Bài viết của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về CNXH và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam” - một tác phẩm có ý nghĩa lý luận và thực tiễn to lớn
Về lý luận, đây là công trình tổng kết việc vận dụng sáng tạo và phát triển những tư tưởng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về CNXH và xây dựng CNXH trong điều kiện cụ thể của Việt Nam và bối cảnh thế giới từ sau những năm 80 thế kỷ thứ XX. Ý nghĩa lý luận to lớn của tác phẩm thể hiện trong những nội dung chủ yếu sau:
Thứ nhất, bài viết thể hiện nhận thức mới về thời đại, trong đó đặc biệt là nhận thức mới về chủ nghĩa tư bản. Kể từ sau khi Liên Xô sụp đổ kéo theo sự tan rã của hệ thống xã hội chủ nghĩa hiện thực trên thế giới, nhận thức về thời đại đã có những chuyển biến mới. Nhiều nhà nghiên cứu bị ảnh hưởng bởi hệ tư tưởng tư sản cho rằng sự kiện Liên Xô và hệ thống XHCN hiện thực sụp đổ là bằng chứng cho sự bền vững của chủ nghĩa tư bản và sự sai lầm của học thuyết Mác - Lênin về con đường đi lên CNXH của nhân loại. Ngay cả trong hàng ngũ của những người cộng sản và các nhà nghiên cứu tiến bộ cánh tả trên thế giới cũng có những người hoang mang, dao động, nghi ngờ về tính chất khoa học và sự đúng đắn của học thuyết về CNXH, đưa ra những nhận định bi quan về thời đại.
Bằng sự tổng kết có tính khái quát cao từ thực tế vận động của các quốc gia đi theo con đường phát triển TBCN trên thế giới trong những thập niên gần đây, bài viết của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã chỉ ra những mâu thuẫn thâm căn cố đế, những mặt trái không thể khắc phục của chủ nghĩa tư bản. Đó là: Các cuộc khủng hoảng nhiều mặt cả về kinh tế, chính trị, xã hội và nhân đạo “vẫn tiếp tục diễn ra”; “quá trình phát triển kinh tế - xã hội lấy lợi nhuận làm mục tiêu tối thượng, coi chiếm hữu của cải và tiêu dùng vật chất ngày càng tăng làm thước đo văn minh” đã làm trầm trọng thêm “sự cạn kiệt của các nguồn tài nguyên thiên nhiên, sự suy thoái của môi trường sinh thái”; tình trạng bất công bằng trong các xã hội tư bản ngày càng tăng lên khi chỉ “1% dân số nhưng chiếm giữ phần lớn của cải, tư liệu sản xuất, kiểm soát tới ¾ nguồn tài chính, tri thức và các phương tiện thông tin đại chúng chủ yếu”, v.v.. Và hậu quả tất yếu của sự phát triển trong nội bộ của các xã hội TBCN là “sự bùng nổ các xung đột xã hội”, bùng nổ “các phong trào phản kháng”, “phơi bày sự thật của những bất công xã hội”. Trên phạm vi thế giới, sự phát triển của CNTB và những cuộc can thiệp dưới nhiều hình thức nhằm phục vụ cho lợi ích hoặc áp đặt các “tiêu chẩn” của nó đã “gây ra những tổn hại nghiêm trọng cho các nước nghèo”, đẩy nhiều quốc gia, khu vực vào tình trạng tuyệt vọng, là nguyên chân căn bản của làn sóng di cư ở các khu vực Nam Á, Trung Đông, Bắc Phi và Mỹ La tinh hiện nay.
Thực tế đó là cơ sở chắc chắn, thuyết phục để khẳng định rằng, mặc dù “chủ nghĩa tư bản chưa bao giờ mang tính toàn cầu như ngày nay”, mặc dù nó “đã đạt nhiều thành tựu to lớn”, mặc dù đã “hình thành được không ít các chế độ phúc lợi xã hội tiến bộ hơn so với trước”, nhưng CNTB “không thể giải quyết được một cách triệt để” những cuộc khủng hoảng đang diễn ra ngay trong lòng xã hội của nó và trên phạm vi thế giới hiện nay, không thể giải quyết được những mâu thuẫn dẫn đến xung đột xã hội đã thuộc về quy luật vận hành của chế độ. Sự đánh giá toàn diện, khái quát và khoa học về CNTB hiện nay cùng với sự khẳng định về tính tất yếu, sự hợp lý và mục đích nhân văn cao cả của chủ nghĩa xã hội mà Việt Nam là một mô hình hiện thực, đã mang lại cái nhìn đúng đắn, tích cực hơn về thời đại. Đó cũng chính là sự khẳng định đanh thép rằng, con đường phát triển lên CNXH trong thời đại ngày nay vẫn đang là một thực tế hiển nhiên, không thể phủ định.
