Xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh, giải quyết tốt mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa ở nước ta
Quan điểm của Đảng ta về xây dựng môi trường văn hóa
Hiểu theo nghĩa chung nhất, “môi trường văn hóa là tổng hòa các giá trị văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần tác động đến con người và cộng đồng trong một không gian và thời gian xác định”(1). Nói cách khác, môi trường văn hóa được thiết lập từ tổng thể các quan hệ giữa văn hóa với con người trong tính toàn vẹn của nó. Trong một chỉnh thể, môi trường văn hóa bao gồm nhiều tiểu hệ thống hợp thành: 1- Hệ thống những quan hệ văn hóa là yếu tố mang giá trị; 2- Hệ thống những giá trị văn hóa là yếu tố giá trị; 3- Hệ thống những hình thái hoạt động văn hóa là yếu tố thực hiện giá trị; 4- Hệ thống những thiết chế văn hóa là yếu tố định hướng giá trị. Trong quá trình vận động, mỗi tiểu hệ thống này luôn ở trạng thái tồn tại không đơn lẻ, riêng biệt, mà hợp thành tổng thể để phát triển không ngừng. Vì vậy, xây dựng môi trường văn hóa tốt đẹp thực chất là xây dựng, phát huy vai trò từng tiểu hệ thống trong cấu trúc tổng thể của nó theo hướng ngày càng đúng đắn, lành mạnh hóa.
Trong giai đoạn hiện nay, môi trường văn hóa có bước phát triển mới, nhất là trước tác động của thành tựu khoa học - kỹ thuật, cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Tuy nhiên, xu hướng xây dựng những giá trị nhân văn truyền thống, cũng như đề cao vị trí con người trong xã hội vẫn chiếm ưu thế, bởi vậy, vai trò của môi trường văn hóa đối với phát triển kinh tế - xã hội và con người ngày càng trở nên quan trọng. Thực tiễn đã khẳng định, sự tăng trưởng kinh tế là hết sức cần thiết đối với mỗi quốc gia, nhưng tăng trưởng kinh tế phải đi đôi với xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh thì xã hội mới thực sự phát triển nhanh và bền vững.
Đảng ta luôn xác định: “Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là sức mạnh nội sinh, động lực quan trọng để phát triển đất nước; xác định phát triển văn hóa đồng bộ, hài hòa với tăng trưởng kinh tế và tiến bộ xã hội là một định hướng căn bản của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”(2). Cùng với đó, việc xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh, phong phú luôn được Đảng và Nhà nước quan tâm, đồng thời chỉ rõ “chủ thể xây dựng và phát triển văn hóa là Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân là chủ thể sáng tạo; đội ngũ trí thức, văn nghệ sĩ đóng vai trò quan trọng”(3). “Đảng ta khẳng định: Trọng tâm xây dựng và phát triển văn hóa là xây dựng con người có nhân cách và xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh; chú trọng mối quan hệ giữa văn hóa và chính trị, văn hóa và kinh tế”(4). Hiện nay, trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, cần “xây dựng môi trường văn hóa số phù hợp với nền kinh tế số, xã hội số và công dân số, làm cho văn hóa thích nghi, điều tiết sự phát triển bền vững đất nước”(5).
Việc giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa ở nước ta
Để xây dựng nước ta trở thành một nước công nghiệp hiện đại, theo định hướng xã hội chủ nghĩa, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011) nêu lên một trong tám mối quan hệ lớn cần phải giải quyết đó là mối quan hệ “giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội”(6).
