Tiến tới sự bình đẳng trong giáo dục dưới ảnh hưởng của nền kinh tế thị trường ở Việt Nam
Sự nghiệp giáo dục được coi là quốc sách ở Việt Nam. Các nhà lãnh đạo đất nước đã luôn công nhận tầm quan trọng của giáo dục đối với sự phát triển quốc gia cũng như của mỗi các nhân. Từ xa xưa trong hệ thống giá trị văn hoá truyền thống của người Việt Nam đã luôn coi trọng giáo dục và học vấn. Kế tục truyền thống đó, từ khi thiết lập chế độ xã hội chủ nghĩa, Chính phủ đã có nhiều cố gắng cung cấp giáo dục văn hoá cơ bản cho người lớn và giáo dục tiểu học cho trẻ em cũng như xây dựng một hệ thống giáo dục và đào tạo hoàn chỉnh từ cấp tiểu học đến sau đại học. Hiến pháp của Nhà nước ta từ lâu đã xác lập quyền bình đẳng giữa nam và nữ trong giáo dục và đào tạo. Chính sách quốc gia và các thiết chế xã hội luôn cố gắng tạo cơ hội như nhau cho cả phụ nữ và nam giới nâng cao trình độ học vấn.
Với 91% trẻ em độ tuổi từ 5 đến 10 đến trường và 88% dân số trong độ tuổi lao động biết chữ, Việt Nam có một thành tích đầy ấn tượng, ngay cả khi so sánh với nhiều nền kinh tế khác có mức thu nhập cao hơn(1). Tuy nhiên, từ giữa thế kỷ XX, khi cộng đồng quốc tế bước vào một thiên niên kỷ mới, cùng với sự chuyển đổi cơ cấu kinh tế của đất nước đang đặt ra những thử thách mới rất quan trọng đối với hệ thống giáo dục của Việt Nam.
I. Thực trạng số lượng học sinh ở nước ta hiện nay
Hệ thống giáo dục của Việt Nam là một hệ thống 5-4-3-4. Nói cách khác, một học sinh trải qua toàn bộ hệ thống giáo dục từ lớp 1 lên đến đại học, không bỏ học hoặc lưu ban lớp nào sẽ bắt đầu với 5 năm tiểu học, tiếp đến là 4 năm trung học cơ sở và 3 năm trung học phổ thông và kết thúc với 4 năm đại học. Trẻ em bắt đầu đi học lớp 1 lúc 6 tuổi nhưng một số học sinh lớp 1 lại lớn hơn đặc biệt là ở vùng núi hoặc nông thôn. Theo tổng điều tra dân số vào năm 1989, trong khi 91% trẻ em thành thị đã đi học khi 6 tuổi thì 1/4 trẻ em nông thôn khi 7 tuổi vẫn còn ở nhà và chưa đi học. Tuy nhiên, đến 10 tuổi thì 90% trẻ em nông thôn và 97% trẻ em thành thị đã đến trường. Luật bắt buộc có mặt tại trường đối với giáo dục tiểu học đã được thông qua vào năm 1991(2). Chính điều này làm cho tỷ lệ nhập học của học sinh nước ta ngày một tăng. Theo số liệu thống kê của Bộ giáo dục và Đào tạo cho thấy sự khác biệt về giới tính thấp hơn so với nhiều nước khác. ở Việt Nam trẻ em trai và gái bước vào hệ thống giáo dục với số lượng hầu như ngang nhau và tỷ lệ bỏ học ở trẻ em gái chỉ nhỉnh hơn trẻ em trai một ít. Trong năm học 1995, 49.5% số học sinh tiểu học, 49.1% trung học cơ sở và 44.8% trung học phổ thông là nữ, ở cấp đại học thì tỷ lệ nữ là 40%. So sánh tỷ lệ nữ được học trung học với số lượng phụ nữ đi học ở Châu Phi Hạ Sahara thấy tỷ lệ nữ sinh trung học ở đây chỉ đạt 14% năm 1995 và số năm đi học trung bình chỉ bằng 2,2 năm tính đến năm 1990(3).