Thứ hai, tác phẩm “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về CNXH và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam” đã tổng kết thực tiễn, khái quát lý luận về một mô hình CNXH hiện thực Việt Nam được phát triển sáng tạo trên cơ sở học thuyết Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, những kinh nghiệm cách mạng thế giới và phù hợp với điều kiện lịch sử cụ thể của đất nước ta. Từ thực tiễn công cuộc đổi mới, từ việc Đảng ta vận dụng và phát triển học thuyết Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về CNXH trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã rút ra 5 giá trị cốt yếu đồng thời cũng là mục tiêu mà “Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng ta và nhân dân ta đã lựa chọn và đang kiên định, kiên trì theo đuổi”. Đó là: i) Một xã hội mà sự phát triển là thực sự vì con người; ii) Sự phát triển về kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; iii) Một xã hội nhân ái, đoàn kết tương trợ lẫn nhau, hướng tới các giá trị tiến bộ, nhân văn; iv) Sự phát triển bền vững, hài hòa với thiên nhiên để bảo đảm môi trường sống trong lành cho các thế hệ hiện tại và tương lai; v) Một hệ thống chính trị mà quyền lực thực sự thuộc về nhân dân, do nhân dân và phục vụ lợi ích của nhân dân. 5 giá trị cơ bản mà chúng ta đang theo đuổi thể hiện tính ưu việt của chế độ xã hội XHCN mà chúng ta đang xây dựng, đang dần dần hiện thực hóa trong đời sống xã hội. Đó cũng là những giá trị đối lập với những bất công, bất hợp lý, phi nhân văn mà các xã hội TBCN chỉ có thể tô vẽ trong những tuyên ngôn hoa mỹ mà không thể giải quyết được trên thực tế hiện tại, mà cũng không có khả năng giải quyết trong tương lai.
Từ những giá trị căn cốt và mục tiêu nhân văn đó, tác phẩm của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khẳng định nhận thức lý luận tổng quát của Đảng ta về mô hình CNXH mà nhân dân ta đang phấn đấu xây dựng. Đó là “một xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ nhau cùng phát triển; có nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới”.
Cùng với 8 đặc trưng trong mô hình CNXH mà nhân dân ta đang xây dựng, tác phẩm đã phân tích, nhấn mạnh và làm rõ những sáng tạo lý luận của Đảng ta nhằm thực hiện thắng lợi mục tiêu xây dựng, phát triển đất nước theo con đường XHCN. Một sáng tạo lý luận của Đảng được tác phẩm nhấn mạnh, phân tích, làm rõ tính chất sáng tạo đúng đắn là lý luận về nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Đồng chí Tổng Bí thư chỉ rõ: “Đưa ra quan niệm phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một đột phá lý luận rất cơ bản và sáng tạo của Đảng ta, là thành quả lý luận quan trọng qua 35 năm thực hiện đường lối đổi mới, xuất phát từ thực tiễn Việt Nam và tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm của thế giới”.
Trước hết, việc thừa nhận nền kinh tế thị trường như một phần tất yếu của thời kỳ quá độ lên CNXH đã là một bước đột phá về nhận thức lý luận của Đảng ta. Trên thực tế, đây là một vấn đề lý luận cốt tử, có ý nghĩa mở đường cho những quyết sách quan trọng của Đảng trong công cuộc đổi mới, trong đó có việc lần đầu tiên Đảng ta xác định việc xây dựng nền kinh tế nhiều thành phần, công nhận và xác lập các điều kiện thuận lợi cho sự phát triển kinh tế tư nhân, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài, xác lập trên cơ sở luật định việc vận hành đầy đủ và đồng bộ các quy luật của kinh tế thị trường. Đây cũng chính là chìa khóa mở ra những nút thắt của nền kinh tế bao cấp, khơi dậy và phát huy động lực, những tiềm năng to lớn cho sự tăng trưởng kinh tế của nước ta trong mấy chục năm qua.
