Phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội ở đô thị Việt Nam - Một số vấn đề đặt ra và giải pháp thúc đẩy
1. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội ở đô thị
Trên thế giới hiện có nhiều lý thuyết và quan điểm khác nhau về phát triển xã hội đô thị: thành phố sống tốt, thành phố toàn cầu, thành phố phát triển bền vững, thành phố thông minh...và nhiều cách đánh giá khác nhau. Tuy có nhiều điểm khác biệt, nhưng nhìn chung khi nói đến phát triển xã hội đô thị các nhà nghiên cứu luôn đề cập đến sự phát triển hài hòa giữa kinh tế, môi trường và xã hội một cách bền vững với mục tiêu cuối cùng là đời sống cư dân đô thị phải khá giả hơn lên, sống tiện nghi hơn, sự hài lòng và hạnh phúc hơn. Tất cả những tiêu chí này nên là cơ sở tham khảo để có thể đề ra một triết lý phát triển đô thị có sự hài hòa phù hợp giữa tiêu chí văn minh hiện đại với đặc điểm văn hóa ở Việt Nam hiện nay.
Theo báo cáo của Bộ Xây dựng, tính đến năm 2018, Việt Nam có tổng số 833 đô thị, bao gồm: 2 đô thị loại đặc biệt, 19 đô thị loại I, 29 đô thị loại II, 45 đô thị loại III, 80 đô thị loại IV, 658 đô thị loại V(1).
Phát triển xã hội đô thị ở Việt Nam hiện nay đang nổi lên một số đặc điểm cơ bản như: 1) đô thị là nơi tập trung nhiều vấn đề xã hội mang tính quốc gia và toàn cầu; 2) các loại quan hệ xã hội ở đô thị có hướng “chức năng - đoàn kết hữu cơ”; 3) đề cao mỗi cá nhân công dân và tổ chức có những trách nhiệm và nghĩa vụ của mình đối với xã hội; 4) văn hóa ở đô thị được kế thừa và phát triển với bản sắc dân tộc và hội nhập với thế giới; 5) đô thị có tỷ lệ nghịch về diện tích và mật độ dân số so với khu vực nông thôn; 6) đô thị là trung tâm văn hóa, chính trị, kinh tế, giáo dục, khoa học - công nghệ, an ninh quốc gia, đầu mối giao thông quan trọng của đất nước; 7) đô thị là nơi tập trung nhiều công trình kiến trúc đặc trưng, đa dạng và phức tạp; 8) tỷ lệ người dân đô thị có trình độ chuyên môn, tay nghề lao động cao hơn nông thôn; 9) lối sống văn hóa đô thị là lối sống hợp cư, đa dạng và nhiều biến động... Chính những đặc điểm quan trọng này sẽ quyết định nội dung, phương thức và mục tiêu quản lý phát triển xã hội ở đô thị.
Quản lý phát triển xã hội ở đô thị thực hiện các chính sách nhằm giải quyết tốt mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và thực hiện công bằng xã hội, phát triển con người, phát triển xã hội đô thị theo chiều sâu nhằm nâng cao chất lượng sống ở đô thị về mức sống vật chất, môi trường tự nhiên sinh thái, đời sống văn hóa, tinh thần; quan hệ cộng đồng xã hội, lối sống lành mạnh phù hợp cho mọi nhóm xã hội. Quản lý phát triển xã hội đô thị là cách thức tổ chức, xây dựng các mối liên hệ, các kiểu cộng đồng xã hội trong không gian đô thị. Quản lý phát triển xã hội đô thị bao hàm trong nó tất cả những thiết chế, thể chế và pháp luật hiện hành, hữu hình và vô hình... Hai nội dung trên liên quan chặt chẽ với nhau.
