại hình báo chí có khả năng thích ứng trong kỷ nguyên số cần coi nội dung là thành phần cốt yếu tạo nên các sản phẩm báo chí. Các cơ quan báo chí cần trả lời các câu hỏi: Nội dung nào cần sản xuất? Công chúng mong đợi gì từ nội dung đó? Tại sao công chúng cần chú ý hay trả tiền cho nội dung đó? Câu chuyện nào đang được “kể” trong nội dung này.
Đặc điểm này xuất phát từ hai yếu tố:
Thứ nhất, dòng sản phẩm này với tính tức thời và phi định kỳ đã đặt vấn đề thời sự lên hàng đầu trong cuộc chạy đua thông tin giữa các tờ báo, giữa các loại hình báo chí và với mạng xã hội. Do yêu cầu về tính thời sự, nên đặc điểm của thông tin trên báo mạng điện tử phải cô đọng, súc tích. Đồng thời, với đa số là những thông tin bề mặt, công chúng có nhu cầu được hiểu sâu. Ví dụ, đối với công chúng tìm đến sản phẩm megastory sẽ là những người có nhu cầu đọc chi tiết và đọc sâu. Với dòng sản phẩm megastory, tâm lý tiếp nhận thông tin của công chúng sẽ được thể hiện kể cả hành vi đọc và hành vi xem. Thông thường ở các sản phẩm báo mạng điện tử, tâm lý tiếp nhận của công chúng thường ở hành vi xem vì công chúng chỉ muốn xem lướt thông tin và có quỹ thời gian hạn hẹp. Tuy nhiên, với megastory, việc quyết định hành vi đọc nằm tại nhu cầu tiếp nhận thông tin sâu.
Thứ hai, công chúng của dòng sản phẩm báo chí dựa trên công nghệ số thường không bị bó buộc về quỹ thời gian cũng như không gian truy cập, vì đây là cơ sở để quyết định thái độ đọc của độc giả có sâu hay không. Mỗi độc giả có những tiêu chí riêng của mình trong việc lựa chọn đọc cái gì. Khi công chúng có nhu cầu đọc chi tiết, đọc sâu một vấn đề họ thường không bị chi phối về mặt thời gian. Công chúng có thể lựa chọn nhiều loại sản phẩm báo chí khác nhau vì tâm lý tiếp nhận tương tự như việc họ đọc tạp chí (đối với báo in). Khi độc giả cầm một tờ báo, quá trình dẫn đến đọc trọn vẹn một bài báo thường diễn ra theo ba giai đoạn gồm: xem lướt, quyết định lựa chọn và đọc.
Tính tự do trong lựa chọn của công chúng là điểm người làm báo phải thừa nhận và tôn trọng, nhất là với những độc giả có động cơ và mục đích rõ ràng trong việc lựa chọn những thông tin chất lượng. Nếu như công chúng đến với báo mạng điện tử để tiếp nhận một lượng thông tin khổng lồ và độc giả của báo mạng điện tử là những người có nhu cầu cao về thông tin, thì công chúng đối với dòng sản phẩm báo chí dựa trên công nghệ số, dù vẫn mang các đặc điểm của công chúng báo mạng điện tử, còn là những người có nhu cầu thông tin chuyên biệt.
Trong dòng chảy phát triển của truyền thông số, không ít công chúng có nhu cầu tiếp nhận những thông tin chuyên sâu, hữu ích, hàm lượng tri thức cao, có khả năng tham khảo, áp dụng trong từng lĩnh vực, từng nhánh đối tượng cụ thể, chuyên biệt trên báo mạng điện tử.
Điều giúp nhóm công chúng này lựa chọn đọc báo chí dựa trên công nghệ số trên báo mạng điện tử thay vì các loại hình báo chí hay dòng sản phẩm khác là bởi những thông tin chuyên biệt được thể hiện dưới nền tảng đa phương tiện sinh động và hấp dẫn. Đặc điểm này cũng cho thấy nhóm công chúng của dòng sản phẩm báo chí dựa trên công nghệ số sẽ phù hợp với nhóm công chúng trí thức trẻ, họ vừa là những người có nhu cầu về thông tin chuyên biệt, có nhu cầu đọc sâu, vừa là những người có điều kiện tiếp nhận và khả năng nhạy bén, thích ứng với công nghệ.