Nhưng sự phát triển sáng tạo lớn nhất về lý luận của Đảng ta chính là đặt kinh tế thị trường như một vấn đề có tính quy luật của tăng trưởng kinh tế trong mối quan hệ gắn bó với định hướng XHCN, một vấn đề xuất phát từ tính ưu việt và mục đích nhân văn của CNXH. Như Tổng Bí thư giải thích trong bài viết: “Một đặc trưng cơ bản, một thuộc tính quan trọng của định hướng xã hội chủ nghĩa trong kinh tế thị trường ở Việt Nam là phải gắn kinh tế với xã hội, thống nhất chính sách kinh tế với chính sách xã hội, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước, từng chính sách và trong suốt quá trình phát triển. Điều đó có nghĩa là: không chờ đến khi kinh tế đạt tới trình độ phát triển cao rồi mới thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, càng không “hy sinh” tiến bộ và công bằng xã hội để chạy theo tăng trưởng kinh tế đơn thuần”.
Như vậy, nói kinh tế thị trường định hướng XHCN chính là nói đến “một kiểu kinh tế thị trường mới trong lịch sử phát triển của kinh tế thị trường; một kiểu tổ chức kinh tế vừa tuân theo những quy luật của kinh tế thị trường, vừa dựa trên cơ sở và được dẫn dắt, chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất của chủ nghĩa xã hội, thể hiện trên cả ba mặt: Sở hữu, tổ chức quản lý và phân phối”. Trong nền kinh tế đó, các chính sách phát triển kinh tế luôn gắn bó chặt chẽ, hài hòa với các chính sách phát triển văn hóa, xã hội; mỗi bước tiến về tăng trưởng kinh tế đều gắn bó chặt chẽ với việc thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, và tất cả đều hướng tới mục tiêu tối thượng là cải thiện toàn diện đời sống, mang lại hạnh phúc nhiều hơn cho nhân dân. Và những thành tựu phát triển kinh tế, cải thiện đời sống nhân dân, bảo đảm môi trường chính trị - xã hội ổn định trong hơn 35 năm thực hiện đường lối đổi mới của Việt Nam là bằng chứng không thể thuyết phục hơn về sự đúng đắn, hợp lý và hợp quy luật của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.
Thứ ba, ý nghĩa lý luận to lớn của tác phẩm chính “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về CNXH và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam” là bài học lớn về phương pháp luận trong việc kiên định mục tiêu và vận dụng sáng tạo, phát triển học thuyết về CNXH của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong những điều kiện, hoàn cảnh lịch sử cụ thể của nước ta. Trước hết, Đảng ta ngay từ khi thành lập đã khẳng định mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH. Trước sau như một Đảng ta đã lãnh đạo nhân dân và toàn dân tộc kiên định mục tiêu đã đặt ra, coi đó là hai ngọn cờ dẫn dắt cuộc cách mạng. Lấy phương pháp biện chứng của triết học Mác xít làm phương pháp luận, lấy chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh “dĩ bất biến, ứng vạn biến” làm phương châm cho hành động cách mạng, Đảng ta đã không ngừng sáng tạo, đề ra đường lối sáng suốt trong đấu tranh cách mạng cũng như trong xây dựng, phát triển đất nước. Từ trong khó khăn trăm bề của những năm đầu sau khi thống nhất đất nước, Đảng ta đã đề ra đường lối đổi mới, tạo cơ sở cho sự phát triển và những thành tựu có tính lịch sử.
Những gì Đảng ta đã sáng tạo trong đường lối đổi mới là sự khắc phục những lối mòn tư duy, khắc phục những rào cản nhận thức lý luận tưởng như không thể vượt qua, để tạo ra bước ngoặt, sự phát triển đột phá về lý luận, mở ra một chân trời tươi sáng cho tương lai của đất nước, của dân tộc. Đến lượt nó, những thành tựu to lớn, toàn diện về kinh tế, văn hóa, xã hội, không chỉ cải thiện không ngừng đời sống nhân dân, tăng cường tiềm lực, nâng cao vị thế, uy tín của đất nước trên trường quốc tế, mà đó còn là sự khẳng định bài học về kiên định mục tiêu, không ngừng sáng tạo trong vận dụng, phát triển lý luận; đó còn là một minh chứng hùng hồn cho năng lực lãnh đạo và sự tin cậy của nhân dân, của dân tộc đối với Đảng Cộng sản. Đó cũng chính là một bài học kinh điển mà Yury Andropov, cựu Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Liên xô đã chỉ ra trong bài viết “Học thuyết C.Mác và một số vấn đề về xây dựng chủ nghĩa xã hội tại Liên bang Xô viết” (Tạp chí Kommunist - Người cộng sản, năm 1983): “Kinh nghiệm của chúng ta cho thấy, để đạt được thành công trong xây dựng chủ nghĩa xã hội thì chính sách của Đảng Cộng sản cầm quyền phải dựa trên cơ sở khoa học vững chắc. Mọi thái độ coi thường vai trò của khoa học Mác - Lênin và sự phát triển mang tính tiên phong của môn khoa học này, mọi sự diễn giải mang tính thực dụng hẹp hòi về các nhiệm vụ của môn khoa học này, mọi sự khinh suất các vấn đề cơ bản của lý luận, mọi coi trọng thái quá đối với những việc mang tính ngắn hạn hay mọi lý thuyết mang tính học thuật đều dẫn đến những hậu quả nặng nề về chính trị và tư tưởng” (Báo Nhân dân, ngày 08/9/2021).