Tăng trưởng kinh tế là một yếu tố vô cùng quan trọng đối với mỗi quốc gia, vì nó tạo ra nền tảng vật chất, là cơ sở tồn tại và phát triển của xã hội thể hiện qua tăng trưởng GDP, mức độ hoàn chỉnh cơ cấu, thể chế kinh tế, nâng cao thu nhập đầu người, chất lượng cuộc sống. Nhiều năm trở lại đây, chiến lược phát triển kinh tế của mỗi quốc gia trên thế giới đang hướng tới phát triển bền vững với các nội dung cơ bản, là: Nền kinh tế năng động, luôn bảo đảm khả năng thích ứng; sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế thể hiện qua tỷ trọng giữa các ngành, thành phần kinh tế; các vùng, miền theo hướng hợp lý, tiến bộ hơn; sự gia tăng về quy mô, sản lượng và năng suất của nền kinh tế diễn ra trong thời gian tương đối dài, nhưng vẫn bảo đảm tính ổn định; tư duy và trình độ khoa học của xã hội ngày càng phát triển; đời sống vật chất, tinh thần của đại bộ phận người dân không ngừng được cải thiện... Cùng với đó, mục tiêu phát triển bền vững được xác định là phải đạt đầy đủ về vật chất, giàu có về văn hóa tinh thần; sự bình đẳng, đồng thuận trong xã hội, sự hài hòa giữa con người và tự nhiên. Như vậy, tăng trưởng kinh tế là phải hướng tới bảo đảm tính bền vững hiện tại, cũng như trong tương lai và đặc biệt chú trọng phát triển bền vững ba trụ cột chính (kinh tế, xã hội và môi trường) nhằm duy trì tốc độ tăng trưởng dài hạn ở mức độ hợp lý.
Phát triển văn hóa chính là sự phát triển toàn diện, đồng bộ các thành tố cấu thành nét đặc sắc văn hóa của mỗi quốc gia - dân tộc; chính là năng lực sáng tạo của con người hướng các giá trị nhân văn, thúc đẩy sự tiến bộ của xã hội. “Văn hóa được hiểu là một bộ phận của kiến trúc thượng tầng dựa trên sự phát triển của cơ sở hạ tầng mà cốt lõi là kinh tế. Kinh tế là cơ sở, là điều kiện để phát triển văn hóa”(7). Như vậy, văn hóa phát triển chính là sự phản ánh của phát triển kinh tế - xã hội. Hay nói cách khác, xét trong mối tương quan giữa chính trị, kinh tế, xã hội, thì văn hóa cũng là một bộ phận đóng vai trò trụ cột, cần có sự quan tâm đầu tư đồng bộ nhằm tạo nên sức mạnh tổng hợp của mỗi quốc gia trong quá trình phát triển.
Xuất phát từ bản chất, vai trò của tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, có thể nhận diện mối quan hệ giữa hai yếu tố này thông qua một số vấn đề sau: 1- Đời sống của con người cũng như xã hội luôn bao gồm vật chất và tinh thần. Trong đó, nếu kinh tế là nền tảng vật chất của xã hội, đáp ứng nhu cầu vật chất của con người và xã hội, thì văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, đáp ứng nhu cầu tinh thần của con người và xã hội; 2- Tăng trưởng kinh tế là cơ sở, điều kiện quan trọng hàng đầu cho phát triển văn hóa và văn hóa phát triển chính là mục tiêu, động lực để kinh tế tăng trưởng. Tăng trưởng kinh tế phải gắn với mục tiêu phát triển văn hóa, con người và xã hội, bởi vì, một khi sức sản xuất càng phát triển, thì quan hệ giữa kinh tế và văn hóa trở nên mật thiết, gắn chặt vào nhau. Tất cả những hoạt động kinh tế từ khâu sản xuất ra sản phẩm đến trao đổi, sử dụng sản phẩm đều mang yếu tố văn hóa, yếu tố con người; 3- Tăng trưởng kinh tế chính là tạo tiền đề vật chất cho sự phát triển văn hóa và con người; khi con người có điều kiện về vật chất thì tinh thần sẽ được nâng lên, đó là lúc con người sẽ tham gia vào quá trình sáng tạo, truyền bá và thụ hưởng các giá trị văn hóa. Có nghĩa là, một mặt, kinh tế phát triển bền vững sẽ bảo đảm sự cân bằng giữa tăng trưởng kinh tế với các vấn đề xã hội, môi trường, góp phần nâng cao chất lượng sống cho con người; mặc khác, văn hóa phát triển là động lực để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, trình độ dân trí…, thúc đẩy tăng trưởng nền kinh tế. Như vậy, mục tiêu cuối cùng của tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa là nâng cao chất lượng cuộc sống, đem lại hạnh phúc cho con người, sự phồn vinh của đất nước; 4- Hiện nay, cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đã, đang diễn ra mạnh mẽ làm cho mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa càng gắn chặt với nhau bởi nhiều yếu tố (tài nguyên, vốn, kỹ thuật, nguồn lực,...), trong đó, năng lực sáng tạo của con người là hết sức quan trọng. Cần tạo điều kiện cho các yếu tố văn hóa thấm sâu vào tất cả những hoạt động sáng tạo của con người; nghĩa là, văn hóa trở thành động lực quan trọng trong quá trình xây dựng hệ thống chính sách, chiến lược phát triển kinh tế.