5. Nghiên cứu công chúng là một trong những yêu cầu quan trọng để góp phần vào triển khai thực hiện thành công đường lối, chủ trương của Đảng, đặc biệt trong lĩnh vực báo chí, truyền thông. Thực tiễn cho thấy, báo chí cách mạng Việt Nam là phương tiện thông tin thiết yếu đối với đời sống xã hội; là cơ quan ngôn luận của cơ quan đảng, cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp; là diễn đàn của nhân dân.
Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng đã đề ra nhiệm vụ xây dựng nền báo chí cách mạng, chuyên nghiệp, nhân văn và hiện đại, đồng thời cũng khẳng định phải tăng cường định hướng, quản lý các cơ quan báo chí, tập trung đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý báo chí, phóng viên, biên tập viên, cộng tác viên có bản lĩnh chính trị, có phẩm chất đạo đức trong sáng, tinh thông nghiệp vụ, nâng cao hiệu quả của công tác tuyên truyền.
Cùng với đó, Chính phủ cũng đã ban hành Quyết định số 348/QĐ-TTg ngày 6/4/2023 phê duyệt Chiến lược “Chuyển đổi số báo chí đến năm 2025, định hướng đến năm 2030” cũng khẳng định “chuyển đổi số báo chí nhằm mục tiêu xây dựng các cơ quan báo chí theo hướng chuyên nghiệp, nhân văn, hiện đại; làm tốt sứ mệnh thông tin tuyên truyền phục vụ sự nghiệp cách mạng của Đảng, sự nghiệp đổi mới của đất nước; bảo đảm vai trò dẫn dắt, định hướng dư luận xã hội, giữ vững chủ quyền thông tin trên không gian mạng; đổi mới hiệu quả trải nghiệm của độc giả; tạo nguồn thu mới; thúc đẩy phát triển ngành công nghiệp nội dung số”(2).
Theo đó, nghiên cứu công chúng là một trong những lĩnh vực cần được quan tâm để bảo đảm sự thành công của quá trình chuyển đổi số báo chí truyền thông. Công chúng truyền thông là đối tượng mục tiêu của báo chí cách mạng Việt Nam, thể hiện tính quần chúng ở cả nội dung và hình thức, cả mục đích và hoạt động. Do đó, các cơ quan báo chí, truyền thông cần theo sát công chúng truyền thông để triển khai các hoạt động của mình, đồng thời tạo điều kiện để họ tham gia giám sát, đánh giá hiệu quả của báo chí, truyền thông, coi các cơ quan báo chí, truyền thông là cơ quan để quần chúng phát huy quyền làm chủ, quyền tự do ngôn luận đúng pháp luật.
Trong nền báo chí cách mạng Việt Nam, công chúng truyền thông vừa là đối tượng truyền thông mục tiêu vừa là chủ thể phản ánh tâm tư, nguyện vọng cũng như phản biện xã hội đối với các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước.
Một số gợi mở về phương hướng, giải pháp nhằm nâng cao năng lực công chúng truyền thông trong bối cảnh chuyển đổi số ở Việt Nam như sau:
Thứ nhất, đối với các cơ quan báo chí, truyền thông. Bám sát chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước về báo chí, truyền thông. Với cơ sở là Luật Báo chí năm 2016, Quyết định số 362/QĐ-TTg ngày 03/4/2019 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Quy hoạch phát triển và quản lý báo chí toàn quốc đến năm 2025, Quyết định số 348/QĐ-TTg ngày 6/4/2023 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược “Chuyển đổi số báo chí đến năm 2025, định hướng đến năm 2030”, theo đó các cơ quan báo chí, truyền thông cần không chỉ tập trung nền tảng báo in, truyền hình hay website, mà còn phải đồng thời cung cấp thông tin cho các phiên bản máy tính bảng, điện thoại di động theo thiết kế chuyển đổi linh hoạt.
Ngoài ra, các cơ quan này cần cung cấp sản phẩm truyền thông hướng tới các nền tảng hiện chưa thông dụng và chưa thành sản phẩm thương mại, ví dụ như các thiết bị đeo trên người (wearables). Báo chí đa nền tảng là lựa chọn tốt để các cơ quan báo chí truyền thông cung cấp các sản phẩm báo chí, truyền thông có thể được sản xuất, xuất bản không phụ thuộc vào loại hình hay phương tiện truyền thông, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của công chúng truyền thông đối với các sản phẩm báo chí.
