Tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động giám sát tối cao của Quốc hội, góp phần kiểm soát quyền lực và tổ chức thực hiện thắng lợi đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước
Là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, cơ quan đại biểu cao nhất của Nhân dân, Quốc hội Việt Nam luôn thể hiện vị thế, vai trò đặc biệt quan trọng trong toàn bộ cơ chế tổ chức, vận hành, thực thi và kiểm soát quyền lực nhà nước, luôn khẳng định bản lĩnh một Quốc hội hành động vì lợi ích của Nhân dân, của đất nước. Dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm, đường lối của Đảng, Quốc hội từng khóa luôn hành động quyết liệt để thể chế hóa đầy đủ, kịp thời ý chí, nguyện vọng của Nhân dân, các nghị quyết của Đảng thành quy định của pháp luật và giám sát chặt chẽ, làm cho pháp luật có hiệu lực trên thực tế, phát huy vai trò, tính hiệu quả của cơ chế dân chủ đại diện trong thực hành dân chủ, bảo đảm và bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng, hợp pháp của nhân dân, giữ vững kỷ cương xã hội, góp phần kiểm soát quyền lực nhà nước.
Bên cạnh chức năng lập hiến, lập pháp, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước, Quốc hội là cơ quan nhà nước duy nhất được Nhân dân giao thực hiện quyền giám sát tối cao đối với hoạt động của Nhà nước nhằm góp phần kiểm soát quyền lực, bảo đảm việc tổ chức thực hiện có hiệu quả đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Hiện nay, việc kiểm soát quyền lực nhà nước ở nước ta được thực hiện theo nhiều phương thức khác nhau, đó là: kiểm soát bằng nguyên tắc quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp; kiểm soát bên trong từng cơ quan nhà nước; kiểm soát bằng công tác kiểm tra, giám sát của Đảng đối với tổ chức đảng và đảng viên hoạt động trong bộ máy nhà nước; kiểm soát bằng cơ chế thanh tra, kiểm tra, kiểm toán, hoạt động của các cơ quan nhà nước thực hiện quyền tư pháp và tham gia thực hiện quyền tư pháp; tự kiểm soát bằng thực hành trách nhiệm nêu gương, “tự soi”, “tự sửa”, tự phê bình và phê bình, gắn với xây dựng đạo đức cầm quyền, chức vụ càng cao càng phải nêu gương; kiểm soát bằng quản trị tốt dựa trên các nguyên tắc công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình, bảo vệ quyền con người, quyền công dân; kiểm soát thông qua giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và Nhân dân; kiểm soát thông qua giám sát dư luận và phản biện của báo chí;... Trong đó, giám sát tối cao của Quốc hội là một phương thức kiểm soát quyền lực quan trọng và có tính nền tảng trong cơ chế kiểm soát quyền lực ở Việt Nam hiện nay.
1. Thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển đất nước thời kỳ mới, cùng với yêu cầu xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, vấn đề khẳng định vị trí, vai trò của Quốc hội trong tổ chức quyền lực nhà nước, phát huy đầy đủ cơ chế dân chủ đại diện, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Quốc hội luôn được Đảng và Nhà nước ta quan tâm, đặc biệt là hoạt động giám sát tối cao. Điều đó được thể hiện trong đường lối, chủ trương của Đảng:
Đại hội X của Đảng (tháng 4/2006) khẳng định chủ trương “Xây dựng cơ chế vận hành của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, bảo đảm nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước đều thuộc về Nhân dân”(1), trong đó, cần “xây dựng, hoàn thiện cơ chế kiểm tra, giám sát tính hợp hiến, hợp pháp trong các hoạt động và quyết định của các cơ quan công quyền”(2); đồng thời, xác định “...tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội... Thực hiện tốt hơn nhiệm vụ quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước và chức năng giám sát tối cao”(3). Thông báo Kết luận số 144-TB/TW, ngày 28/3/2008, của Bộ Chính trị, “Về một số vấn đề về tổ chức, hoạt động của Quốc hội và Đảng đoàn Quốc hội”, đã khẳng định việc nhận thức đúng đắn về tầm quan trọng của hoạt động giám sát, tích cực hoàn thiện cơ sở pháp lý, đổi mới phương thức giám sát và tăng cường sự lãnh đạo sát sao của Ủy ban Thường vụ Quốc hội là những yếu tố rất quan trọng góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động giám sát của Quốc hội.
Đại hội XI của Đảng (tháng 1/2011) làm sâu sắc hơn nhận thức về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011) của Đảng xác định một trong tám đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa mà Đảng và Nhân dân ta phấn đấu xây dựng là: có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Đặc biệt, lần đầu tiên trong văn kiện Đại hội của Đảng, nguyên tắc kiểm soát quyền lực đã được ghi nhận.
Theo đó, “Nghiên cứu xây dựng, bổ sung các thể chế và cơ chế vận hành cụ thể để bảo đảm nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân và nguyên tắc quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp”(4). Đại hội XI nhấn mạnh tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội, bảo đảm Quốc hội thực sự là cơ quan đại biểu cao nhất của Nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất “Thực hiện tốt hơn nhiệm vụ quyết định và giám sát các vấn đề quan trọng của đất nước, nhất là các công trình trọng điểm của quốc gia, việc phân bổ và thực hiện ngân sách; giám sát hoạt động của các cơ quan tư pháp, công tác phòng, chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí”(5).
Đại hội XII của Đảng (tháng 4/2016) kiên định quan điểm đẩy mạnh xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân trong giai đoạn phát triển mới. Từ đó nêu rõ định hướng “Tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội, bảo đảm Quốc hội thực sự là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất. Quốc hội thực hiện tốt chức năng lập pháp, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối cao, nhất là đối với việc quản lý, sử dụng các nguồn lực của đất nước... Hoàn thiện cơ chế để nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của cơ quan dân cử, nhất là hoạt động lập pháp của Quốc hội, đại biểu Quốc hội, cơ chế giám sát, đánh giá đối với người giữ chức vụ do Quốc hội, Hội đồng nhân dân bầu hoặc phê chuẩn. Tăng cường hơn nữa sự gắn kết giữa giám sát của Quốc hội với kiểm tra, giám sát của Đảng, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và giám sát của Nhân dân”(6).