Trong Dự thảo Văn kiện Đại hội XIII, Đảng ta đặt ra mục tiêu tổng quát trong phát triển xã hội đô thị là: đẩy nhanh tốc độ và nâng cao chất lượng đô thị hóa; xây dựng cơ chế, chính sách thúc đẩy phát triển đô thị và kinh tế đô thị; cơ bản hoàn thành hệ thống thể chế, cơ chế, chính sách, công cụ quản lý xây dựng mô hình chính quyền đô thị gắn với quản trị đô thị hiệu quả, nâng cao năng lực cạnh tranh, từng bước nâng cao chất lượng phát triển đô thị cả về kinh tế, xã hội, kết cấu hạ tầng, kiến trúc, nhà ở, chất lượng sống của người dân. Đổi mới nâng cao chất lượng quy hoạch; phát triển đô thị có tầm nhìn dài hạn; hình thành một chuỗi đô thị thông minh tại các khu vực kinh tế trọng điểm phía Bắc, phía Nam và miền Trung; từng bước kết nối với mạng đô thị thông minh trong khu vực và thế giới; xây dựng các đô thị theo hướng đô thị xanh, văn minh, có bản sắc và có tính tiên phong, dẫn dắt các hoạt động đổi mới sáng tạo, trở thành động lực của phát triển. Cơ bản hoàn thành xây dựng hệ thống hạ tầng khung của các đô thị trung tâm cả nước và các vùng đồng bằng, hiện đại, đủ năng lực phục vụ các công trình giao thông kết nối các đô thị. Tăng tính kết nối giữa các đô thị trong nước và khu vực; gắn kết phát triển đô thị và phát triển nông thôn. Xây dựng cơ chế minh bạch đánh giá giá trị đất đai, bất động sản theo cơ chế thị trường. Giải quyết cơ bản yêu cầu về nhà ở cho cư dân đô thị, mở rộng các loại hình nhà ở xã hội. Đến năm 2030, phấn đấu đạt 30 m2 sàn nhà ở bình quân đầu người(2). Đồng thời, Dự thảo Văn kiện Đại hội XIII cũng đưa ra các mục tiêu cụ thể trong phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội đô thị. Bao gồm:
Một là, xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại cả về kinh tế và xã hội, ưu tiên phát triển các công trình giao thông trọng điểm, hạ tầng các đô thị lớn, hạ tầng năng lượng, các công trình ứng phó với biến đổi khí hậu; chú trọng phát triển hạ tầng thông tin, viễn thông, tạo nền tảng phát triển kinh tế số(3).
Hai là, đổi mới mạnh mẽ và nâng cao chất lượng quy hoạch đô thị, hệ thống quy chuẩn, tiêu chuẩn, định mức, đơn giá về quy hoạch và đầu tư xây dựng đô thị phù hợp với xu hướng phát triển đô thị thông minh, xanh, thích ứng với biến đổi khí hậu, sử dụng hợp lý, hiệu quả tài nguyên và nguồn lực. Xây dựng và triển khai thực hiện quy hoạch phát triển đô thị và nông thôn quốc gia. Phấn đấu có ít nhất 3 đô thị thông minh tại 3 vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc, phía Nam và miền Trung(4).
Ba là, tổ chức bộ máy của chính quyền địa phương được sắp xếp lại theo hướng tinh gọn, quan tâm xây dựng chính quyền đô thị, chính quyền nông thôn, khẩn trương triển khai chính quyền điện tử(5).
Bốn là, đến năm 2025, tỷ lệ sử dụng nước sạch, hợp vệ sinh của dân cư thành thị là 95-100% và nông thôn là 93-95%; tỷ lệ thu gom và xử lý chất thải rắn sinh hoạt đô thị bảo đảm tiêu chuẩn, quy chuẩn đạt 92%(6).
2. Một số vấn đề đặt ra trong phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội ở đô thị Việt Nam hiện nay
Dự thảo Văn kiện Đại hội XIII đã khẳng định những kết quả trong thực hiện mục tiêu phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội ở đô thị ở Việt Nam hiện nay. Đó là, hệ thống đô thị tăng nhanh về số lượng, mở rộng về quy mô, dần hình thành mạng lưới đô thị, góp phần tạo động lực cho tăng trưởng kinh tế. Đã chú trọng xây dựng, nâng cao chất lượng đô thị theo hướng đồng bộ, xanh, thân thiện với môi trường, thích ứng với biến đổi khí hậu. Tỷ lệ đô thị hóa tăng từ 30,5% năm 2010 lên 40% năm 2020. Mạng lưới đô thị phân bố tương đối đồng đều, trở thành hạt nhân, động lực thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của từng vùng và cả nước. Các đô thị lớn, nhất là Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh đã trở thành cực tăng trưởng chủ đạo, lan tỏa tri thức, đổi mới sáng tạo, đẩy mạnh cạnh tranh hội nhập quốc tế, đa dạng hóa các hoạt động kinh tế, tác động lớn đến sự phát triển của nền kinh tế thị trường năng động(7). Hạ tầng đô thị được quan tâm đầu tư, nhất là các thành phố lớn, nhiều công trình tuyến chính ra vào thành phố, các trục giao thông hướng tâm, các tuyến tránh đô thị, các đường vành đai đô thị, các cầu lớn và nút giao lập thể được đầu tư xây dựng. Các chương trình cấp thoát nước, xử lý chất thải rắn được tập trung đầu tư, đạt kết quả bước đầu(8).