Sự tác động rõ rệt của công nghệ đối với cơ quan, tổ chức báo chí, truyền thông là không thể phủ nhận. Trong kỷ nguyên số, dòng chảy thông tin được luân chuyển 24 giờ/ngày trong suốt 365 ngày của năm không phụ thuộc vào không gian, thời gian hay khoảng cách địa lý, thông qua nhiều kênh thông tin khác nhau. Với nhiều nguồn thông tin khác nhau đòi hỏi các cơ quan, tổ chức báo chí, truyền thông cũng phải từng bước thay đổi để đáp ứng tình hình mới. Trong bối cảnh mới, thông tin sẽ luân chuyển theo thời gian thực mà không phụ thuộc vào bối cảnh hay cách thức tổ chức của cơ quan báo chí, truyền thông.
Thứ hai, đối với cơ quan quản lý nhà nước. Các loại hình báo chí mới ra đời, các kênh truyền thông mới hình thành mà không bị chi phối bởi thời gian, không gian hay khoảng cách cũng đặt các cơ quan quản lý nhà nước về báo chí, truyền thông của Việt Nam trước các thách thức, khó khăn mới, đồng thời cũng là cơ hội cho các cơ quan này tiếp cận nhanh hơn các phương thức quản lý hoạt động báo chí, truyền thông theo hướng hiện đại, hiệu quả hơn, dựa trên nền tảng của công nghệ số. Bên cạnh đó, cần hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật trong lĩnh vực công nghệ số, một số văn bản còn lạc hậu, gây khó khăn cho công tác quản lý…
Trong kỷ nguyên chuyển đổi số, báo chí, truyền thông ngày càng cần phát huy hơn nữa vai trò của mình trong lĩnh vực tư tưởng, văn hóa và góp phần bình ổn các hoạt động kinh tế, chính trị, xã hội. Thực tế cho thấy, mặc dù Nhà nước đã và đang đầu tư khá lớn cho báo chí với các cơ cấu ngân sách gồm: ngân sách nhà nước cho phát thanh, truyền hình, báo in, báo điện tử nhưng trong bối cảnh truyền thông số, Nhà nước cần có nguồn lực cụ thể, có chính sách huy động nguồn lực phục vụ cho các cơ quan, tổ chức báo chí, truyền thông thực hiện chuyển đổi số.
Bên cạnh đó, ảnh hưởng của truyền thông số cũng làm cho các cơ quan quản lý nhà nước nhận thức rõ vấn đề về sự cần thiết trong hoàn thiện hành lang pháp lý. Điều này đòi hỏi cần thống nhất nhận thức và chỉ đạo của Đảng đối với báo chí, truyền thông, đồng thời cần có một hệ thống văn bản quy phạm pháp luật đồng bộ trong lĩnh vực báo chí, truyền thông. Cần xây dựng các quy định cụ thể, rõ ràng nhằm điều chỉnh tốt hơn chức năng, nhiệm vụ, cơ chế phối hợp của các cơ quan quản lý nhà nước, hoàn thiện việc tổ chức thực thi pháp luật báo chí và tổ chức thanh tra, kiểm tra thường xuyên, nhanh nhạy để kịp thời ngăn chặn, xử lý những vi phạm pháp luật về báo chí, truyền thông.
Thứ ba, đối với nâng cao nhận thức của công chúng, người dân. Công chúng là thành tố thiết yếu trong mô hình truyền thông truyền thống cùng với các chủ thể truyền thông, kênh, thông điệp, nhiễu và phản hồi. Với các sản phẩm báo chí, truyền thông thời công nghệ số, việc nghiên cứu công chúng cần phải được xem xét thông qua các đặc điểm của công chúng và tâm lý tiếp nhận của công chúng.
Mặt khác, các sản phẩm báo chí, truyền thông dưới ảnh hưởng của công nghệ số là một dòng sản phẩm theo xu hướng báo chí công nghệ, dựa trên việc khai thác các thế mạnh của đa dạng dữ liệu, có nội dung chuyên sâu trên nền tảng đa phương tiện nên quá trình nhận diện công chúng của dòng sản phẩm này vừa thể hiện các đặc điểm tâm lý của công chúng báo trên không gian mạng, vừa thể hiện tâm lý tiếp nhận của các loại hình báo chí truyền thống.