Kế thừa và phát triển quan điểm đã được xác định trong Văn kiện Đại hội Đảng các nhiệm kỳ trước đây về xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, trong đó có nhiệm vụ đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội, Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh cần: “Đổi mới phương thức, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động, phát huy dân chủ, pháp quyền, tăng tính chuyên nghiệp trong tổ chức và hoạt động của Quốc hội, trong thực hiện chức năng lập pháp, quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối cao...; hoàn thiện cơ chế bảo vệ Hiến pháp, cơ chế giám sát, lấy phiếu, bỏ phiếu tín nhiệm đối với những người giữ chức vụ do Quốc hội, Hội đồng nhân dân bầu hoặc phê chuẩn”(7). Tại phiên khai mạc kỳ họp thứ nhất, Quốc hội khóa XV, đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã chỉ đạo: “Tiếp tục đổi mới, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động giám sát chuyên đề, hoạt động chất vấn”, “chú trọng giám sát việc thực hiện các kết luận, kiến nghị sau giám sát”.
Thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, quán triệt chỉ đạo của đồng chí Tổng Bí thư, Chương trình hành động của Đảng đoàn Quốc hội đã xác định rõ việc đổi mới và đẩy mạnh công tác giám sát là khâu trọng tâm, then chốt để nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Quốc hội. Hoạt động giám sát tối cao nói riêng và tổng thể hoạt động giám sát của Quốc hội nói chung cần bám sát các nhiệm vụ trọng tâm đặt ra trong Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XIII, các nghị quyết, chỉ thị của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, nhất là về các vấn đề lớn, được quan tâm, như mô hình tăng trưởng, ổn định kinh tế vĩ mô, cơ cấu lại nền kinh tế, việc thực hiện các dự án quan trọng quốc gia, cải cách hành chính, sắp xếp, tinh gọn bộ máy nhà nước, đơn vị sự nghiệp công lập, các vấn đề về văn hóa, an sinh xã hội, hội nhập, hợp tác kinh tế quốc tế, bảo đảm quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội. Hoạt động giám sát của Quốc hội vừa phải bám sát, đáp ứng kịp thời nhu cầu của xã hội, tâm tư, nguyện vọng, mong muốn của Nhân dân và cử tri, đồng thời phải gắn với công tác lập pháp, cung cấp thông tin thực tiễn để hoàn thiện chính sách, pháp luật, nâng cao trách nhiệm của tổ chức, cá nhân trong thực hiện quy định của pháp luật, tăng cường hiệu quả hoạt động của các tổ chức, cá nhân chịu sự giám sát(8).
Như vậy, có thể khẳng định, việc nâng cao hiệu quả hoạt động giám sát tối cao của Quốc hội, hoạt động giám sát của các cơ quan của Quốc hội là một nội dung quan trọng trong quá trình đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội Việt Nam theo quan điểm, đường lối của Đảng về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân.
2. Một trong những yêu cầu của việc xây dựng Nhà nước pháp quyền là phải có hệ thống pháp luật đồng bộ, trong đó tính tối cao của Hiến pháp được bảo đảm và có một cơ chế kiểm soát hiệu quả đối với hoạt động của các cơ quan trong bộ máy nhà nước, mà trước hết là phát huy vai trò chức năng giám sát tối cao của Quốc hội - cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất.
Bản Hiến pháp đầu tiên của nước ta năm 1946 quy định “Nghị viện là cơ quan có quyền cao nhất của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa”, nhưng quyền giám sát tối cao chưa được thể hiện rõ, mà mới chỉ quy định quyền của Quốc hội trong việc “kiểm soát và phê bình Chính phủ” (Điều 36). Cùng với đó là các quy định về địa vị pháp lý, mối quan hệ giữa các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp trong cơ chế vận hành của quyền lực nhà nước theo tư duy “thực hiện một chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân” (Lời nói đầu của Hiến pháp năm 1946) có vai trò nhất định góp phần kiểm soát quyền lực nhà nước.
Hiến pháp năm 1959 có một bước phát triển về quyền giám sát của Quốc hội nước ta với quy định: “Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa” (Điều 43) và “Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập pháp của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa” (Điều 44). Mặc dù quyền giám sát vẫn chưa được xem như một chức năng quan trọng của Quốc hội như các bản Hiến pháp sau này, nhưng Hiến pháp năm 1959 đã xác định rõ hơn tính chất và vị trí của Quốc hội trong tổ chức bộ máy nhà nước ta thời bấy giờ, xác định cụ thể hơn với phạm vi, đối tượng rộng hơn, như quy định về hoạt động giám sát của Quốc hội đối với công tác của Hội đồng Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao (Điều 53). Tuy tính chất tối cao của quyền giám sát của Quốc hội chưa được nêu trực tiếp trong ngôn ngữ Hiến pháp, nhưng các quy định của Hiến pháp về quyền giám sát này đã bao hàm ý nghĩa tối cao và phạm vi giám sát đã bắt đầu bao quát các hoạt động của Nhà nước.
Đến Hiến pháp năm 1980 và nhất là Hiến pháp năm 1992 thì việc “Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của Nhà nước”(9) được chính thức khẳng định. Trên cơ sở đó, nội dung của quyền giám sát tối cao của Quốc hội cũng như các hình thức để Quốc hội thực hiện quyền này đã được cụ thể hoá thông qua các quy định của Hiến pháp, Luật Tổ chức Quốc hội, Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân và một số văn bản khác. Có thể nói, Hiến pháp năm 1980 và Hiến pháp năm 1992 không chỉ thể hiện bước phát triển quan trọng đối với quyền giám sát của Quốc hội, mà còn đưa quyền này lên một tầm cao mới. Theo quy định của Hiến pháp năm 1980 và Hiến pháp năm 1992, giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của Nhà nước không chỉ là quyền tối cao, mà còn là một chức năng đặc biệt có tính hiến định của Quốc hội nước ta.