Tuy nhiên, Dự thảo Văn kiện cũng chỉ rõ: chất lượng phát triển đô thị chưa cao; hệ thống kết cấu hạ tầng thiếu đồng bộ, nhất là giao thông, thoát nước, xử lý nước thải, rác thải, hạ tầng xã hội; năng lực, trình độ quản lý thấp, chậm đổi mới; còn tình trạng ùn tắc giao thông, úng ngập, ô nhiễm môi trường, nhiều nơi thiếu, quá tải dịch vụ xã hội... Đô thị hóa đất đai nhanh hơn đô thị hóa dân số, sử dụng đất đô thị chưa hiệu quả. Mật độ đô thị thấp, manh mún, đặc biệt là vùng ven Thủ đô Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh. Thiếu kết cấu hạ tầng giao thông đồng bộ kết nối đô thị và nông thôn, giữa trung tâm với các khu vực mở rộng ven đô. Kết nối giữa các đô thị với chuỗi cung ứng hàng hóa, dịch vụ, logistics còn yếu; người nhập cư khó tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản và các cơ hội việc làm đô thị... làm giảm hiệu quả kinh tế của đô thị, sức cạnh tranh khu vực và quốc tế của các đô thị lớn chưa cao(9).
Đồng thời, Dự thảo Văn kiện cũng chỉ rõ: quản lý phát triển đô thị còn nhiều bất cập, chất lượng quy hoạch đô thị thấp, thiếu bản sắc, kiến trúc riêng, thực hiện quy hoạch chưa nghiêm; chưa chú trọng tổ chức dịch vụ công, dịch vụ xã hội cơ bản tại một số khu vực đô thị mới phát triển. Việc định giá đất chưa theo cơ chế thị trường, chưa sát với thực tiễn, chưa minh bạch trong đánh giá giá trị đất đai, bất động sản và chuyển mục đích, quyền sử dụng đất; thất thoát nguồn lực từ đất đô thị còn lớn. Chính sách nhà ở chưa đồng bộ, phù hợp; phát triển nhà ở xã hội chưa đạt mục tiêu đề ra(10).
Để làm rõ hơn sự bất cập trong phát triển và quản lý phát triển xã hội đô thị, có thể nhìn nhận trên các khía cạnh sau:
Trước hết, đô thị ở Việt Nam hiện nay đang phát triển theo bề rộng, khó kiểm soát và không bền vững trên tất cả các phương diện. Sức ép của tăng trưởng kinh tế đã dẫn đến sự tập trung các nguồn lực phát triển vào các vùng kinh tế trọng điểm, lĩnh vực công nghiệp, xây dựng, dịch vụ ở các đô thị lớn. Điều này làm giãn rộng khoảng cách bất bình đẳng giữa các vùng, giữa nông thôn và thành thị, các khu vực kinh tế. Mặt khác, quá trình phát triển đô thị đã không quan tâm thích đáng đến các khía cạnh môi trường, văn hóa, xã hội. Tình trạng giảm sút chất lượng sống và những vấn đề khác như cơ sở hạ tầng yếu kém, phân tầng xã hội và tệ nạn xã hội gia tăng. Một bộ phận không nhỏ nông dân ngoại thành bị mất đất canh tác phải chuyển đổi nghề nghiệp. Trong khi đó, để thu hút đầu tư, các địa phương ồ ạt mở khu công nghiệp mà phần lớn là lấy đất nông nghiệp. Đất mới chuyển đổi này lại bị sử dụng lãng phí do thiếu quy hoạch đồng bộ, tỷ lệ lấp đầy nhiều khu công nghiệp rất thấp, gây lãng phí lớn. Theo các chuyên gia của WTO, phát triển đô thị ở Việt Nam đang phát triển trên 3 chiều cạnh: cơ sở hạ tầng, môi trường và tài chính đô thị, tức là chỉ tập trung vào các khía cạnh vật chất của cuộc sống thông qua cơ chế thị trường. Phát triển đô thị như vậy đã xem nhẹ tầm quan trọng của các quan hệ xã hội và yếu tố văn hóa trong đời sống. Sự phát triển xã hội và con người chưa được coi trọng, đặc biệt đối với các nhóm yếu thế và bị tác động của các dự án phát triển đô thị. Số phận của hàng vạn nông dân đang bị mất đất đai và sinh kế trong quá trình đô thị hóa hiện nay là một minh chứng điển hình(11).