Tác phẩm “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về CNXH và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam” có ý nghĩa thực tiễn to lớn.
Thứ nhất, sự tổng kết, khái quát nhận thức lý luận của Đảng thể hiện trong tác phẩm của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng thêm một lần nữa khẳng định và làm rõ mô hình CNXH và những tính chất cơ bản, quyết định của chế độ xã hội mà Đảng ta đang lãnh đạo nhân dân ta xây dựng. Từ nhận thức lý luận về mô hình CNXH đặc thù Việt Nam, tác phẩm cũng chỉ ra yếu tố sống còn bảo đảm cho việc thực hiện thắng lợi công cuộc xây dựng CNXH chính là Đảng Cộng sản. “Thành công hay thất bại là phụ thuộc trước hết vào sự đúng đắn của đường lối, bản lĩnh chính trị, năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng”. Bởi thế, công tác xây dựng Đảng có tầm quan trọng đặc biệt. Đảng phải giữ vững bản chất cách mạng, không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu, phải làm cho tổ chức đảng và bộ máy nhà nước ngày càng trong sạch, vững mạnh, xứng đáng với sự tin cậy của nhân dân, coi “Sức mạnh nhân dân là cội nguồn sâu xa của thắng lợi, của phát triển”. Đảng phải “ngăn chặn và đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên, trước hết là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp”.
Sự tổng kết, khái quát nhận thức lý luận trên là cơ sở cho việc hoạch định đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam, chính sách, pháp luật của Nhà nước trong giai đoạn mới. Trước hết, đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước phải phù hợp với mục tiêu, tính chất của công cuộc xây dựng CNXH. Đó là một sự nghiệp lâu dài, tự giác, một công việc khổng lồ - như cách nói của Chủ tịch Hồ Chí Minh, một quá trình lao động, sáng tạo không mệt mỏi để kiến tạo một kiểu xã hội mới về chất, một sự biến đổi cách mạng không chỉ ở cơ sở vật chất, của cải, mà cả về tư tưởng, lối sống con người và các mối quan hệ xã hội. Vì thế không thể nóng vội đốt cháy giai đoạn hay chủ quan, coi thường những thách thức, nguy cơ phức tạp có thể xảy ra. Mặt khác, đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước phải xuất phát từ nhân dân, phản ánh nguyện vọng, lợi ích của nhân dân, vì sự phát triển tự do, toàn diện của con người và hạnh phúc của nhân dân. Bản chất chế độ xã hội XHCN là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Cơ sở chính trị của Đảng là niềm tin của nhân dân. Quyền lực của Đảng và Nhà nước là do nhân dân giao cho, nhân dân ủy nhiệm. Tôn trọng dân, gắn bó với nhân dân, phấn đấu vì hạnh phúc của nhân dân và không ngừng củng cố niềm tin của nhân dân đã trở thành một yêu cầu có tính quy luật của Đảng, Nhà nước và chế độ chúng ta. Nói như Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng trong phát biểu bế mạc Hội nghị Trung ương 6 khóa XII “làm hợp lòng dân thì dân tin và chế độ ta còn, Đảng ta còn. Nếu làm cái gì trái lòng dân, để mất niềm tin là mất tất cả”.
Hơn thế nữa, đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước phải xuất phát từ thực tiễn, những điều kiện cụ thể của đất nước, của dân tộc, đồng thời phải trên cơ sở nghiên cứu, tham khảo từ kinh nghiệm và thực tiễn của thế giới, của nhân loại. Nói cách khác, đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước phải thể hiện tinh thần chủ động hội nhập, tham gia tích cực vào các tiến trình chung của thế giới và đồng thời phải giữ vững được độc lâp, tự chủ, giữ vững được bản sắc của dân tộc, bản chất của chế độ XHCN Việt Nam. Đây cũng là một yêu cầu không thể xem nhẹ trong điều kiện toàn cầu hóa hiện nay.