Nhìn lại quá trình vận động, phát triển của cách mạng Việt Nam cho thấy, việc giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa đã được đặt ra ngay sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công. Vào ngày 10-1-1946, trong bài phát biểu tại cuộc họp đầu tiên của Ủy ban nghiên cứu kế hoạch kiến quốc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ mục tiêu phát triển kinh tế là vì con người có cuộc sống ấm no, hạnh phúc; phát triển kinh tế phải gắn liền với văn hóa. Do vậy, “Chúng ta phải thực hiện ngay: 1. Làm cho dân có ăn. 2. Làm cho dân có mặc. 3. Làm cho dân có chỗ ở. 4. Làm cho dân có học hành”. Người căn dặn: “Muốn tiến lên xã hội chủ nghĩa thì phải phát triển kinh tế và văn hóa. Vì sao không nói phát triển văn hóa và kinh tế? Tục ngữ ta có câu: Có thực mới vực được đạo; vì thế kinh tế phải đi trước”(8); “Văn hóa, nghệ thuật cũng như mọi hoạt động khác, không thể đứng ngoài, mà phải ở trong kinh tế và chính trị”(9); “phát triển kinh tế và văn hóa để nâng cao đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân ta”(10). Hay có thể hiểu, “kinh tế, và nói rộng ra là sự phát triển, gắn với văn hóa là nhằm phục vụ con người, phục vụ cộng đồng dân tộc”(11). Do vậy, khi “trình độ văn hóa của nhân dân nâng cao sẽ giúp chúng ta đẩy mạnh công cuộc khôi phục kinh tế, phát triển dân chủ. Nâng cao trình độ văn hóa của nhân dân cũng là một việc cần thiết để xây dựng nước ta thành một nước hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh”(12).
Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn cách mạng Việt Nam, nhất là từ khi tiến hành sự nghiệp đổi mới đến nay, để giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, Đảng ta đưa ra quan điểm “Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, một động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội, đồng thời là một mục tiêu của chủ nghĩa xã hội”(13). Vì vậy, Đảng ta xác định, “chăm lo văn hóa là chăm lo củng cố nền tảng tinh thần của xã hội. Thiếu nền tảng tinh thần tiến bộ và lành mạnh, không quan tâm giải quyết tốt mối quan hệ giữa phát triển kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội thì không thể có sự phát triển kinh tế - xã hội bền vững”(14). Với tư duy lý luận về văn hóa một cách toàn diện, sâu sắc trong giai đoạn cách mạng mới, tại Hội nghị Trung ương 5 khóa VIII, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã ra Nghị quyết số 03-NQ/TW, ngày 16/7/1998, “Về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”, xác lập một hệ thống “chính sách kinh tế trong văn hóa” và “chính sách văn hóa trong kinh tế”. Nghị quyết yêu cầu: Tăng trưởng kinh tế phải nhằm mục tiêu văn hoá, vì xã hội công bằng, văn minh, con người phát triển toàn diện. Văn hóa là kết quả của kinh tế đồng thời là động lực của sự tăng trưởng kinh tế. Các nhân tố văn hóa phải gắn kết chặt chẽ với đời sống và hoạt động xã hội trên mọi phương diện chính trị, kinh tế, xã hội, pháp luật, kỷ cương... trở thành nguồn lực nội sinh quan trọng nhất đối với phát triển đất nước. Trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021 - 2030, Đảng ta đề ra chủ trương: “Lấy giá trị văn hóa, con người Việt Nam là nền tảng, sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững. Phải có cơ chế, chính sách phát huy tinh thần cống hiến vì đất nước; mọi chính sách của Đảng, Nhà nước đều phải hướng vào nâng cao đời sống vật chất, tinh thần và hạnh phúc của nhân dân”(15).