Tại các đô thị lớn, vấn đề ô nhiễm môi trường, tình trạng ùn tắc giao thông đang trở nên phức tạp; quản lý các lĩnh vực hạ tầng đô thị: cấp, thoát nước, thu gom xử lý rác thải và nước thải gặp nhiều khó khăn; các dịch vụ công cộng như y tế, giáo dục, văn hóa... đều quá tải; ô nhiễm môi trường, mất an ninh trật tự xảy ra ngày càng phức tạp. Trong khi đó, tại các đô thị nhỏ, việc phát triển dàn trải, thiếu các động lực phát triển rõ ràng khiến kinh tế đô thị phát triển chậm chạp; các lĩnh vực môi trường, hạ tầng ít được quan tâm đầu tư, về lâu dài sẽ phát sinh những vấn đề khó giải quyết...
Phát triển đô thị ở Việt Nam đang quá tập trung vào sự phát triển cơ sở hạ tầng, các dịch vụ môi trường và tài chính. Những thành tố này rất quan trọng, song trong quản lý xã hội hiện nay thường bỏ qua hoặc xem nhẹ. Do đó, nhiều yếu tố về văn hóa, xã hội thường đến “sau” sự phát triển kinh tế của đô thị. Hậu quả của lối tư duy này là những không gian đô thị, như: quảng trường, công viên công cộng, chợ dân sinh/chợ truyền thống, đường phố, vỉa hè,... hầu như không được ưu tiên hoặc không được cân nhắc trong quy hoạch phát triển đô thị. Vì thế, các thành phố hiện nay đang mất đi những không gian công cộng và không gian cộng đồng. Những thách thức này không chỉ làm giảm tốc độ, quy mô phát triển xã hội đô thị, mà còn ảnh hưởng đến tài chính, các nguồn lực khác và gây cản trở nhiều hơn trong việc quản lý. Nguyên nhân chính của vấn đề này là do thiếu sự đồng bộ và thống nhất trong các chính sách phát triển đô thị ở các cấp(12).
Hoạt động văn hóa, xã hội, cộng đồng có vai trò đặc biệt quan trọng trong các không gian đô thị. Tuy nhiên, trong các chính sách phát triển đô thị hiện nay, vấn đề này đang bị quên lãng, coi nhẹ. Việc xảy ra nhiều vụ việc phức tạp liên quan đến vấn đề sử dụng đất, di dời và tái định cư tại các đô thị hiện nay cho thấy sự can thiệp của các nhóm lợi ích đến những dự án phát triển đô thị và lợi ích cộng đồng. Thực trạng một số khía cạnh xã hội, môi trường, quản lý đô thị trong quá trình đô thị hóa hiện nay cho thấy tính cấp bách phải điều chỉnh lại các thể chế, trong đó then chốt là quy hoạch và quản lý đô thị, nâng cao vai trò quản lý của Nhà nước và sự tham gia của cộng đồng để tạo dựng môi trường sống tốt và phát triển đô thị bền vững(13).
Bên cạnh đó, nhận thức và hành động về phát triển đô thị có xu hướng thiếu toàn diện, sai lệch ở không ít địa phương. Điều này được thể hiện ở chỗ: nôn nóng, muốn xây dựng hệ thống đô thị của địa phương mình vượt quá khả năng dung nạp và cơ sở kinh tế, dẫn đến đô thị hóa chủ quan, duy ý chí. Một số địa phương cho rằng đô thị hóa là quá trình nông dân di cư vào đô thị, dân số đô thị gia tăng, quy mô đô thị mở rộng. Không ít trường hợp sự can thiệp của chính quyền quá mức cần thiết, có xu hướng áp đặt, không hiệu quả do không phù hợp quy luật khách quan của nền kinh tế thị trường. Lạm dụng biện pháp tăng quy mô dân số đô thị để đạt mục tiêu phân loại, nâng cấp đô thị mà không chú ý đến chất lượng đô thị, đến động lực của đô thị hóa là công nghiệp hóa. Đặc biệt, hoạt động quy hoạch không gian đô thị còn nhiều bất cập, chính sách chưa theo kịp thực tiễn. Khi nghiên cứu quy hoạch tổng thể xây dựng hệ thống đô thị trên địa bàn các tỉnh, chính quyền địa phương thường có xu hướng ít quan tâm đến điều kiện của từng khu vực. Do việc quy hoạch được phê duyệt còn thiếu chi tiết và cụ thể hóa, tầm nhìn chiến lược dài hạn vẫn còn nặng về yếu tố tăng trưởng, thiếu sự phối hợp nhịp nhàng giữa các bộ, ban ngành, cơ quan chủ quản đầu mối chịu trách nhiệm chính.