Kế thừa và phát triển những giá trị cốt lõi từ các Hiến pháp trước đó, Hiến pháp năm 2013 đã thể hiện đúng tầm chức năng giám sát tối cao của Quốc hội theo tinh thần: “Thực hiện quyền giám sát tối cao việc tuân theo Hiến pháp, luật và nghị quyết của Quốc hội” (Điều 70). Đối với cấp tỉnh trở xuống, theo Luật Tổ chức Quốc hội năm 2014, Ủy ban Thường vụ Quốc hội là cơ quan có quyền giám sát đối với hoạt động của Hội đồng nhân dân; Hội đồng Dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội có quyền giám sát liên quan đến hoạt động của địa phương trong một số việc và lĩnh vực cụ thể(10). Theo Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân năm 2015, Ủy ban Thường vụ Quốc hội giám sát việc bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân, Đoàn đại biểu Quốc hội thực hiện hoạt động giám sát chuyên đề việc thi hành pháp luật ở địa phương...
Lần đầu tiên trong lịch sử lập hiến, Hiến pháp năm 2013 xác định vấn đề kiểm soát quyền lực theo nguyên tắc: “Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp” (Khoản 3, Điều 2); bảo đảm cho việc tiếp tục xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, góp phần phòng ngừa và ngăn chặn sự lộng quyền, lạm quyền, vượt quá sự ủy quyền của Nhân dân.
Trên cơ sở quy định của Hiến pháp, hệ thống pháp luật về giám sát từng bước được thể chế hóa và hoàn thiện, đặc biệt là Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân, “Quy chế tổ chức thực hiện một số hoạt động giám sát của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội, các Đoàn đại biểu Quốc hội, đại biểu Quốc hội”(11) là nền tảng pháp lý cơ bản và hết sức cần thiết để thực hiện thống nhất, hiệu quả hoạt động giám sát tối cao của Quốc hội, hoạt động giám sát của Ủy ban Thường vụ Quốc hội và các cơ quan nêu trên.
Bên cạnh đó, Quốc hội đã cụ thể hóa cơ chế kiểm soát quyền lực được quy định trong Hiến pháp vào các luật tổ chức bộ máy nhà nước và các đạo luật chuyên ngành khác, như: Luật Tổ chức Quốc hội, Luật Tổ chức Chính phủ, Luật Tổ chức Tòa án nhân dân, Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân, Luật Tổ chức chính quyền địa phương, Luật Kiểm toán nhà nước, Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân, Luật Phòng, chống tham nhũng... Qua đó, Quốc hội quy định cụ thể nhiệm vụ, quyền hạn và tổ chức bộ máy của các cơ quan này để góp phần từng bước hình thành các cơ chế kiểm soát quyền lực cụ thể, phù hợp với vị trí và tính chất của từng thiết chế quyền lực.
3. Quán triệt các quan điểm, đường lối của Đảng, quy định của Hiến pháp, pháp luật, đặc biệt là thực hiện định hướng của đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại phiên khai mạc kỳ họp thứ nhất, Quốc hội khóa XV: “Tiếp tục đổi mới, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động giám sát, nhất là giám sát chuyên đề, hoạt động chất vấn, phát huy dân chủ, tăng tính tranh luận, phân tích sâu, làm rõ những thành tích, ưu điểm, cũng như những tồn tại, khuyết điểm, tìm ra nguyên nhân, bài học kinh nghiệm và đề xuất các giải pháp xác đáng, khả thi. Chú trọng giám sát việc thực hiện các kết luận, kiến nghị sau giám sát”, hoạt động của Quốc hội nói chung và hoạt động giám sát của Quốc hội nói riêng đã thể hiện rõ tinh thần đổi mới, sáng tạo, hành động vì lợi ích của Nhân dân, của đất nước.
Trên tinh thần đó, quyền giám sát tối cao tại kỳ họp Quốc hội được tăng cường thông qua các hoạt động xem xét báo cáo, giám sát chuyên đề, chất vấn và trả lời chất vấn, lấy phiếu tín nhiệm... cùng với kết quả hoạt động giám sát của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội và đại biểu Quốc hội với phạm vi giám sát tập trung vào những vấn đề lớn, quan trọng hoặc bức xúc của cuộc sống, bao quát hầu hết các lĩnh vực. Thông qua hoạt động giám sát, đã khẳng định tính đúng đắn của chính sách, pháp luật, cũng như kịp thời phát hiện những hạn chế, bất cập để đưa ra kiến nghị bổ sung, hoàn thiện chính sách, pháp luật, làm cơ sở cho việc quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước; đồng thời, kiến nghị trách nhiệm chính trị của tổ chức, cá nhân, bảo đảm kỷ luật, kỷ cương, từ đó, các cơ quan hữu quan nhận thức đầy đủ trách nhiệm và thực hiện tốt hơn nhiệm vụ của mình. Hiệu quả giám sát tối cao của Quốc hội được thể hiện rõ trong từng hoạt động giám sát, cụ thể:
Thứ nhất, việc xem xét báo cáo của các cơ quan được thực hiện một cách thực chất, trách nhiệm, hiệu quả, có ý nghĩa quan trọng trong việc góp phần kiểm soát quyền lực đối với hoạt động của Chủ tịch nước, Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Các báo cáo về tình hình kinh tế - xã hội, công tác phòng, chống tội phạm và vi phạm pháp luật, công tác thi hành án, công tác phòng, chống tham nhũng, công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo và tổng hợp ý kiến, kiến nghị của cử tri... được thảo luận kỹ lưỡng. Những lĩnh vực vốn được coi là nhạy cảm, thường có nguy cơ cao dẫn đến sự lạm quyền, lộng quyền, “lợi ích nhóm”, xâm phạm đến những quyền cơ bản của công dân đã được Quốc hội xem xét và được phát thanh, truyền hình trực tiếp, thể hiện tính công khai, minh bạch trong hoạt động của bộ máy nhà nước. Những đổi mới khi xem xét các báo cáo với các hình thức giải trình, tranh luận và những phát biểu mang tính phản biện đã tạo không khí sôi nổi trong phiên thảo luận, làm cho việc xem xét, đánh giá các nội dung báo cáo trở nên thực chất, hiệu quả hơn. Qua đó giúp cho chính sách, pháp luật đi vào cuộc sống, phù hợp với thực tiễn, buộc các cơ quan nhà nước phải thực hiện đúng đắn, nghiêm túc, công bằng các quyền hạn được giao; kịp thời chấn chỉnh, khắc phục những thiếu sót, khuyết điểm trong quá trình triển khai thực hiện; đồng thời, là căn cứ để Quốc hội đánh giá hiệu lực, hiệu quả hoạt động của cơ quan và các chức danh do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn.