Cùng với phong trào phổ cập giáo dục tiểu học ở khu vực Đông Nam á, (thí dụ như phong trào phổ cập giáo dục tiểu học ở Inđônêsia trong những năm 80 của thế kỷ XX đã có một chương trình xây dựng trường học rầm rộ và đã làm tăng tỷ lệ đi học của cả bé trai và bé gái)(4), thì ở Việt Nam trong các thập kỷ gần đây đã đạt được những thành tựu to lớn trong giáo dục tiểu học và trung học cơ sở, khoảng cách giữa trẻ em trai và gái được rút ngắn. Tỷ lệ học sinh nữ năm 1988 là 94% so với nam ở giáo dục tiểu học và 93% ở giáo dục trung học và năm 1989 tỷ lệ biết chữ ở người lớn là 84% đối với phụ nữ và 93% đối với nam giới(5).
Mặc dù vậy những thành tựu này không được thống nhất trong tất cả các vùng miền và giữa các nhóm kinh tế- xã hội. ở những vùng cao, vùng sâu, vùng xa tỷ lệ trẻ em nhập học vẫn còn thấp, đặc biệt là các em gái. Chẳng hạn, tỉnh miền núi phía Bắc Lai Châu, theo báo cáo tỷ lệ biết chữ là 49% và tại tỉnh này số nam biết chữ cao gấp đôi nữ. Tỷ lệ đến trường còn thấp ở các vùng núi phía Bắc, miền Trung và ở vùng đồng bằng sông Cửu Long, đặc biệt đối với trẻ em gái. Trong khi các dân tộc thiểu số chiếm trên 13% dân số thì số con em dân tộc đi học chỉ chiếm có 4% số học sinh(6). Lý do để các em bỏ học ở nông thôn và các vùng miền núi vì đây là nơi có nhu cầu lớn về lao động đồng áng và quan niệm phổ biến cho rằng chuyện học của em gái ít có giá trị hơn so với học vấn đối với các em trai.
Theo tổng điều tra dân số năm 1999, trong tổng số 16, 5 triệu trẻ em độ tuổi 6 - 14 có 1,1 triệu trẻ em chưa bao giờ đến trường. Trong tổng số trẻ em hiện nay không đến trường có 87% sống ở vùng nông thôn và 50% trong số đó là vùng dân tộc. Đối với trẻ em ở gia đình nghèo trẻ em gái ít có cơ hội đi học hơn trẻ em trai. Năm 1998, trong nhóm nghèo nhất, tỷ lệ trẻ em chưa đến trường tiểu học và trung học cơ sở là 16% và 32%, trong khi đó tỷ lệ này ở trẻ em trai là 11% và 20%(7). Theo Tổng điều tra dân số năm 1999 thì trình độ học vấn của phụ nữ nhìn chung thấp so với nam giới. Trong toàn quốc từ nông thôn đến thành thị, số nữ không biết chữ luôn cao hơn nam. Ví dụ, cả nước hiện có 11,8% nữ không biết chữ, nam là 5,69%, tỷ lệ này ở nông thôn là 13,5% và 6,59%. Tuổi bắt đầu đi học của Việt Nam tính trên toàn quốc là 6,3 nhưng nữ bắt đầu bỏ học sớm hơn nam. Số năm học trung bình của nữ là 9,3 năm còn nam giới là 9,8 năm(8).
II. Đầu tư giáo dục
Trong quá trình đổi mới kinh tế – xã hội đất nước ta, sự nghiệp giáo dục đang đứng trước những thách thức lớn do nhu cầu tăng lên về số lượng người học và đòi hỏi ngày càng cao về chất lượng giáo dục. Do đó việc đầu tư cho giáo dục trong việc nâng cao số lựơng, chất lượng giáo viên; đầu tư xây dựng trường lớp, cơ sở hạ tầng, tăng lương cho giáo viên... càng phải được coi trọng.