Đặc biệt, việc quản lý quá trình đô thị hóa và phát triển đô thị ở nước ta còn nhiều hạn chế, yếu kém(14); các chủ thể quản lý xã hội đô thị vẫn chưa đủ năng lực, trình độ cần thiết để quản lý, điều chỉnh, định hướng quá trình này, dẫn đến hàng loạt vấn đề nan giải liên quan đến quản lý phát triển xã hội đô thị trong thời kỳ đô thị hóa nhanh(15).
3. Giải pháp nhằm tăng cường phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội ở đô thị hiện nay
Một là, cần tập trung nghiên cứu và xử lý tốt các mối quan hệ cơ bản trong phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội ở đô thị Việt Nam hiện nay. Bao gồm: 1) Mối quan hệ giữa hiện đại hóa hạ tầng kinh tế - kỹ thuật, hạ tầng xã hội và hạ tầng dịch vụ đô thị với đổi mới mô hình tổ chức chính quyền đô thị; 2) Mối quan hệ giữa phát huy tính chủ động, tích cực quản lý những vấn đề mang tính địa phương của chính quyền Thành phố với bảo đảm sự quản lý thống nhất của chính quyền Trung ương; 3) Mối quan hệ giữa chính quyền đô thị với khu vực tư nhân và xã hội trong quản lý phát triển đô thị; 4) Mối quan hệ nông thôn - đô thị trong quản lý phát triển đô thị; 5) Mối quan hệ giữa tính hành chính và tính chuyên ngành trong quản lý phát triển đô thị(16).
Hai là, về tổng thể, phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội đô thị theo quan điểm phát triển bền vững chính là xử lý hài hòa quan hệ tăng trưởng kinh tế - phát triển xã hội và phát triển con người - bảo vệ môi trường. Trong quá trình phát triển đô thị cần khắc phục xu thế phát triển theo chiều rộng, theo thị trường với trọng tâm kinh tế, vật chất để phát triển theo chiều sâu với các mô hình phát triển đô thị hài hòa và nhân văn hơn. Các chính sách phát triển đô thị cần khẳng định và điều chỉnh nhiều hơn theo mô hình hài hòa hơn, mang nhiều tính xã hội dân chủ và nhân văn, phát triển vì con người, công bằng với người nghèo, yếu thế. Các quan điểm, mô hình phát triển đô thị bền vững, đặc biệt bền vững về xã hội cần được tích hợp nhiều hơn trong các chương trình, dự án quy hoạch và quản lý đô thị từ tổng thể đến chi tiết(17).
Ba là, trong quá trình phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội đô thị cần quan tâm đặc biệt đến việc bảo đảm sự ổn định và đoàn kết xã hội ở các cộng đồng đô thị. Trong quan hệ con người - môi trường đô thị cần cải thiện điều kiện sống của nhóm người nghèo đô thị, người nhập cư, yếu thế, bảo đảm cho họ được tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản. Trong quan hệ xã hội giữa các nhóm, giai tầng trong đô thị cần thực hiện công bằng xã hội và khắc phục các bất bình đẳng xã hội, đặc biệt chú ý tới các nhóm xã hội nhạy cảm, dễ bị tổn thương. Song hành với đó cần bảo vệ và phát huy những giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể của đô thị Việt Nam. Huy động và thể chế hóa sự tham gia của người dân và cộng đồng vào quá trình xây dựng và quản lý đô thị, phản biện xã hội. Tạo dựng nhiều không gian công cộng để hình thành và phát triển các hoạt động mang tính xã hội và nhân văn, văn hóa cộng đồng đô thị(18).