Như vậy, ngay từ sớm, Đảng ta đã xác định phát triển văn hóa đồng bộ, hài hòa với tăng trưởng kinh tế, xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh, tạo động lực thực hiện thành công sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Từ những chủ trương, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đề ra đúng đắn, kịp thời đã đem lại nhiều thành quả quan trọng, đó là: Các giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của dân tộc được kế thừa, phát huy; việc tiếp thu tinh hóa văn hóa nhân loại để làm phong phú cho nền văn hóa của dân tộc trong từng giai đoạn hội nhập được chú trọng, nhiều giá trị văn hóa mới, đạo đức tiến bộ được khẳng định; làm tốt việc xây dựng, bồi dưỡng cho thế hệ trẻ thể hiện rõ khát vọng, ý chí lập thân, lập nghiệp... để văn hóa ngày càng khẳng định vai trò là nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu, động lực phát triển đất nước.
Từ khi Đảng ta thực hiện đường lối đổi mới đến nay, nền “kinh tế nước ta duy trì được tốc độ tăng trưởng bình quân khá cao (khoảng 6%/năm”(16)). Những năm gần đây, nhất là trong hai năm 2020 - 2021, mặc dù hậu quả của đại dịch COVID-19 và thiên tai, bão lũ nghiêm trọng liên tiếp xảy ra, tác động nặng nề tới mọi mặt của đời sống kinh tế - xã hội, “nhưng tốc độ tăng trưởng GDP bình quân giai đoạn 2016 - 2020 vẫn đạt khoảng 6% (riêng năm 2020 tăng trưởng GDP vẫn đạt 2,91%, là mức tăng trưởng thuộc nhóm cao nhất thế giới). Quy mô nền kinh tế và thu nhập bình quân đầu người tăng lên (năm 2020, GDP đạt 271,2 tỷ USD và thu nhập bình quân đầu người đạt 2.779 USD)(17) và năm 2023 ước đạt 449 tỷ USD, trở thành nền kinh tế lớn thứ tư trong ASEAN. Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã khẳng định: “Chúng ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, phát triển mạnh mẽ, toàn diện hơn so với những năm trước đổi mới... Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”(18). Cùng với kinh tế phát triển, nguồn lực của xã hội và Nhà nước đầu tư cho văn hóa ngày càng được nâng lên bởi “nhận thức, ý thức trách nhiệm của cả hệ thống chính trị và các tầng lớp nhân dân đối với sự nghiệp xây dựng và phát triển văn hoá, con người Việt Nam có chuyển biến tích cực. Trong kế hoạch, chiến lược phát triển của Trung ương, địa phương đều đặt nhiệm vụ xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện ở vị trí trung tâm. Phát triển văn hoá ngày càng gắn bó hơn với xây dựng con người Việt Nam, từng bước trở thành một trong những nguồn lực quan trọng của sự nghiệp phát triển bền vững và hội nhập kinh tế quốc tế”(19). Vì vậy, hệ thống thiết chế văn hóa từ Trung ương đến cơ sở từng bước hoàn thiện và được phát huy. Kế thừa những thành tựu đạt được từ phong trào “Đời sống mới” (năm 1961), hơn 36 năm đổi mới, các phong trào xây dựng “Gia đình văn hóa”, “Tổ dân phố văn hóa”, “Làng văn hóa”, “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư”, “Xóa đói giảm nghèo”, “Đền ơn, đáp nghĩa”, “Uống nước, nhớ nguồn”... được triển khai tại các địa phương, đơn vị trên mọi miền Tổ quốc. Thành quả nổi bật là, đời sống vật chất, tinh thần của người dân không ngừng được cải thiện; xuất hiện nhiều nhân tố mới, điển hình tiên tiến trong xây dựng văn hóa ở cơ sở; người dân ngày càng được thụ hưởng những sản phẩm văn hóa có giá trị. Đó là những điều kiện, cơ hội không chỉ cho phát triển văn hóa, mà còn là động lực cho tăng trưởng kinh tế trong giai đoạn mới.