Hiện nay nhiều trường hàng năm tổ chức các lớp học ngắn hạn nhằm nâng cao dần trình độ của giáo viên và khuyến khích, tạo điều kiện cho giáo viên học lên cao hơn. Tuy nhiên, không phải ở mọi vùng đều có khả năng đầu tư cho vấn đề này bởi còn phải đương đầu với những vấn đề kinh tế- xã hội nan giải.
Theo đánh giá tại Hội nghị tổng kết một năm thực hiện Nghị quyết 04 của Bộ Chính trị về công tác giáo dục thì có tới 60% giáo viên chưa đạt trình độ chuẩn, mà trên thực tế thì chất lượng giáo dục phụ thụôc nhiều vào chất lượng của giáo viên. Động cơ và hành vi ứng xử của giáo viên là yếu tố quan trọng xác định thành tích của học sinh mà những động cơ này xét một khía cạnh nào đó lại phụ thuộc vào trình độ của giáo viên. Theo qui định thì mức chuẩn tối thiểu của giáo viên mầm non và tiểu học là tốt nghiệp trung học sư phạm, giáo viên trung học cơ sở phải tốt nghiệp cao đẳng sư phạm, giáo viên trung học phổ thông và trung học chuyên nghiệp phải tốt nghiệp đại học sư phạm. Nhưng vào đầu những năm 90 của thế kỷ XX thì 92% giáo viên mầm non không đạt trình độ chuẩn, 52% giáo viên tiểu học và 67% giáo viên dạy nghề(9).
Mặc dù, riêng về nguồn tài chính cho giáo dục, hàng năm Nhà nứơc tăng dần mức chi ngân sách cho giáo dục: sau 10 năm tăng gấp đôi từ 5% năm 1985 lên 10% năm 1995. Nhưng vấn đề thiếu trường lớp vẫn là điều xảy ra nhất là đối với vùng nông thôn và vùng sâu. Theo số liệu của Tổng cục Thống kê năm 1998 khoảng 9% các xã miền núi phía Bắc không có trường tiểu học. Điều này không chỉ là vấn đề của Việt Nam mà còn là vấn đề chung của nhiều nước trên thế giới. Chẳng hạn, việc thiếu các trường trung học làm giảm khả năng đi học của cả bé trai và bé gái ở Malaixia.
Để có thể khắc phục được một phần khó khăn, chính phủ đã khuyến khích việc mở rộng và hiện đại hoá hệ thống giáo dục đào tạo nhằm đáp ứng những nhu cầu mới nảy sinh của kinh tế thị trường, tăng mức độ bao trùm của giáo dục. Cũng để hoà nhập với xu thế chung của toàn thế giới nhiều hình thức học và dạy học được mở ra thu hút được nhiều người tham gia nhằm nâng cao trình độ dân trí của Việt Nam. Những hình thức đào tạo từ xa, đào tạo qua hệ thống mạng và qua truyền hình được nhiều người ủng hộ. Nhu cầu học ngày càng tăng nên việc mở rộng hệ thống đào tạo không chỉ trong nước mà còn kết hợp với nhiều nước khác ở khu vực và trên thế giới để đưa học sinh sang đào tạo tại các nước đó. Các trường dạy nghề được mở ra ở hầu khắp các địa phương trong cả nước nhằm đạo tạo một lực lượng lao động có tay nghề cho xã hội.
Một sự cải cách lớn được thiết kế ra nhằm thúc đẩy những mục tiêu này là phát triển hệ thống giáo dục và đào tạo “phi công lập” tồn tại song song với hệ thống của Nhà nước. Hội nghị Trung ương IV, Ban chấp hành Trung ương Đảng năm 1992 đã đưa ra kế hoạch củng cố giáo dục công, khuyến khích các trường dân lập ở mọi cấp và hợp pháp hoá các trường tư đối với bậc dưới tiểu học và dạy nghề.