Bốn là, tăng cường tiếp cận tư duy hệ thống trong phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội ở đô thị. Khoa học tư duy hệ thống là phương pháp nghiên cứu toàn bộ hệ thống cũng như các bộ phận cấu tạo nên hệ thống và sự tương tác giữa chúng với nhau, trên cơ sở đó đưa ra những giải pháp tổng thể, bền vững nhằm giải quyết tận gốc và hài hòa các vấn đề. Tư duy hệ thống có thể làm thay đổi hiệu quả hoạt động của các cơ quan nhà nước, doanh nghiệp, các tổ chức và cộng đồng ở đô thị thông qua: sự hiểu biết lẫn nhau tốt hơn giữa các mô hình tư duy đa dạng của các bên liên quan, cùng nhau xác định điểm “đòn bẩy” và các giải pháp hệ thống để tạo ra những kế hoạch chiến lược tổng thể, đồng bộ... Bên cạnh đó, hệ thống pháp luật cần phải đủ độ “mở” để nâng cao mức độ dân chủ, cho phép các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức quần chúng và cá nhân tham gia vào quá trình vận hành và quản lý phát triển xã hội ở đô thị. Nhưng đồng thời cũng “khép” chặt sự lạm quyền, đặc quyền hay chuyên quyền của một số cán bộ, công chức.
Năm là, nghiên cứu, xây dựng chính quyền đô thị đáp ứng yêu cầu phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội ở đô thị trong bối cảnh hiện nay. Muốn phát triển xã hội đô thị và quản lý phát triển đô thị theo hướng văn minh, hiện đại thì phải có bộ máy chính quyền quản lý thích hợp. Chức năng cơ bản của chính quyền là quản lý xã hội, phục vụ xã hội và phục vụ dân chúng. Việc xây dựng chính quyền đô thị cần phải chú ý đến các đặc điểm của đô thị, như: vị trí địa lý; đặc điểm dân cư; trình độ phát triển kinh tế - xã hội; mức độ cơ sở hạ tầng; địa giới hành chính; đặc trưng cho quản lý. Khuyến nghị chính quyền tập trung xây dựng chính quyền điện tử và các dự án minh bạch, trách nhiệm; cải thiện quyền truy cập của người dân vào thông tin các dịch vụ công, giúp chính quyền cởi mở, minh bạch và có trách nhiệm hơn, do đó, tạo niềm tin của người dân, doanh nghiệp và các bên liên quan khác đối với chính quyền(19).
Sáu là, tăng cường cách tiếp cận sự tham gia của người dân trong phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội ở đô thị. Sự tham gia của mọi người trong quản lý xã hội thuộc về phạm trù quyền con người chứ không phải là kết quả của sự “ban ơn” từ phía những người quản lý theo cơ chế “xin - cho”. Sự tham gia của người dân phải trở thành mục tiêu, động lực và chủ thể của quản lý, mục tiêu, động lực và chủ thể của sự phát triển xã hội ở đô thị. Một cơ chế tốt phát huy sự tham gia của người dân trong quản lý đô thị là hướng mọi chủ thể thực hiện cùng tham gia ngay từ đầu cho đến kết thúc hoặc vận hành chu trình chính sách hoặc dự án phát triển đô thị. Cần hoàn thiện cơ chế để phát huy sức mạnh và ý chí của cộng đồng trong quản lý phát triển xã hội đô thị. Mỗi chủ thể có liên quan đến phát triển đô thị đều phải là những chủ thể bình đẳng về quyền lợi và trách nhiệm trong quản lý phát triển xã hội đô thị.
Bảy là, tiếp tục thúc đẩy việc hoàn thiện, ban hành và thực hiện tốt hệ thống chính sách pháp luật về phát triển xã hội và quản lý phát triển xã hội đô thị, như: Luật Quy hoạch đô thị, Luật Xây dựng, Luật Quản lý phát triển đô thị... Quản lý phát triển xã hội ở đô thị phải dựa trên một hệ thống thể chế, đặc biệt là hệ thống pháp luật, chính sách cũng như bộ máy thực thi pháp luật về một số đời sống đô thị như quản lý, sử dụng đất đai, quản lý giao thông, cơ sở kỹ thuật và xã hội, phát triển dân số, phân bố dân cư, thậm chí phải có cả hệ thống cơ sở pháp lý liên quan đến sự ăn, ở của cư dân, sử dụng các công trình, không gian công cộng của đô thị(20)...
__________________
* Bài viết là kết quả nghiên cứu của Đề tài cấp Nhà nước: “Tác động xã hội trong phát triển đô thị Vùng Tây Nam Bộ”, mã số: ĐT/14-19/X14 do PGS, TS Phạm Minh Anh làm Chủ nhiệm.
(1) Bộ Xây dựng: Chiến lược phát triển đô thị quốc gia giai đoạn 2021-2030 tầm nhìn đến năm 2045.