Phát triển bền vững đất nước dựa trên “sức mạnh cứng” kinh tế quyện chặt với “sức mạnh mềm” văn hóa
Trong quá trình xây dựng và phát triển, bên cạnh những kết quả đạt được, việc nhận thức và giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa vẫn còn nhiều hạn chế:
Thứ nhất, do sức ép của tăng trưởng kinh tế, nên việc quan tâm phát triển văn hóa, xây dựng môi trường văn hóa và môi trường sống ở nhiều ngành, địa phương chưa được chú trọng đúng mức. Trong khi đó, việc quy hoạch, phát triển các khu công nghiệp, khu đô thị... hầu như chỉ chú ý đến lợi ích kinh tế mà chưa hài hòa, chưa bảo đảm điều kiện sống và môi trường văn hóa cho người dân.
Thứ hai, cùng với quá trình phát triển, sự phân tầng xã hội, phân hóa giàu nghèo ngày càng rõ, nhất là giữa khu vực thành thị và nông thôn, giữa các ngành nghề khác nhau, giữa các nhóm người có thu nhập cao, người thu nhập thấp... dẫn đến chênh lệch về mức thụ hưởng văn hóa.
Thứ ba, tình trạng suy thoái đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên; nảy sinh mâu thuẫn về lợi ích, hiện tượng bất bình đẳng, lối sống thực dụng, vị kỷ, cá nhân chủ nghĩa... là vấn đề đáng lo ngại; “môi trường văn hóa vẫn bị ô nhiễm bởi các tệ nạn xã hội, tham nhũng, tiêu cực”(20).
Thứ tư, chất lượng nguồn nhân lực vẫn là bài toán chưa được giải quyết tốt khi cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư ngày càng đặt ra nhiều thách thức đối với sự phát triển bền vững của đất nước.
Thứ năm, việc tổ chức triển khai thực hiện quan điểm, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về gắn tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa nhìn chung chưa thật sự đồng bộ, triệt để ở nhiều cấp ủy, chính quyền.
Nhằm giải quyết tốt mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa đáp ứng yêu cầu phát triển nhanh, bền vững đất nước trong giai đoạn mới, cần quan tâm giải quyết những vấn đề cơ bản sau:
Một là, trong bối cảnh toàn cầu hóa là một xu thế khách quan và sự tác động mạnh mẽ cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư không chỉ về mặt kinh tế, mà còn cả văn hóa, cần tận dụng hiệu quả các thành tựu khoa học - công nghệ tiên tiến, hiện đại, những tri thức mới để đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Từ giác độ văn hóa, toàn cầu hóa mở ra điều kiện giao lưu, tiếp biến văn hóa, tạo thêm động lực đổi mới, sáng tạo; đồng thời, những biến đổi văn hóa sẽ đặt ra nhiều thách thức to lớn cần phải giải quyết. Do vậy, việc xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh, phong phú chính là một trong những nhân tố nền tảng góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế - xã hội theo hướng bền vững, cần chú trọng “xây dựng môi trường văn hóa một cách toàn diện ở gia đình, nhà trường, cộng đồng dân cư, trong các cơ quan đảng, nhà nước, đoàn thể, doanh nghiệp để văn hóa thực sự là động lực, đột phá phát triển kinh tế, xã hội, hội nhập quốc tế”(21).