Có thể nói rằng hình thức này đã xuất hiện ở nước ta, trước khi Việt Nam bị phân chia theo Hiệp định Geneve năm 1954, giáo dục chính qui đã bị kìm hãm trong thế kỷ XX. Dưới sự thống trị của thực dân Pháp, chỉ có một số ít người Việt Nam thuộc giới phong lưu được theo học trường công mà hầu hết những trường này đặt ở những vùng thành thị lớn. Để đối phó với chính sách hạn chế này, các trường phi chính phủ được mở ra ở nhiều nơi trong nước, kể cả những làng quê của Việt Nam. Điều này thoả mãn phần nào nhu cầu học hành của mạnh mẽ của các gia đình, nhưng trên thực tế, rất ít nhà nghèo có thể chịu được tiền học phí trường tư. Khi chấm dứt chế độ thực dân Pháp, các trường tư miền Bắc được nhập vào hệ thống giáo dục công lập miễn phí(10). Nhưng tình trạng hiện nay là các trường tư mở ra chủ yếu thu hút con em các gia đình khá giả học, còn con em các gia đình nghèo vẫn học ở trường công lập. Ví dụ ở Châu Mỹ Latinh, nguyên nhân của tình trạng chênh lệch về học vấn là do hệ thống trường học công – vốn là chỗ dựa cho người nghèo - hoạt động thiếu hiệu quả(11). Nhưng một điều ta không thể phủ nhận là hệ thống các trường dân lập mở ra đã có hiệu quả tích cực trong việc nâng cao trình độ dân trí.
III. Các nhân tố ảnh hưởng tới việc đi học
1. Điều kiện kinh tế của gia đình
Mặc dù trong một thập kỷ qua, ở nhiều nước đang phát triển, việc tiếp cận giáo dục cơ bản về tổng thể đã tăng lên đáng kể nhưng xét về khả năng, người nghèo được đi học hay được tiếp tục học ít hơn so với người giàu và họ cũng dễ bị đúp hơn. Con em các gia đình nghèo không có nhiều cơ hội lựa chọn như con em ở gia đình có điều kiện kinh tế khá giả. Ví dụ, ở Braxin 92% thanh thiếu niên trong độ tuổi 15 -19 ở các gia đình nghèo học hết lớp 1 nhưng chỉ có một nửa trong số đó học hết lớp 5 (12).
Do chi phí giáo dục tăng nên nhiều gia đình nghèo không đủ tiền cho con đi học. Đối với các gia đình nghèo vấn đề cơm áo để tồn tại quan trọng hơn việc đi học. ở những gia đình có nhiều con trong độ tuổi đến trường thì có một số em phải hy sinh quyền lợi đến trường của mình cho những đứa trẻ khác trong gia đình. Trong tình huống này các em gái là người trước tiên phải bỏ học để giảm gánh nặng chi phí của gia đình. Thêm vào đó các ông bố bà mẹ của các em cho rằng con gái chẳng bao giờ kiếm được nhiều tiền như con trai, người ta cần sức lao động của con gái chỉ để đỡ đần gia đình, giúp việc nhà, làm rất nhiều các việc không tên, trông em và cả việc đồng áng (trẻ em nông thôn)... Mặc dù, việc sử dụng sức lao động trẻ em bị cấm đoán chính thức nhưng trẻ em dưới 12 tuổi chiếm 6% của lực lượng lao động Việt Nam. Lao động trẻ em đặc biệt phổ biến ở vùng nông thôn, nơi mà gần 1/3 trẻ em trong độ tuổi 6-14 phải làm việc và tỷ lệ nhập học của nhóm tuổi này chỉ là 78% thấp hơn mức trung bình trong toàn quốc rất nhiều (13). Ngay cả khi trẻ em nghèo có thời gian để đi học thì sự suy dinh dưỡng, bệnh tật và những phí tổn khác liên quan đến việc học hành cũng là những thách thức to lớn ngăn cản chúng đến trường (14). Một nghiên cứu gần đây tiến hành với 35 nước ở Tây phi, Trung Phi và Nam á cho thấy tại 10 nước điều tra một nửa hoặc gìa nửa số người từ 15 -19 tuổi ở các hộ nghèo chưa từng học hết lớp 1. Theo Điều tra mức sống dân cư Việt Nam 1992-1993 thì không có trẻ em nào thuộc nhóm nghèo nhất vào đại học và cao đẳng. Hơn một nửa số học sinh được tuyển vào trung học phổ thông và đại học là thuộc nhóm 20% giàu nhất.