Thứ hai, hoạt động chất vấn không ngừng được đổi mới, hoàn thiện, trở thành một hình thức giám sát tối cao có hiệu quả trong hoạt động của Quốc hội, luôn thu hút sự quan tâm, theo dõi của các tầng lớp nhân dân. Với tinh thần xây dựng, trách nhiệm, tăng cường tranh luận, đối thoại, bảo đảm dân chủ, công khai, hoạt động chất vấn đã tác động mạnh mẽ đến hoạt động của bộ máy nhà nước và những người đứng đầu cơ quan nhà nước, thúc đẩy việc thực hiện có hiệu quả đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Thông qua phiên chất vấn, những bất cập, hạn chế trong quản lý nhà nước cũng như trách nhiệm của các cơ quan, cá nhân liên quan được phân tích, làm rõ.
Bước sang nhiệm kỳ Quốc hội khóa XV, với tinh thần chuẩn bị “từ sớm, từ xa”, Ủy ban Thường vụ Quốc hội và Lãnh đạo Quốc hội luôn chủ động cho ý kiến bước đầu về cách thức tổ chức chất vấn, trình tự, thủ tục lựa chọn nhóm vấn đề chất vấn và việc ban hành nghị quyết chất vấn. Nghị quyết về hoạt động chất vấn được xây dựng với nhiều yêu cầu, giải pháp thực hiện và có thời hạn hoàn thành cụ thể là điểm đổi mới đáng kể, giúp cho việc giám sát thực hiện lời hứa và các yêu cầu của Quốc hội sau chất vấn được kịp thời, khả thi và có căn cứ. Việc lựa chọn vấn đề và đổi mới phương pháp chất vấn tại các kỳ họp Quốc hội đã góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động chất vấn, bảo đảm các nội dung chất vấn hướng đúng trọng tâm, dần trở thành văn hóa nghị trường; qua đó, giúp các đại biểu Quốc hội đánh giá được năng lực thực thi quyền lực của người trả lời chất vấn đối với các quyền hạn được giao. Kết quả các phiên chất vấn cho thấy tinh thần sát thực tế, thiết thực, tâm huyết, thẳng thắn, trách nhiệm cao của người chất vấn và người trả lời chất vấn, được nhiều đại biểu Quốc hội, cử tri, nhân dân cả nước ghi nhận và đánh giá cao.
Thứ ba, việc xem xét báo cáo giám sát chuyên đề được chú trọng trên cơ sở kết quả giám sát của các Đoàn giám sát được Quốc hội thành lập. Tại các kỳ họp, Quốc hội đều bố trí thời gian thỏa đáng để xem xét, thảo luận báo cáo kết quả giám sát của các Đoàn giám sát và hầu hết được phát thanh, truyền hình trực tiếp để cử tri và nhân dân theo dõi, giám sát. Thời gian qua, hoạt động giám sát chuyên đề tiếp tục được hoàn thiện, góp phần làm rõ nhiều vấn đề, đặc biệt là các hạn chế, yếu kém, các vi phạm trong triển khai thi hành pháp luật về các lĩnh vực của đời sống xã hội. Nhiều chuyên đề có phạm vi rộng, bao trùm hoạt động kinh tế và đời sống xã hội đã được Quốc hội lựa chọn và tiến hành giám sát, như cải cách tổ chức bộ máy hành chính nhà nước; quản lý, sử dụng vốn, tài sản nhà nước tại doanh nghiệp và cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước; quy hoạch, quản lý, sử dụng đất đai tại đô thị; công tác quy hoạch; công tác thực hành tiết kiệm, chống lãng phí...
Trong nhiệm kỳ Quốc hội khóa XV, việc thành lập các Đoàn giám sát chuyên đề của Quốc hội có một số điểm mới so với trước đây như: 1- Nghị quyết thành lập Đoàn giám sát ban hành không kèm theo kế hoạch để tạo sự chủ động cho Đoàn giám sát; 2- Ủy ban Thường vụ Quốc hội xem xét, cho ý kiến và thông qua kế hoạch chi tiết, đề cương báo cáo của các Đoàn giám sát chuyên đề; đồng thời, xác định cụ thể hơn về đối tượng, nội dung giám sát tại Kế hoạch chi tiết; 3- Căn cứ tình hình thực tế và trên cơ sở xem xét báo cáo của các cơ quan, Đoàn giám sát sẽ lựa chọn cơ quan, địa phương và báo cáo Ủy ban Thường vụ Quốc hội xem xét, quyết định trước khi tổ chức giám sát trực tiếp tại cơ quan, địa phương, cơ sở; Đoàn giám sát tổ chức các tổ công tác đến làm việc, giám sát và có kết luận sơ bộ trước khi Đoàn giám sát xuống làm việc; đồng thời, sử dụng tối đa, có hiệu quả các kết quả, kết luận thanh tra, kiểm tra, kiểm toán; 4- Hội đồng nhân dân cấp tỉnh tổ chức việc thực hiện giám sát và gửi báo cáo về Đoàn giám sát; 5- Các Đoàn đại biểu Quốc hội tổ chức giám sát đối với cả bốn chuyên đề; đồng thời, huy động sự phối hợp tham gia giám sát của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc tỉnh, các tổ chức chính trị - xã hội và chịu trách nhiệm bước đầu về kết quả giám sát, tính xác thực của báo cáo tại địa phương.