Hai là, để tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa bảo đảm sự hài hòa, đồng bộ cần quan tâm tiếp tục cơ cấu lại nền kinh tế, chuyển sang phát triển theo chiều sâu dựa trên nền tảng kinh tế tri thức, nguồn nhân lực chất lượng cao; tăng trưởng kinh tế phải đặt trong mối quan hệ hài hòa với chất lượng sống của con người, giảm thiểu tác động tới môi trường và suy thoái nguồn tài nguyên. Quan điểm, chiến lược xây dựng, quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội phải bảo đảm phân bổ hợp lý các nguồn lực giữa các vùng miền, khu vực.
Ba là, cần xác định văn hóa không chỉ là mục tiêu mà còn là động lực của tăng trưởng kinh tế; nguồn lực con người là vốn quý nhất, cần được quan tâm phát triển từ đạo đức, tâm hồn, nhân cách, lối sống, ý chí, nghị lực, trí tuệ, tài năng... Do đó, phải đầu tư phát triển văn hóa tương xứng với tăng trưởng kinh tế; đẩy mạnh xã hội hóa văn hóa, giáo dục, y tế và nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước trên các lĩnh vực này. Xây dựng thành công chủ trương xã hội học tập, học tập suốt đời theo hướng phát triển nền kinh tế tri thức; đồng thời, “khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, phát huy giá trị văn hóa, sức mạnh con người Việt Nam, tinh thần đoàn kết, tự hào dân tộc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”(22).
Bốn là, cùng với việc đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục về mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, cần phân định rõ các chủ thể trong việc giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa để đưa quan điểm, chủ trương của Đảng, chính sách, phảp luật của Nhà nước vào cuộc sống. Khi phân định được rõ trách nhiệm của từng chủ thể trong việc giải quyết mối quan hệ này, sẽ là cơ sở, điều kiện để các cơ quan chức năng kiểm tra, giám sát, qua đó, chấn chỉnh, định hướng các hoạt động trong thực tiễn.
Năm là, phát triển công nghiệp văn hóa với tư duy xem đây là ngành kinh tế sáng tạo, có khả năng sản xuất ra những sản phẩm, dịch vụ chất lượng mang tính cạnh tranh cao, làm tăng giá trị kinh tế, tạo ra nhiều giá trị mới, tri thức mới, công nghệ mới và “con người mới”, góp phần thúc đẩy sự phát triển nhanh, bền vững của đất nước.
____________________________
(1) Văn Đức Thanh (2001), Về xây dựng môi trường văn hóa cơ sở, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, tr. 30.
(2), (3), (4), (5), (16), (18), (20) Nguyễn Phú Trọng (2022), Một số vấn đề lý luận và thực tiễn vể chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, tr. 164, 165, 165, 172, 31, 34, 167.
(6) Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011), Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, tr. 16 - 17.
(7) Phạm Duy Đức, “Mối quan hệ giữa phát triển kinh tế và phát triển văn hóa trong xây dựng và phát triển đất nước”, ngày 19/9/2023, Tạp chí Tuyên giáo điện tử, truy cập: https://tuyengiao.vn/nghien-cuu/ly-luan/moi-quan-he-giua-phat-trien-kinh-te-va-phat-trien-van-hoa-trong-xay-dung-va-phat-trien-dat-nuoc-111475.
(8) Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, T.4, tr. 175.
(9) Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, T.7, tr. 246.
(10) Hồ Chí Minh (2004), Về Văn hóa, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, tr. 215.
(11) Phạm Văn Đồng (2023), Văn hóa và đổi mới (Xuất bản lần thứ hai), Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, tr. 68.
(12) Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, T.10, tr. 458 - 459.
(13) Nghị quyết số 04-NQ/HNTW, ngày 14/1/1993, của Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VII, “Về một số nhiệm vụ văn hóa, văn nghệ những năm trước mắt”.
(14) Nghị quyết số 03-NQ/TW, ngày 16/7/1998, của Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa VIII), “Về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”.