Như vậy là yếu tố kinh tế cuả gia đình đã ảnh hưởng rất nhiều tới việc học hành của các em. Điều kiện kinh tế của gia đình kém thường là tỷ lệ thuận với trình độ học vấn thấp. Theo các nhà kinh tế thì đó là “cái vòng luẩn quẩn của sự nghèo đói” nhìn ở cấp độ các hộ gia đình riêng lẻ.
2. Trình độ học vấn của cha mẹ
Nhiều nghiên cứu cho thấy, học vấn của bố mẹ có liên quan tới trình độ học vấn của con cái và trình độ học vấn của người mẹ thì thường có ảnh hưởng nhiều hơn so với học vấn của người bố. Các bà mẹ có học thức cũng có nhiều cơ hội gia nhập lực lượng lao động hơn và điều đó cũng cho phép họ trả được một số chi phí học hành cuả con cái và có ý thức hơn về lợi ích của việc học hành. Các bà mẹ có học thức – trung bình có ít con hơn- nên họ có thể tập trung quan tâm nhiều hơn tới từng đứa con của mình. Do vậy họ cũng không bị rơi vào trường hợp phải lựa chọn cho đứa con nào đi học như những gia đình nghèo(15). ở Việt Nam, những bà mẹ học hết trung học cơ sở có tỷ lệ sinh 53% thấp hơn so với các bà mẹ không đi học. Con cuả các bà mẹ có học vấn cao hơn thì có nhiều cơ hội đến trường và có xu hướng học nhiều hơn.
3. Điều kiện điạ lý
Trường học thường tập trung ở các thành phố và khu vực có các hộ gia đình giàu có hơn sinh sống vì ở những khu vực này mới thu hút được học sinh, giao thông thuận tiện và các dịch vụ phục vụ cho học tập thuận lợi hơn. Thế nhưng chính điều này lại là môt trong những yếu tố ảnh hưởng tới việc đi học của trẻ em nhất là đối với con em gia đình nghèo.
Ví dụ, ở khu vực nông thôn của Guinea trung bình học sinh phải mất tới 47 phút để đến được trường tiểu học gần nhất trong khi ở thành thị học sinh chỉ mất có 19 phút để đến trường (16). Do vậy việc mất thời gian đi từ nhà đến trường học làm cho chính bản thân các em thấy nản còn cha mẹ của các em thì không yên tâm khi để con mình đi học với quãng đường xa như vậy. ở vùng đồng bằng sông Mêkông, phương tiện đi lại chủ yếu là đường thuỷ tốn kém hơn rất nhiều so với đi lại bằng đường bộ. Vào mùa mưa việc đi học là cực kỳ khó khăn và đôi khi các em không thể tự đi được vì nguy hiểm. Với những vùng miền núi các em phải vượt qua quãng đường dài để tới lớp nhất là những em học cấp 2 trở lên. Với các gia đình khá giả thì có thể cho các em đi học ở các trường nội trú nhưng với những gia đình khó khăn thì không thể trang trải nổi chi phí cho việc học nội trú này nên các em muốn đi học thì vẫn phải băng rừng, lội suối mà đi học. Tại Ấn Độ khả năng được đi học của các bé gái giảm 1-2% nếu khoảng cách từ nhà tới trường tiểu học tăng lên, ảnh hưởng này không đáng kể ở bé trai; điều này cũng tương tự ở Pêru và Philippin.
Khoảng cách từ nhà đến trường là một yếu tố quan trọng trong việc quyết định các em có được đi học hay không nhất là đối với các em gái. ở một số nước gia đình các em còn sợ rằng các em có thể bị quấy rối tình dục trên đường đến trường. ở Châu Phi cận Sahara, đôi khi các em gái rất dễ trở thành nạn nhân của “các lão già háo ngọt” - những kẻ sẵn sàng trả học phí cho các em để đổi lấy quan hệ tình dục(17).