Tại các phiên giám sát tối cao của Quốc hội, việc trình chiếu hình ảnh kết hợp với trình bày báo cáo của Đoàn giám sát là cách làm mới, cung cấp thêm nhiều thông tin, dẫn chứng sinh động, tạo hiệu ứng tích cực; tạo điều kiện thuận lợi cho đại biểu Quốc hội xem xét, thảo luận, đánh giá sâu sắc, toàn diện hơn về nội dung giám sát. Trên cơ sở đó, Quốc hội đã ban hành nghị quyết về kết quả giám sát làm căn cứ quan trọng giúp Chính phủ, các bộ, ngành, các cơ quan tư pháp và các cơ quan liên quan có những điều chỉnh phù hợp trong công tác chỉ đạo, điều hành, khắc phục những hạn chế, bất cập, tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, làm rõ trách nhiệm của tổ chức, cá nhân đối với các sai phạm để có biện pháp xử lý thích hợp nhằm không ngừng củng cố kỷ cương nhà nước; đồng thời, giúp Quốc hội có điều kiện đánh giá, kiểm nghiệm, bổ sung, hoàn thiện chính sách, pháp luật có liên quan, góp phần thực hiện tốt hơn chức năng lập pháp và quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước.
Thứ tư, các văn bản quy phạm pháp luật được xem xét nhằm sửa đổi, bổ sung và ban hành kịp thời, phù hợp với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Cho đến nay, mặc dù Quốc hội chưa tiến hành quy trình riêng biệt thực hiện thẩm quyền giám sát tối cao để xem xét một văn bản quy phạm pháp luật có dấu hiệu trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội tại kỳ họp Quốc hội theo quy định tại Điều 14 của Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân, tuy nhiên thông qua việc triển khai các chuyên đề giám sát, các Đoàn giám sát của Quốc hội đã chỉ ra hạn chế của hệ thống pháp luật liên quan tới chuyên đề được giám sát, trên cơ sở đó đề nghị cơ quan có thẩm quyền hoàn thiện chính sách, pháp luật có liên quan, góp phần bảo đảm tính đồng bộ, đầy đủ, kịp thời, nâng cao chất lượng văn bản quy phạm pháp luật.
Trên cơ sở các báo cáo của các Đoàn giám sát của Quốc hội, Quốc hội đã ban hành các nghị quyết để kịp thời khắc phục những hạn chế, vướng mắc, bất cập được nêu ra, trong đó có các nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu trong việc khẩn trương rà soát hệ thống văn bản quy phạm pháp luật. Bên cạnh đó, để hoạt động giám sát văn bản quy phạm pháp luật được thực hiện thường xuyên, liên tục và bảo đảm tính thống nhất, có hệ thống, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 560/NQ-UBTVQH15 về hướng dẫn việc tổ chức thực hiện hoạt động giám sát văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng Dân tộc, Ủy ban của Quốc hội; theo đó, Hội đồng Dân tộc, Ủy ban của Quốc hội tổ chức thực hiện việc báo cáo kết quả giám sát văn bản quy phạm pháp luật hằng năm (từ ngày 1/1 đến hết ngày 31/12) để báo cáo Ủy ban Thường vụ Quốc hội tại phiên họp tháng 4 trước khi trình Quốc hội tại kỳ họp tháng 5.
Thứ năm, hoạt động giám sát lại được đặc biệt quan tâm, thể hiện việc theo dõi, giám sát đến cùng việc thực hiện nghị quyết của Quốc hội, nâng cao trách nhiệm của người bị chất vấn, đặc biệt là người đứng đầu, nhiều vấn đề bức xúc của đời sống kinh tế - xã hội tiếp tục được đưa ra phân tích, xem xét thấu đáo dưới nhiều góc độ. Qua đó, cử tri và nhân dân cả nước thấy được những nỗ lực, trách nhiệm của Chính phủ, các bộ, ngành trong công tác chỉ đạo, điều hành và trách nhiệm của đại biểu trong việc giám sát, theo dõi việc thực hiện các yêu cầu của Quốc hội. Vào thời gian giữa và cuối nhiệm kỳ, Quốc hội tổ chức giám sát các thành viên Chính phủ về việc thực hiện các nghị quyết về giám sát chuyên đề, nghị quyết về chất vấn từ đầu nhiệm kỳ đến thời điểm giám sát để đánh giá việc thực hiện lời hứa của các cơ quan chịu sự giám sát.
Thứ sáu, việc lấy phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn tiếp tục là nội dung giám sát đặc biệt quan trọng, thể hiện mức độ tín nhiệm và sự ghi nhận, đánh giá công tâm, khách quan về những nỗ lực, kết quả đạt được của những người được lấy phiếu tín nhiệm. Qua đó, giúp những người được lấy phiếu tín nhiệm thấy được trách nhiệm của mình rõ hơn, có phương hướng khắc phục những khuyết điểm, thiếu sót, phấn đấu rèn luyện nhằm nâng cao năng lực, hiệu quả hoạt động, thực hiện tốt chức trách, quyền hạn được giao. Đây cũng là phương thức kiểm soát quyền lực có tính trực tiếp đối với những cán bộ lãnh đạo, trong đó có cán bộ lãnh đạo chủ chốt và cấp cao. Kết quả lấy phiếu tín nhiệm là “thước đo” hiệu quả hoạt động của những người giữ chức vụ do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn; đồng thời, là nguồn động lực để những người được tín nhiệm cao tiếp tục phát huy, cống hiến, những người chưa được tín nhiệm cao sẽ phấn đấu khắc phục khuyết điểm, nâng cao hiệu quả công việc.
Bên cạnh những kết quả đạt được, hoạt động giám sát tối cao của Quốc hội vẫn còn một số hạn chế cần được nhận diện để khắc phục trong thời gian tới nhằm đáp ứng tốt hơn nữa sự mong mỏi của cử tri và Nhân dân cả nước. Có thể khẳng định rằng, đổi mới hoạt động giám sát tối cao của Quốc hội là một vấn đề có ý nghĩa quan trọng và thực sự cấp thiết trong bối cảnh Đảng và Nhà nước ta đang đề cao vấn đề kiểm soát quyền lực, nhằm xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân.
4. Để tiếp tục đổi mới, nâng cao hơn nữa chất lượng giám sát tối cao của Quốc hội theo hướng tập trung giám sát hoạt động của cơ quan hành pháp, tư pháp, cơ quan khác do Quốc hội thành lập, người giữ chức vụ do Quốc hội bầu, phê chuẩn, góp phần kiểm soát quyền lực và tổ chức thực hiện có hiệu quả đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, Quốc hội chú trọng thực hiện tốt một số nội dung sau:
Một là, nâng cao nhận thức về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của Quốc hội, trong đó cần nhận thức đúng về vị trí, vai trò sự lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động giám sát của Quốc hội nói chung và giám sát tối cao của Quốc hội nói riêng.