(15), (16), (17), (21) Đảng Cộng sản Việt Nam (2021),Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật. Hà Nội, T.I, tr. 216, 20, 60-61, 262.
(19) Kết luận số 76-KL/TW, ngày 4/6/2020, của Ban Chấp hành Trung ương, “Về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 33-NQ/TW, của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI về xây dựng và phát triển văn hoá, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước”.
(22) Đảng Cộng sản Việt Nam (2021),Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, T. II, tr. 338.
Nguồn: Bài đăng trên Tạp chí Cộng sản điện tử ngày 30/9/2023
Bài liên quan
- Hệ thống chính trị Việt Nam truyền thống và hiện đại từ góc nhìn đổi mới
- Tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả
- Giữ gìn và bảo vệ giá trị văn hóa truyền thống các dân tộc ít người, góp phần củng cố, phát triển khối đại đoàn kết toàn dân tộc
- Xu hướng hòa bình, hợp tác, phát triển trên thế giới và vai trò của Việt Nam hiện nay
- Phát huy vai trò của ngành công nghiệp xuất bản trong việc gìn giữ bản sắc văn hóa dân tộc
Xem nhiều
- 1 Video Tư liệu: Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông 30 năm xây dựng và phát triển
- 2 Giữ gìn và bảo vệ giá trị văn hóa truyền thống các dân tộc ít người, góp phần củng cố, phát triển khối đại đoàn kết toàn dân tộc
- 3 Sử dụng ChatGPT trong việc cải thiện kỹ năng viết cho sinh viên học tiếng Anh
- 4 Phát triển nguồn nhân lực ở tỉnh Bến Tre: Thực trạng và giải pháp
- 5 Lễ kỷ niệm và Hội thảo khoa học “30 năm - Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông”
- 6 Lễ kỷ niệm và Hội thảo khoa học “Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông 30 năm xây dựng và phát triển”
Liên kết
- Báo điện tử đảng cộng sản việt nam
- Báo nhân dân
- Báo Quân đội nhân dân
- Cổng thông tin điện tử Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Cổng thông tin điện tử Học viện Chính trị quốc gia hồ chí minh
- Tạp chí Cộng sản
- Tạp chí Giáo dục lý luận
- Tạp chí Giáo dục và Xã hội
- Tạp chí Khoa học xã hội và Nhân văn
- Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam
- Tạp chí Lý luận chính trị
- Tạp chí Nghiên cứu con người
- TẠP CHÍ Nghiên cứu dân tộc
- Tạp chí Người làm báo
- Tạp chí Nội chính
- Tạp chí Quản lý Nhà nước
- Tạp chí Tổ chức Nhà nước
- Tạp chí Tuyên giáo
- Tạp chí Xây Dựng Đảng
- Thư viện số Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Trang thông tin điện tử Hội đồng Lý luận Trung ương
Vai trò của quản trị truyền thông trong phát triển du lịch bền vững – Nghiên cứu trường hợp tại tỉnh Khánh Hòa
Trong bối cảnh du lịch ngày càng đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế, việc phát triển du lịch bền vững tại Khánh Hòa đòi hỏi sự tham gia chủ động của cả chính quyền, doanh nghiệp và cộng đồng địa phương (CĐĐP). Quản trị truyền thông không chỉ góp phần xây dựng hình ảnh Khánh Hòa là một điểm đến bền vững, mà còn trở thành công cụ quan trọng trong việc kết nối các bên liên quan, nâng cao nhận thức bảo vệ môi trường và bảo tồn văn hóa bản địa. Bài báo khoa học này tập trung hệ thống hóa và đánh giá tiềm năng du lịch cộng đồng (DLCĐ) tại tỉnh Khánh Hòa, đồng thời đề xuất các giải pháp quản trị truyền thông hiệu quả nhằm phát triển DLCĐ một cách đồng bộ, giúp du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn và đúng định hướng chiến lược, trong đó DLCĐ đóng vai trò cốt lõi. Kết quả nghiên cứu được thu thập thông qua các phương pháp như: phỏng vấn sâu; phương pháp khảo sát; phân tích, tổng hợp và so sánh dữ liệu; xử lý số liệu bằng phần mềm SPSS.22.0.