Cùng với những thành tựu về phát triển kinh tế thì trong giáo dục đào tạo của nước ta cũng có nhiều tiến bộ nhất là trong cơ chế thị trường hiện nay khi mà tri thức được đánh giá là công cụ hữu hiệu nhất trong việc phát triển kinh tế. Việt Nam đã chứng tỏ khả năng lãnh đạo và quyết tâm về mặt chính trị và đã đạt được những thành tựu to lớn trong vấn đề tiếp cận giáo dục từ những năm 1990 trở lại đây. Qua điều tra mức sống dân cư Việt Nam cho thấy tỷ lệ đi học đúng tuổi ở bậc tiểu học đã tăng từ 87% trong năm 1993 lên 91% trong năm 1998. Tương tự tỷ lệ đi học đúng tuổi ở bậc trung học cơ sở đã tăng từ 30% trong năm 1993 lên đến 62% trong năm 1998. Tuy nhiên, chúng ta cũng còn gặp rất nhiều khó khăn trong việc đầu tư cho giáo dục do vấn đề bất cập về cơ chế chính sách, nhiều vấn đề xã hội mới nảy sinh./.
____________________________
(1), (2), (5), (6), (10), (13) VN - Nghiên cứu tài chính cho giáo dục, Ngân hàng Thế giới, (10.1996), tr. 9, 4, 118.
(3), (4) Đưa vấn đề giới vào phát triển (2001), Nxb. VHTT, Hà Nội, tr.44, 277.
(7) Phân tích tình hình và đề xuất chính sách nhằm tăng cường tiến bộ của phụ nữ và bình đẳng ở Việt Nam, Dự án của UBQG VIE/96/011, tr.28
(8) , Lê Ngọc Hùng - Ng. Thị Mỹ Lộc (2000), Xã hội học về giới và phát triển, Nxb. ĐHQG, Hà Nội, tr.120.
(9) Nguyễn Ngọc Chụ, Báo Giáo dục thời đại, số 11.8.1994.
(11), (12), (15), (16), (17) UNFPA (2002), Tình trạng dân số thế giới, tr.47, 48, 49.
(14) Bản báo cáo của nhóm hành động chống đói nghèo về cung cấp giáo dục cơ bản có chất lượng cho mọi người, 6.2002, tr.8.
Nguồn: Bài đăng trên Tạp chí Báo chí và Tuyên truyền số 5 (tháng 9+10)/2005
Bài liên quan
- Quản lý hình ảnh về phụ nữ dân tộc thiểu số Việt Nam trên các sản phẩm báo ảnh tại Thông tấn xã Việt Nam hiện nay
- Quản trị thông tin chính sách hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa trên báo mạng điện tử Việt Nam hiện nay
- Thông tin về hoạt động kinh tế của người dân khu vực nông thôn trên báo mạng điện tử Việt Nam hiện nay
- Nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách hỗ trợ tạo việc làm cho thanh niên (từ thực tiễn thành phố Sầm Sơn, tỉnh Thanh Hóa)
- Giải pháp đổi mới hoạt động truyền thông phòng, chống tin giả tại các trường trung học phổ thông hiện nay
Xem nhiều
-
1
[Video] Khai mạc Hội Báo toàn quốc 2025
-
2
Phê phán luận điệu xuyên tạc các nghị quyết “bộ tứ trụ cột”
-
3
Thái độ tiếp nhận của sinh viên đối với các sản phẩm truyền thông tạo ra bởi trí tuệ nhân tạo trên nền tảng Tiktok
-
4
[Ảnh] Toàn cảnh Lễ khai mạc Hội Báo toàn quốc 2025
-
5
Bóc mẽ thủ đoạn xuyên tạc, bôi nhọ lịch sử Đảng trên không gian mạng của các thế lực thù địch
-
6
Quản trị thông tin chính sách hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa trên báo mạng điện tử Việt Nam hiện nay
Liên kết
- Báo điện tử đảng cộng sản việt nam
- Báo nhân dân
- Báo Quân đội nhân dân