Nâng cao nhận thức về vị trí, vai trò, tầm quan trọng hoạt động giám sát của Quốc hội theo hướng: Xác định việc đổi mới và đẩy mạnh công tác giám sát là khâu trọng tâm, then chốt để nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Quốc hội. Hoạt động giám sát của Quốc hội cần bám sát các nhiệm vụ trọng tâm đặt ra trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, các nghị quyết, chỉ thị của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư và sự chỉ đạo của đồng chí Tổng Bí thư; bám sát tình hình thực tế của đất nước, những vấn đề thực tiễn đặt ra, đáp ứng kịp thời nhu cầu của xã hội, phản ánh tâm tư, nguyện vọng, mong muốn của nhân dân và cử tri cả nước. Hoạt động giám sát phải cung cấp thông tin thực tiễn để hoàn thiện chính sách, pháp luật, nâng cao trách nhiệm của tổ chức, cá nhân trong thực hiện quy định của pháp luật, tăng cường hiệu quả hoạt động của các tổ chức, cá nhân chịu sự giám sát.
Nhận thức rõ vị trí, vai trò của hoạt động giám sát của Quốc hội - một trong các phương thức kiểm soát quyền lực, mối quan hệ giữa các hoạt động giám sát tối cao của Quốc hội với hoạt động giám sát của các cơ quan của Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội và đại biểu Quốc hội; trong đó, giám sát tối cao của Quốc hội giữ vị trí trung tâm. Đồng thời, nâng cao nhận thức về mối quan hệ biện chứng giữa chức năng giám sát và chức năng lập pháp, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước; mối quan hệ biện chứng giữa hoạt động giám sát với công tác xây dựng, thi hành pháp luật, nhất là các lĩnh vực có nhiều vướng mắc, bất cập; gắn kết chặt chẽ, bảo đảm kết nối và kế thừa hiệu quả giữa kết quả của hoạt động giám sát văn bản quy phạm pháp luật do Quốc hội tiến hành với kết quả của các hoạt động kiểm tra, kiểm soát chất lượng văn bản quy phạm pháp luật do Chính phủ thực hiện. Tiếp tục đẩy mạnh công tác giáo dục, đào tạo, bồi dưỡng, tuyên truyền để các chủ thể giám sát cũng như đối tượng chịu sự giám sát nhận thức đúng về vị trí, vai trò, tầm quan trọng của hoạt động giám sát của Quốc hội.
Hai là, nghiên cứu xác định rõ hơn phạm vi, đối tượng, phương pháp, hình thức giám sát tối cao của Quốc hội; tổ chức thực hiện có hiệu quả các quy định của pháp luật về hoạt động giám sát, tăng cường kỷ luật, kỷ cương trong triển khai các hoạt động giám sát, tập trung ở một số nội dung cụ thể sau: nâng cao chất lượng xây dựng chương trình giám sát của Quốc hội và Ủy ban Thường vụ Quốc hội; phát huy có hiệu quả vai trò chỉ đạo, điều hòa, phối hợp hoạt động giám sát của Ủy ban Thường vụ Quốc hội theo hướng chủ động, thống nhất, tránh trùng lặp, phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh cụ thể, phát huy được hiệu quả hoạt động giám sát; tăng cường tính tranh luận, đi sâu làm rõ vấn đề, trách nhiệm trong thảo luận, xem xét các báo cáo; tiếp tục nâng cao chất lượng hoạt động giám sát chuyên đề, trong đó coi trọng sử dụng thông tin từ cơ quan thanh tra, kiểm tra, kiểm toán, chuyên gia, nhà nghiên cứu trong xây dựng báo cáo và nghị quyết giám sát, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động giám sát chuyên đề; tiếp tục đổi mới phương thức, cách thức tổ chức chất vấn và trả lời chất vấn; tăng cường hoạt động chất vấn tại phiên họp của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, trong đó chú trọng xem xét, ban hành nghị quyết về chất vấn để làm rõ, xử lý kịp thời vấn đề chất vấn và làm cơ sở giám sát việc thực hiện; tăng cường xem xét các kiến nghị giám sát chưa được thực hiện, coi đây là nhiệm vụ thường xuyên của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội; giám sát văn bản quy phạm pháp luật một cách thường xuyên, báo cáo Quốc hội định kỳ hằng năm, mở rộng và gắn chặt giám sát văn bản quy phạm pháp luật với giám sát thực hiện chính sách, qua đó thể hiện cao hơn nữa trách nhiệm của Quốc hội, bảo đảm pháp luật được ban hành đi vào cuộc sống.
Tăng cường hoạt động giám sát việc thực hiện các nội dung liên quan đến công tác đối ngoại, an ninh quốc phòng, bảo vệ độc lập chủ quyền của đất nước; thực hiện đường lối đối ngoại, mở rộng hợp tác quốc tế, thu hút đầu tư nước ngoài, góp phần nâng cao vị thế, vai trò và đóng góp của Quốc hội Việt Nam trong các diễn đàn quốc tế và khu vực.
Ba là, tăng cường giám sát của Quốc hội trong phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, lãng phí theo hướng: Triển khai các hoạt động giám sát (chất vấn, giám sát chuyên đề, giải trình, giám sát văn bản quy phạm pháp luật, giám sát giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân, kiến nghị của cử tri...), Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, các Đoàn đại biểu Quốc hội và đại biểu Quốc hội phải chú trọng nội dung phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, lãng phí, xác định đây là nhiệm vụ thường xuyên, quan trọng và được tiến hành toàn diện và công khai, có trọng tâm, trọng điểm; tập trung vào các lĩnh vực dễ phát sinh tiêu cực, dư luận quan tâm về tham nhũng, tiêu cực, về suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống. Phát huy cơ chế tham gia của Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, các ban chỉ đạo cấp tỉnh, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội các cấp, nhân dân và cơ quan truyền thông, báo chí trong hoạt động giám sát, trong đó có giám sát việc thực hiện pháp luật về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực.