Sự giao thoa về mặt nhu cầu của công chúng là điều kiện vô cùng thuận lợi để các dòng sản phẩm này phát huy lợi thế của mình trong hoạt động tiếp nhận sản phẩm báo chí của công chúng, trở thành một dòng sản phẩm đáp ứng những nhu cầu mới của công chúng trong bối cảnh hiện nay./.
_______________________________________________
(1) Hiện Việt Nam có 77,93 triệu người dùng Internet, chiếm tỷ lệ 79,1% dân số, đứng thứ 6 trong tổng số 35 quốc gia/vùng lãnh thổ khu vực châu Á, theo We are Social, 2023.
(2) Quyết định số 348/QĐ-TTg ngày 6/4/2023 phê duyệt Chiến lược “Chuyển đổi số báo chí đến năm 2025, định hướng đến năm 2030”.
Nguồn: Bài đăng trên Tạp chí Lý luận chính trị điện tử ngày 21/6/2023
Bài liên quan
- Sử dụng công nghệ trí tuệ nhân tạo trong sản xuất chương trình truyền hình
- Xuất bản điện tử và đào tạo nhân lực xuất bản điện tử trong giai đoạn hiện nay
- Ứng dụng truyền thông sáng tạo trong quảng bá di sản văn hóa tại Việt Nam
- Quảng bá hình ảnh Việt Nam ra thế giới qua báo điện tử VietnamPlus
- Ứng dụng công nghệ truyền thông nhìn từ xu hướng "selfie" trên mạng xã hội
Xem nhiều
- 1 Video Tư liệu: Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông 30 năm xây dựng và phát triển
- 2 Về con đường đi tới của Việt Nam, quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ và tầm nhìn cho kỷ nguyên mới
- 3 Bài viết “Đôi điều suy nghĩ về làm tạp chí lý luận chính trị của Đảng” của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng với việc rèn luyện nâng cao năng lực và phẩm chất người làm tạp chí lý luận chính trị hiện nay
- 4 Xu hướng hòa bình, hợp tác, phát triển trên thế giới và vai trò của Việt Nam hiện nay
- 5 Củng cố niềm tin, khơi dậy ý chí tự lực, tự cường của sinh viên trong xây dựng và phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc
- 6 Nâng cao năng lực tư duy phản biện cho người học trong đào tạo người làm báo ở các trường đại học Việt Nam hiện nay
Liên kết
- Báo điện tử đảng cộng sản việt nam
- Báo nhân dân
- Báo Quân đội nhân dân
- Cổng thông tin điện tử Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Cổng thông tin điện tử Học viện Chính trị quốc gia hồ chí minh
- Tạp chí Cộng sản
- Tạp chí Giáo dục lý luận
- Tạp chí Giáo dục và Xã hội
- Tạp chí Khoa học xã hội và Nhân văn
- Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam
- Tạp chí Lý luận chính trị
- Tạp chí Nghiên cứu con người
- TẠP CHÍ Nghiên cứu dân tộc
- Tạp chí Người làm báo
- Tạp chí Nội chính
- Tạp chí Quản lý Nhà nước
- Tạp chí Tổ chức Nhà nước
- Tạp chí Tuyên giáo
- Tạp chí Xây Dựng Đảng
- Thư viện số Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Trang thông tin điện tử Hội đồng Lý luận Trung ương
Quá trình phát triển đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ của Đảng ta trong gần 40 năm đổi mới
Ý chí độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường luôn trở thành động lực mạnh mẽ trong lịch sử hàng nghìn năm của dân tộc. Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng của Đảng kể từ khi ra đời năm 1930 đến nay, đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ luôn được Đảng ta đặt ra thường xuyên. Trải qua gần 40 năm đổi mới, đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ của Đảng ngày càng được nhận thức, bổ sung sâu sắc, đầy đủ hơn, phản ánh năng lực tư duy và tầm trí tuệ lãnh đạo đất nước, đáp ứng yêu cầu xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.