- Cổng thông tin điện tử Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Cổng thông tin điện tử Học viện Chính trị quốc gia hồ chí minh
- Tạp chí Cộng sản
- Tạp chí Giáo dục lý luận
- Tạp chí Giáo dục và Xã hội
- Tạp chí Khoa học xã hội và Nhân văn
- Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam
- Tạp chí Lý luận chính trị
- Tạp chí Nghiên cứu con người
- TẠP CHÍ Nghiên cứu dân tộc
- Tạp chí Người làm báo
- Tạp chí Nội chính
- Tạp chí Quản lý Nhà nước
- Tạp chí Tổ chức Nhà nước
- Tạp chí Tuyên giáo
- Tạp chí Xây Dựng Đảng
- Thư viện số Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Trang thông tin điện tử Hội đồng Lý luận Trung ương
Truyền thông hình ảnh về Tổng Bí thư Tô Lâm trên báo Nhân Dân điện tử
Truyền thông hình ảnh giữ vai trò đặc biệt quan trọng trong công tác tuyên truyền, góp phần thể hiện sinh động uy tín, phong cách và hoạt động lãnh đạo của các đồng chí lãnh đạo cấp cao, qua đó tăng cường niềm tin của nhân dân, củng cố sự thống nhất trong Đảng và sự đồng thuận trong xã hội. Trong giai đoạn từ tháng 8 đến tháng 12 năm 2024, hình ảnh Tổng Bí thư Tô Lâm được thể hiện trên báo Nhân Dân điện tử một cách trang trọng, nhất quán, phù hợp với định hướng chính trị – tư tưởng, phản ánh đầy đủ các mặt công tác lãnh đạo, chỉ đạo của đồng chí Tổng Bí thư trong nước và đối ngoại. Trong bối cảnh truyền thông số phát triển mạnh mẽ, việc nâng cao chất lượng truyền thông hình ảnh về lãnh đạo cấp cao cần tiếp tục được quan tâm toàn diện cả về nội dung, hình thức, đồng thời tăng cường phối hợp giữa các cơ quan quản lý báo chí, cơ quan báo chí và các cơ sở đào tạo báo chí - truyền thông nhằm phát huy vai trò của báo chí trong việc lan tỏa hình ảnh lãnh đạo, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng và đáp ứng yêu cầu tuyên truyền trong tình hình mới.
Quản lý hình ảnh về phụ nữ dân tộc thiểu số Việt Nam trên các sản phẩm báo ảnh tại Thông tấn xã Việt Nam hiện nay
Quản lý hình ảnh về phụ nữ dân tộc thiểu số Việt Nam trên các sản phẩm báo ảnh tại Thông tấn xã Việt Nam hiện nay
Trong bức tranh truyền thông hiện đại, hình ảnh người phụ nữ dân tộc thiểu số (DTTS) Việt Nam đang dần được tái hiện với nhiều sắc thái mới, giàu tính biểu cảm và phản ánh đa dạng vai trò của họ trong đời sống đương đại. Tại Thông tấn xã Việt Nam (TTXVN), việc quản lý, thể hiện và lan tỏa hình ảnh phụ nữ DTTS trên các sản phẩm báo ảnh ngày càng được chú trọng cả về chiều sâu nội dung lẫn chất lượng hình thức. Không chỉ đơn thuần là những khuôn hình đặc tả trang phục truyền thống hay lao động thường nhật, các sản phẩm báo ảnh tại đây còn hướng tới việc khắc họa chân dung người phụ nữ dân tộc với vai trò chủ thể phát triển – là cán bộ, trí thức, doanh nhân, nghệ nhân... Bài viết phân tích thực trạng và đề xuất một số giải pháp, khuyến nghị nhằm quản lý tốt hình ảnh phụ nữ DTTS trên các sản phẩm báo ảnh của TTXVN hiện nay.