Căn cứ tình hình thực tế, nghiên cứu lồng ghép nội dung về phòng, chống tiêu cực trong báo cáo về công tác phòng, chống tham nhũng. Theo đó, hằng năm, Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao phải báo cáo Quốc hội về nội dung này, Ủy ban Tư pháp của Quốc hội chủ trì, phối hợp với Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban khác của Quốc hội tiến hành thẩm tra. Tại các kỳ họp cuối năm, trường hợp cần thiết, có thể bố trí để Quốc hội xem xét báo cáo công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực cùng với xem xét báo cáo thực hành tiết kiệm, chống lãng phí.
Bốn là, hoàn thiện cơ chế phối hợp giữa Quốc hội với các tổ chức đảng, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội trong hoạt động giám sát để phát huy vai trò giám sát của mỗi cơ quan, cùng tạo sức cộng hưởng thúc đẩy, nâng cao chất lượng, hiệu quả kiểm soát quyền lực. Tăng cường mối quan hệ phối hợp, cung cấp thông tin giữa Quốc hội với Ủy ban Kiểm tra các cấp của Đảng, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Kiểm toán Nhà nước trong hoạt động kiểm soát quyền lực. Tăng cường sự liên thông và phân định rõ nội dung giám sát giữa hoạt động giám sát của Quốc hội với giám sát của Hội đồng nhân dân, giám sát xã hội của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội, giám sát trực tiếp của Nhân dân.
Năm là, rà soát, tổng kết, đánh giá và nghiên cứu đề xuất sửa đổi, bổ sung một số quy định của pháp luật về hoạt động giám sát, đặc biệt là Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân để phù hợp với yêu cầu kiểm soát quyền lực trong tình hình mới. Bảo đảm tính tối cao trong hoạt động giám sát của Quốc hội đối với hoạt động của bộ máy nhà nước; tiếp tục đổi mới việc lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm với các chức danh do Quốc hội bầu, phê chuẩn; thực hiện việc thành lập Ủy ban lâm thời khi cần thiết theo quy định của Luật Tổ chức Quốc hội.
Xuất phát từ sự xem xét một cách toàn diện về nguyên tắc tổ chức quyền lực nhà nước, vai trò giám sát tối cao của Quốc hội trong cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước, có thể thấy, việc đổi mới, nâng cao chất lượng hoạt động giám sát tối cao của Quốc hội là vấn đề đã và đang được Quốc hội thực hiện và thể hiện thông qua những thay đổi trong tư duy và cách làm nhằm góp phần kiểm soát quyền lực nhà nước, tổ chức thực hiện có hiệu quả đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Giám sát phải trên tinh thần hết sức xây dựng; giữa “xây” và “chống” thì xây vẫn là căn bản, lâu dài; chống là quyết liệt, triệt để, cấp bách; phải phát huy được những mô hình tốt, những cách làm hay, gương người tốt, việc tốt; đánh giá cân bằng, khách quan để tiếp tục hoàn thiện thể chế, hệ thống pháp luật, tiếp tục nâng cao hiệu quả khâu tổ chức thực hiện để mọi việc tốt hơn, góp phần vào phát triển kinh tế - xã hội và xây dựng đất nước. Quốc hội phải luôn tự đổi mới chính bản thân mình, mỗi cơ quan của Quốc hội phải thực hiện tốt tự giám sát, mỗi đại biểu Quốc hội phải tự mình kiểm soát hoạt động của chính mình trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm trước cử tri để thực sự “mở ra một giai đoạn mới đầy triển vọng tốt đẹp trong hoạt động Quốc hội” như kỳ vọng của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại Phiên khai mạc kỳ họp thứ nhất, Quốc hội khóa XV./.
________________________________________
(1), (2), (3) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X (2006), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 126.
(4), (5) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI (2011), Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, tr. 247, 248-249.
(6) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII (2016), Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, tr.177-178.
(7) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII (2021), Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, T.1, tr.175-176.
(8) Quyết định số 2362-QĐ/ĐĐQH14, ngày 24/6/2021, của Đảng đoàn Quốc hội, về “Ban hành Chương trình hành động của Đảng đoàn Quốc hội về thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng”.
(9) Điều 82 của Hiến pháp năm 1980 và Điều 83 của Hiến pháp năm 1992.
(10) Chẳng hạn, Hội đồng Dân tộc giám sát việc thi hành chính sách dân tộc, chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi; Ủy ban Văn hóa, Giáo dục, Thanh niên, Thiếu niên và Nhi đồng giám sát việc thực hiện chính sách đối với thanh niên, thiếu niên và nhi đồng; Ủy ban Đối ngoại giám sát hoạt động đối ngoại, kinh tế đối ngoại của các ngành và địa phương, giám sát hoạt động ký kết, gia nhập và thực hiện thỏa thuận quốc tế...
(11) Nghị quyết số 334/2017/UBTVQH14, ngày 11/1/2017, của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, “Ban hành Quy chế tổ chức thực hiện một số hoạt động giám sát của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng Dân tộc, Ủy ban của Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội và đại biểu Quốc hội”.