Sử dụng công nghệ trí tuệ nhân tạo trong sản xuất chương trình truyền hình
Sử dụng công nghệ trí tuệ nhân tạo trong sản xuất chương trình truyền hình
Trong bối cảnh cách mạng công nghệ như hiện nay, việc ứng dụng trí tuệ nhân tạo (AI) vào sản xuất chương trình truyền hình đang trở nên ngày càng được quan tâm. Công nghệ AI tăng khả năng tổng hợp, phân tích dữ liệu và cá nhân hóa trải nghiệm người dùng, thúc đẩy sự chuyển đổi mạnh mẽ trong ngành báo chí, truyền hình. Các đơn vị sản xuất truyền hình hiện nay đang phải nhanh chóng thích ứng với môi trường số, chuyển từ sản xuất truyền thống sang các quy trình hiện đại và hiệu quả hơn. Công nghệ AI không chỉ mang lại tốc độ và hiệu quả trong sản xuất chương trình truyền hình mà còn mở ra cơ hội sáng tạo và thách thức, đòi hỏi sự linh hoạt và sáng tạo từ người làm báo chí.
Xuất bản điện tử và đào tạo nhân lực xuất bản điện tử trong giai đoạn hiện nay
Xuất bản điện tử và đào tạo nhân lực xuất bản điện tử trong giai đoạn hiện nay
Xuất bản là một ngành đặc thù khi tính chính trị, văn hóa tư tưởng, truyền thông đại chúng đan xen với hoạt động kinh doanh xuất bản phẩm. Người làm xuất bản vừa phải đáp ứng mục tiêu chính trị, vừa giải quyết các bài toán về kinh tế. Trong giai đoạn phát triển cách mạng công nghệ 4.0 cùng sự thay đổi nhu cầu của thị trường cũng khiến cho ngành xuất bản xuất hiện những xu thế mới mà người dạy và học ngành xuất bản cần nhìn nhận và có những thay đổi thích hợp trong hoạt động đào tạo.
Ứng dụng truyền thông sáng tạo trong quảng bá di sản văn hóa tại Việt Nam
Ứng dụng truyền thông sáng tạo trong quảng bá di sản văn hóa tại Việt Nam
“Chương trình Bảo tồn và phát huy bền vững giá trị di sản văn hóa Việt Nam, giai đoạn 2021 - 2025” của Chính phủ đã nêu rõ triển khai ứng dụng công nghệ thông tin trong di sản văn hóa là một trong sáu nhiệm vụ quan trọng, cốt lõi. Trong đó, cần đẩy mạnh việc ứng dụng các khoa học công nghệ trong công tác số hóa, xây dựng dữ liệu quốc gia về di sản văn hóa và phát triển các ứng dụng công nghệ số như: tham quan ảo, triển lãm trực tuyến... nhằm nâng cao trải nghiệm, thúc đẩy hoạt động truyền thông, quảng bá. Đồng thời trong Dự thảo Luật Di sản văn hóa sửa đổi, được trình Quốc hội thông qua trong năm 2023 đã bổ sung các quy định về ứng dụng công nghệ thông tin trong việc bảo tồn, phát huy và quảng bá giá trị di sản văn hóa. Qua đó, có thể thấy rằng việc ứng dụng công nghệ để tạo ra những sản phẩm truyền thông sáng tạo đang trở thành một công cụ hữu hiệu để quảng bá và xây dựng thương hiệu điểm đến du lịch, góp phần to lớn trong việc nâng cao hiệu quả truyền thông, quảng bá di sản văn hóa tại Việt Nam.
Quảng bá hình ảnh Việt Nam ra thế giới qua báo điện tử VietnamPlus
Quảng bá hình ảnh Việt Nam ra thế giới qua báo điện tử VietnamPlus
Trong những năm gần đây, các quốc gia trên thế giới đều nhận thức rõ ràng về tầm quan trọng của việc xây dựng và quảng bá hình ảnh quốc gia. Quảng bá hình ảnh quốc gia được thực hiện thông qua nhiều phương tiện và phương thức khác nhau, trong đó, báo chí đối ngoại được xem như là công cụ chủ đạo, là vũ khí sắc bén để bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, tuyên truyền hình ảnh Việt Nam với thế giới. Trong thời gian tới, để nâng cao hiệu quả quảng bá hình ảnh Việt Nam trên các kênh truyền thông quốc tế, cần thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp. Trong đó, cần phát huy hiệu quả việc quảng bá hình ảnh quốc gia trên báo điện tử VietnamPlus.
Bình luận