Quản trị thông tin chính sách hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa trên báo mạng điện tử Việt Nam hiện nay
Quản trị thông tin chính sách hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa trên báo mạng điện tử Việt Nam hiện nay
Trong bối cảnh nền kinh tế phục hồi sau đại dịch và chuyển mình mạnh mẽ trong giai đoạn chuyển đổi số, việc truyền thông hiệu quả các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) trở thành một yêu cầu cấp thiết. Báo mạng điện tử với ưu thế về tốc độ, khả năng cập nhật và tính tương tác đang đóng vai trò ngày càng quan trọng trong việc định hướng nhận thức và hành vi của cộng đồng doanh nghiệp. Bài viết này phân tích thực trạng quản trị thông tin về chính sách hỗ trợ DNNVV trên một số báo mạng điện tử chuyên ngành tài chính - đầu tư ở Việt Nam hiện nay, chỉ ra những điểm mạnh, hạn chế và đề xuất giải pháp quản trị thông tin, nâng cao hiệu quả truyền thông chính sách kinh tế - cụ thể là chính sách hỗ trợ DNNVV trên báo mạng điện tử, trong thời gian tới.
Thông tin về hoạt động kinh tế của người dân khu vực nông thôn trên báo mạng điện tử Việt Nam hiện nay
Thông tin về hoạt động kinh tế của người dân khu vực nông thôn trên báo mạng điện tử Việt Nam hiện nay
Báo mạng điện tử Việt Nam, với lợi thế về tính tích hợp đa phương tiện, tốc độ cập nhật và khả năng tương tác tức thời, đã trở thành nền tảng quan trọng trong việc kết nối và chuyển tải thông tin hai chiều đến với khu vực nông thôn. Nhiều báo lớn đã mở các chuyên mục về nông nghiệp, kinh tế nông thôn, khởi nghiệp nông nghiệp, cùng với đó là số lượng các bài viết về kinh tế nông thôn ngày càng nhiều, nội dung ngày càng đa dạng, tích cực ứng dụng đa phương tiện để thông tin hấp dẫn hơn, tăng cường tương tác với độc giả. Trên cơ sở khảo sát ba tờ báo điện tử là Dân Việt, Vietnamnet và Nhân Dân điện tử trong năm 2024, bài viết phân tích vai trò, hiệu quả thông tin về hoạt động kinh tế của người dân khu vực nông thôn trên báo mạng điện tử Việt Nam hiện nay, đồng thời, đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thông tin về lĩnh vực này trong thời gian tới.
Nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách hỗ trợ tạo việc làm cho thanh niên (từ thực tiễn thành phố Sầm Sơn, tỉnh Thanh Hóa)
Nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách hỗ trợ tạo việc làm cho thanh niên (từ thực tiễn thành phố Sầm Sơn, tỉnh Thanh Hóa)
Trong tiến trình xây dựng và phát triển đất nước Việt Nam, con người luôn được xác định là trung tâm, là chủ thể và là mục tiêu của mọi chiến lược phát triển. Trong các nhóm xã hội, thanh niên – với tư cách là một bộ phận dân số có quy mô lớn, có trí tuệ, khát vọng cống hiến và khả năng thích ứng cao – giữ vị trí đặc biệt quan trọng. Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh yêu cầu phát triển con người toàn diện, xây dựng nguồn nhân lực chất lượng cao, trong đó thanh niên là lực lượng xung kích, tiên phong trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, hội nhập quốc tế và bảo vệ Tổ quốc. Quá trình tổ chức thực hiện các chính sách hỗ trợ tạo việc làm cho thanh niên thời gian qua đã đạt được nhiều kết quả quan trọng, nhưng cũng chịu nhiều thách thức, nhất là trong bối cảnh mới như cách mạng công nghiệp lần thứ tư, chuyển đổi số, những tác động hậu COVID-19, và chủ trương tinh giản bộ máy của hệ thống chính trị hiện nay. Là một trong những địa bàn có tốc độ phát triển kinh tế - xã hội nhanh, đặc biệt về mảng du lịch – dịch vụ, để trở thành trung tâm du lịch chất lượng cao của khu vực Bắc Trung Bộ, thành phố Sầm Sơn, tỉnh Thanh Hóa cần một lực lượng lao động trẻ có chất lượng, năng động, chuyên nghiệp và có ý thức chính trị – xã hội vững vàng.
Bình luận