Hệ thống chính trị Việt Nam truyền thống và hiện đại từ góc nhìn đổi mới
Hệ thống chính trị Việt Nam truyền thống và hiện đại từ góc nhìn đổi mới
Nhìn toàn bộ tiến trình lịch sử chính trị của dân tộc, “Hệ thống chính trị” nước ta dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là một thiết chế chính trị mạnh, mô hình này phù hợp với hoàn cảnh Việt Nam và đúng với quy luật vận động của lịch sử. Và, cũng từ thực tế lịch sử, có thể thấy sức mạnh thực sự của Hệ thống chính trị mà chúng ta đang có chủ yếu không phải do tính chất nhất nguyên mà là do uy tín của Đảng, Nhà nước và lãnh tụ Hồ Chí Minh. Sức sống của hệ thống chính trị là sự phù hợp, thống nhất giữa mục đích của Đảng với nguyện vọng của nhân dân, với nhu cầu phát triển của đất nước. Hệ thống chính trị Việt Nam đương đại, trên cơ sở kết tinh các giá trị thiết chế truyền thống gắn với hiện đại không ngừng đổi mới phát triển khẳng định sức mạnh của Hệ thống tổ chức quyền lực Chính trị Việt Nam có vai trò quyết định thành công xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN.
Tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả
Tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả
Xây dựng tổ chức bộ máy hiệu lực, hiệu quả là công việc khó khăn, phức tạp, đòi hỏi sự đoàn kết, thống nhất, dũng cảm, sự hy sinh của từng cán bộ, đảng viên cùng với quyết tâm rất cao của toàn Đảng, cả hệ thống chính trị, trước hết là người đứng đầu cấp ủy, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và đoàn thể các cấp. Tạp chí Cộng sản trân trọng giới thiệu bài viết của đồng chí Tổng Bí thư Tô Lâm về xây dựng hệ thống chính trị với tiêu đề: “Tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả”:
Giữ gìn và bảo vệ giá trị văn hóa truyền thống các dân tộc ít người, góp phần củng cố, phát triển khối đại đoàn kết toàn dân tộc
Giữ gìn và bảo vệ giá trị văn hóa truyền thống các dân tộc ít người, góp phần củng cố, phát triển khối đại đoàn kết toàn dân tộc
Với cộng đồng 54 dân tộc anh em, Việt Nam là quốc gia có nền văn hóa đa dạng, phong phú, có những nét riêng, trở thành tài sản quý giá làm nên bản sắc văn hóa Việt Nam độc đáo, đặc sắc. Giữ gìn và bảo vệ các giá trị di sản văn hóa truyền thống chính là góp phần củng cố phát triển khối đại đoàn kết dân tộc - một sức mạnh nội sinh to lớn và vĩ đại, làm nên mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam, dưới lá cờ vẻ vang của Đảng.
Xu hướng hòa bình, hợp tác, phát triển trên thế giới và vai trò của Việt Nam hiện nay
Xu hướng hòa bình, hợp tác, phát triển trên thế giới và vai trò của Việt Nam hiện nay
Trong bối cảnh hiện nay sự cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn, chạy đua vũ trang, các cuộc xung đột tôn giáo, sắc tộc vẫn diễn ra ở nhiều nơi, đặc biệt là cuộc xung đột quân sự giữa Nga và Ukraina ở Đông Âu, giữa Israel và Palestine vùng các tổ chức hồi giáo ở Trung Đông diễn biến ngày càng căng thẳng đe dọa tới hòa bình, an ninh khu vực và thế giới. Tuy vậy, hòa bình, hợp tác và phát triển vẫn là mục tiêu hướng tới của các nước, là xu hướng chính trị -xã hội tất yếu của nhân loại, từ đó đặt ra vai trò, trách nhiệm của các quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam.
Bình luận