(2), (3), (4), (5), (6), (7), (8), (9), (10) ĐCSVN: Dự thảo các Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, 2020, tr.148, 71, 224, 10, 29, 98, 96, 112, 112.
(11), (12), (13), (14), (17), (18) Trịnh Duy Luân: Quản lý xã hội và đô thị hóa ở Việt Nam, Tạp chí Lý luận chính trị, số 8-2017.
(15) Trương Minh Dục, Lê Văn Định: Xây dựng lối sống đô thị trong bối cảnh đô thị hóa ở Việt Nam hiện nay, http://www.tapchicongsan.org.vn/.
(16) Đoàn Minh Huấn: Một số vấn đề về quản lý phát triển đô thị ở Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay, http://www.tapchicongsan.org.vn.
(18) Đỗ Văn Quân: Tư duy hệ thống và vấn đề xây dựng chính quyền đô thị ở Việt Nam hiện nay, Tạp chí Khoa học chính trị, số 1- 2015.
(19) Nguyễn Văn Vẹn: Tiếp cận đa chiều chính quyền thông minh - Định hướng cho xây
dựng chính quyền đô thị ở Việt Nam. http://www.tapchicongsan.org.vn.
(20) Phan Xuân Biên: Những vấn đề phát triển đô thị và quản lý phát triển đô thị từ thực trạng Thành phố Hồ Chí Minh và những đề xuất, khuyến nghị, https://hcmcpv.org.vn.
Nguồn: Bài đăng trên Tạp chí Lý luận chính trị số 12-2020
Bài liên quan
- Hệ thống chính trị Việt Nam truyền thống và hiện đại từ góc nhìn đổi mới
- Tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả
- Giữ gìn và bảo vệ giá trị văn hóa truyền thống các dân tộc ít người, góp phần củng cố, phát triển khối đại đoàn kết toàn dân tộc
- Xu hướng hòa bình, hợp tác, phát triển trên thế giới và vai trò của Việt Nam hiện nay
- Phát huy vai trò của ngành công nghiệp xuất bản trong việc gìn giữ bản sắc văn hóa dân tộc
Xem nhiều
- 1 Video Tư liệu: Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông 30 năm xây dựng và phát triển
- 2 Sử dụng công nghệ trí tuệ nhân tạo trong sản xuất chương trình truyền hình
- 3 Giữ gìn và bảo vệ giá trị văn hóa truyền thống các dân tộc ít người, góp phần củng cố, phát triển khối đại đoàn kết toàn dân tộc
- 4 Phát triển nguồn nhân lực ở tỉnh Bến Tre: Thực trạng và giải pháp
- 5 Sử dụng ChatGPT trong việc cải thiện kỹ năng viết cho sinh viên học tiếng Anh
- 6 Lễ kỷ niệm và Hội thảo khoa học “30 năm - Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông”
Liên kết
- Báo điện tử đảng cộng sản việt nam
- Báo nhân dân
- Báo Quân đội nhân dân
- Cổng thông tin điện tử Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Cổng thông tin điện tử Học viện Chính trị quốc gia hồ chí minh
- Tạp chí Cộng sản
- Tạp chí Giáo dục lý luận
- Tạp chí Giáo dục và Xã hội
- Tạp chí Khoa học xã hội và Nhân văn
- Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam
- Tạp chí Lý luận chính trị
- Tạp chí Nghiên cứu con người
- TẠP CHÍ Nghiên cứu dân tộc
- Tạp chí Người làm báo
- Tạp chí Nội chính
- Tạp chí Quản lý Nhà nước
- Tạp chí Tổ chức Nhà nước
- Tạp chí Tuyên giáo
- Tạp chí Xây Dựng Đảng
- Thư viện số Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Trang thông tin điện tử Hội đồng Lý luận Trung ương
Xây dựng phẩm chất nghề nghiệp người làm báo theo tư tưởng Hồ Chí Minh trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay
Chủ tịch Hồ Chí Minh là nhà báo vĩ đại, tấm gương sáng ngời để chúng ta thường xuyên học tập và noi theo. Trong bối cảnh cuộc cách mạng khoa học và công nghệ truyền thông, báo mạng điện tử ngày càng phát triển mạnh mẽ, báo chí truyền thống đứng trước cơ hội và thách lớn. Báo chí nước ta là vũ khí tư tưởng quan trọng của Đảng và Nhà nước, diễn đàn của nhân dân, góp phần to lớn vào thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Bài viết sau đây trình bày cơ sở lý luận và thực tiễn của việc xây dựng phẩm chất nghề nghiệp người làm báo trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay, đồng thời hưởng ứng cuộc vận động “Tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức và phong cách Hồ Chí Minh”, góp phần xây dựng nền báo chí Việt Nam chuyên nghiệp, nhân văn, hiện đại theo chủ trương của Đại hội lần thứ XIII của Đảng. Đây cũng là một trong những nhiệm vụ quan trọng của công tác tư tưởng, lý luận và báo chí của Đảng, đáp ứng yêu cầu cấp bách và có ý nghĩa cơ bản, lâu dài đối với sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta.