Nguồn: Bài đăng Tạp chí Cộng sản điện tử ngày 15/09/2022
Bài liên quan
- Giữ gìn và bảo vệ giá trị văn hóa truyền thống các dân tộc ít người, góp phần củng cố, phát triển khối đại đoàn kết toàn dân tộc
- Xu hướng hòa bình, hợp tác, phát triển trên thế giới và vai trò của Việt Nam hiện nay
- Phát huy vai trò của ngành công nghiệp xuất bản trong việc gìn giữ bản sắc văn hóa dân tộc
- Quá trình phát triển đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ của Đảng ta trong gần 40 năm đổi mới
- Xây dựng và củng cố bản lĩnh, bản lĩnh chính trị cho sinh viên Việt Nam hiện nay
Xem nhiều
- 1 Video Tư liệu: Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông 30 năm xây dựng và phát triển
- 2 Về con đường đi tới của Việt Nam, quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ và tầm nhìn cho kỷ nguyên mới
- 3 Xu hướng hòa bình, hợp tác, phát triển trên thế giới và vai trò của Việt Nam hiện nay
- 4 Bài viết “Đôi điều suy nghĩ về làm tạp chí lý luận chính trị của Đảng” của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng với việc rèn luyện nâng cao năng lực và phẩm chất người làm tạp chí lý luận chính trị hiện nay
- 5 Củng cố niềm tin, khơi dậy ý chí tự lực, tự cường của sinh viên trong xây dựng và phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc
- 6 Nâng cao năng lực tư duy phản biện cho người học trong đào tạo người làm báo ở các trường đại học Việt Nam hiện nay
Liên kết
- Báo điện tử đảng cộng sản việt nam
- Báo nhân dân
- Báo Quân đội nhân dân
- Cổng thông tin điện tử Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Cổng thông tin điện tử Học viện Chính trị quốc gia hồ chí minh
- Tạp chí Cộng sản
- Tạp chí Giáo dục lý luận
- Tạp chí Giáo dục và Xã hội
- Tạp chí Khoa học xã hội và Nhân văn
- Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam
- Tạp chí Lý luận chính trị
- Tạp chí Nghiên cứu con người
- TẠP CHÍ Nghiên cứu dân tộc
- Tạp chí Người làm báo
- Tạp chí Nội chính
- Tạp chí Quản lý Nhà nước
- Tạp chí Tổ chức Nhà nước
- Tạp chí Tuyên giáo
- Tạp chí Xây Dựng Đảng
- Thư viện số Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Trang thông tin điện tử Hội đồng Lý luận Trung ương
Những thách thức về bảo vệ nền tảng tư tưởng trên các phương tiện truyền thông xã hội
Bảo vệ nền tảng tư tưởng trên các phương tiện truyền thông xã hội hiện nay đứng trước rất nhiều khó khăn, thách thức do các yếu tố chủ quan và khách quan mang lại. Lan toả các giá trị tư tưởng của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu để tiếp tục đưa đất nước tiến lên theo con đường xã hội chủ nghĩa. Vấn đề của hoạt động bảo vệ nền tảng tư tưởng trên các phương tiện truyền thông xã hội hiện nay là làm sao thu hút được sự quan tâm của đại bộ phận nhân dân, để nhân dân tin tưởng và làm theo Đảng thông qua những nội dung gần gũi, sinh động, hấp dẫn và hiện đại. Hai yếu tố ảnh hưởng lớn nhất tới hoạt động bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng chính là sự phát triển nhanh chóng của các phương tiện truyền thông, đặc biệt truyền thông xã hội và hiện tượng truyền thông hoá.
Giữ gìn và bảo vệ giá trị văn hóa truyền thống các dân tộc ít người, góp phần củng cố, phát triển khối đại đoàn kết toàn dân tộc
Giữ gìn và bảo vệ giá trị văn hóa truyền thống các dân tộc ít người, góp phần củng cố, phát triển khối đại đoàn kết toàn dân tộc
Với cộng đồng 54 dân tộc anh em, Việt Nam là quốc gia có nền văn hóa đa dạng, phong phú, có những nét riêng, trở thành tài sản quý giá làm nên bản sắc văn hóa Việt Nam độc đáo, đặc sắc. Giữ gìn và bảo vệ các giá trị di sản văn hóa truyền thống chính là góp phần củng cố phát triển khối đại đoàn kết dân tộc - một sức mạnh nội sinh to lớn và vĩ đại, làm nên mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam, dưới lá cờ vẻ vang của Đảng.
Xu hướng hòa bình, hợp tác, phát triển trên thế giới và vai trò của Việt Nam hiện nay
Xu hướng hòa bình, hợp tác, phát triển trên thế giới và vai trò của Việt Nam hiện nay
Trong bối cảnh hiện nay sự cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn, chạy đua vũ trang, các cuộc xung đột tôn giáo, sắc tộc vẫn diễn ra ở nhiều nơi, đặc biệt là cuộc xung đột quân sự giữa Nga và Ukraina ở Đông Âu, giữa Israel và Palestine vùng các tổ chức hồi giáo ở Trung Đông diễn biến ngày càng căng thẳng đe dọa tới hòa bình, an ninh khu vực và thế giới. Tuy vậy, hòa bình, hợp tác và phát triển vẫn là mục tiêu hướng tới của các nước, là xu hướng chính trị -xã hội tất yếu của nhân loại, từ đó đặt ra vai trò, trách nhiệm của các quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam.
Phát huy vai trò của ngành công nghiệp xuất bản trong việc gìn giữ bản sắc văn hóa dân tộc
Phát huy vai trò của ngành công nghiệp xuất bản trong việc gìn giữ bản sắc văn hóa dân tộc
Qua gần 40 năm đất nước ta thực hiện công cuộc đổi mới, việc xây dựng và phát triển văn hóa có nhiều thay đổi nhanh chóng, tích cực. Các sản phẩm văn hóa và nhu cầu hưởng thụ văn hóa ở Việt Nam ngày càng phát triển phong phú, đa dạng. Đặc biệt, tác động của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 đã mở ra một “thiên đường” tiện ích về các sản phẩm văn hóa hiện đại như E-book, Audio book, nghệ thuật số, các kênh phim trực tuyến,… Sự thay đổi mang tính bước ngoặt ấy mang đến nhiều cơ hội phát triển cho ngành công nghiệp xuất bản, nhưng cũng đặt ra thách thức lớn, trong đó có nguy cơ xóa nhòa ranh giới giữa các quốc gia, dân tộc về văn hóa. Điều đó đặt ra yêu cầu đối với ngành công nghiệp xuất bản là vừa phải phát triển xứng tầm, vừa phải góp phần giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc.
Quá trình phát triển đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ của Đảng ta trong gần 40 năm đổi mới
Quá trình phát triển đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ của Đảng ta trong gần 40 năm đổi mới
Ý chí độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường luôn trở thành động lực mạnh mẽ trong lịch sử hàng nghìn năm của dân tộc. Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng của Đảng kể từ khi ra đời năm 1930 đến nay, đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ luôn được Đảng ta đặt ra thường xuyên. Trải qua gần 40 năm đổi mới, đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ của Đảng ngày càng được nhận thức, bổ sung sâu sắc, đầy đủ hơn, phản ánh năng lực tư duy và tầm trí tuệ lãnh đạo đất nước, đáp ứng yêu cầu xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.
Bình luận