Hệ thống chính trị Việt Nam truyền thống và hiện đại từ góc nhìn đổi mới
Hệ thống chính trị Việt Nam truyền thống và hiện đại từ góc nhìn đổi mới
Nhìn toàn bộ tiến trình lịch sử chính trị của dân tộc, “Hệ thống chính trị” nước ta dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là một thiết chế chính trị mạnh, mô hình này phù hợp với hoàn cảnh Việt Nam và đúng với quy luật vận động của lịch sử. Và, cũng từ thực tế lịch sử, có thể thấy sức mạnh thực sự của Hệ thống chính trị mà chúng ta đang có chủ yếu không phải do tính chất nhất nguyên mà là do uy tín của Đảng, Nhà nước và lãnh tụ Hồ Chí Minh. Sức sống của hệ thống chính trị là sự phù hợp, thống nhất giữa mục đích của Đảng với nguyện vọng của nhân dân, với nhu cầu phát triển của đất nước. Hệ thống chính trị Việt Nam đương đại, trên cơ sở kết tinh các giá trị thiết chế truyền thống gắn với hiện đại không ngừng đổi mới phát triển khẳng định sức mạnh của Hệ thống tổ chức quyền lực Chính trị Việt Nam có vai trò quyết định thành công xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN.
Tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả
Tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả
Xây dựng tổ chức bộ máy hiệu lực, hiệu quả là công việc khó khăn, phức tạp, đòi hỏi sự đoàn kết, thống nhất, dũng cảm, sự hy sinh của từng cán bộ, đảng viên cùng với quyết tâm rất cao của toàn Đảng, cả hệ thống chính trị, trước hết là người đứng đầu cấp ủy, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và đoàn thể các cấp. Tạp chí Cộng sản trân trọng giới thiệu bài viết của đồng chí Tổng Bí thư Tô Lâm về xây dựng hệ thống chính trị với tiêu đề: “Tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả”:
Giữ gìn và bảo vệ giá trị văn hóa truyền thống các dân tộc ít người, góp phần củng cố, phát triển khối đại đoàn kết toàn dân tộc
Giữ gìn và bảo vệ giá trị văn hóa truyền thống các dân tộc ít người, góp phần củng cố, phát triển khối đại đoàn kết toàn dân tộc
Với cộng đồng 54 dân tộc anh em, Việt Nam là quốc gia có nền văn hóa đa dạng, phong phú, có những nét riêng, trở thành tài sản quý giá làm nên bản sắc văn hóa Việt Nam độc đáo, đặc sắc. Giữ gìn và bảo vệ các giá trị di sản văn hóa truyền thống chính là góp phần củng cố phát triển khối đại đoàn kết dân tộc - một sức mạnh nội sinh to lớn và vĩ đại, làm nên mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam, dưới lá cờ vẻ vang của Đảng.
Xu hướng hòa bình, hợp tác, phát triển trên thế giới và vai trò của Việt Nam hiện nay
Xu hướng hòa bình, hợp tác, phát triển trên thế giới và vai trò của Việt Nam hiện nay
Trong bối cảnh hiện nay sự cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn, chạy đua vũ trang, các cuộc xung đột tôn giáo, sắc tộc vẫn diễn ra ở nhiều nơi, đặc biệt là cuộc xung đột quân sự giữa Nga và Ukraina ở Đông Âu, giữa Israel và Palestine vùng các tổ chức hồi giáo ở Trung Đông diễn biến ngày càng căng thẳng đe dọa tới hòa bình, an ninh khu vực và thế giới. Tuy vậy, hòa bình, hợp tác và phát triển vẫn là mục tiêu hướng tới của các nước, là xu hướng chính trị -xã hội tất yếu của nhân loại, từ đó đặt ra vai trò, trách nhiệm của các quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam.
Bình luận