Thứ hai, những tổng kết lý luận trong tác phẩm của Tổng Bí thư là cơ sở củng cố niềm tin của nhân dân, cơ sở cho việc khơi dậy lòng yêu nước, khát vọng phát triển, tăng cường nguồn lực con người cho công cuộc xây dựng, phát triển đất nước.
Một trong số ít yếu tố có ý nghĩa quyết định đối với sự lãnh đạo của một Đảng chính trị chính là xác định được nền tảng tư tưởng của mình với một hệ thống lý luận khoa học, đúng đắn và trên cơ sở học thuyết đó đề ra được mục tiêu, xác định rõ con đường, phương thức để đạt được mục tiêu đó. Sự đúng đắn, tính thuyết phục của hệ thống lý luận và mục đích hướng tới chính là ngọn cờ tập hợp nhân dân, một trong những yếu tố quan trọng nhất tạo dựng niềm tin của nhân dân. Khi nhân dân đã tin tưởng thì cơ sở chính trị của Đảng được bảo đảm vững chắc. Khi nhân dân đã tin tưởng sẽ tạo thành một lực lượng có sức mạnh dời non, lấp biển, có thể hoàn thành những nhiệm vụ chính trị to lớn và khó khăn. Nói như Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Công tác lãnh đạo tư tưởng là quan trọng nhất. Trong Đảng và ngoài Đảng có nhận rõ tình hình mới, hiểu rõ nhiệm vụ mới, thì tư tưởng mới thống nhất, tư tưởng thống nhất thì hành động mới thống nhất. Nếu trong Đảng và ngoài Đảng từ trên xuống dưới, từ trong đến ngoài đều tư tưởng thống nhất và hành động thống nhất thì nhiệm vụ tuy nặng nề, công việc tuy khó khăn phức tạp, ta cũng nhất định thắng lợi” (Hồ Chí Minh (2011) Toàn tập, Nxb. CTQG, H., T.8, tr.554-555).
Đó cũng là cơ sở để phản bác mọi sự xuyên tạc, chống phá của các thế lực phản động, những âm mưu chia rẽ đại đoàn kết toàn dân tộc, làm suy yếu chế độ nhằm những mục đích đen tối. Khi nhân dân đã tin tưởng vào mục đích cao cả nhân văn mà Đảng phấn đấu, tin tưởng vào vai trò lãnh đạo sáng suốt của Đảng thì chính nhân dân sẽ tạo cho mình một hàng rào cảnh giác về tư tưởng trước mọi sự xuyên tạc, chống phá của kẻ thù.
Bởi thế, sự tổng kết và xác quyết lý luận về mô hình CNXH và khẳng định con đường đi lên CNXH chính là yếu tố bảo đảm cho “từ trong đến ngoài đều tư tưởng thống nhất và hành động thống nhất”. Đó là điều kiện sống còn tiên quyết để khơi dậy lòng yêu nước, khát vọng phát triển, huy động mọi tiềm năng, nguồn lực to lớn trong nhân dân để thực hiện thành công sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước.
Thứ ba, tác phẩm “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về CNXH và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam” của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã góp phần khẳng định ý nghĩa, tầm quan trọng và sức sống trường tồn của của chủ nghĩa Mác - Lênin trong thời đại ngày nay; động viên phong trào cộng sản, công nhân quốc tế, cổ vũ cuộc đấu tranh vì hòa bình, tiến bộ của các dân tộc trên thế giới vì hạnh phúc của nhân dân.
Từ sau khi Liên Xô sụp đổ và hệ thống CNXH hiện thực trên thế giới tan rã, những người cộng sản, các lực lượng tiến bộ và nhân dân lao động yêu chuộng tự do, hòa bình trên thế giới đứng trước sự hoang mang, dao động, thậm chí lâm vào bi quan, mất niềm tin vào tương lai tốt đẹp của CNXH. Trong cuộc khủng hoảng của cách mạng thế giới đó, người ta mong mỏi, trông cậy và đặt nhiều hy vọng vào các Đảng Cộng sản chân chính đang giữ vai trò lãnh đạo trong một số ít quốc gia còn duy trì và phát triển theo con đường XHCN, trong đó có nước ta. Những thành tựu có tính lịch sử trong công cuộc đổi mới, xây dựng và phát triển của nước ta đã là niềm cổ vũ, động viên to lớn đối với các phong trào công nhân và cộng sản trên thế giới. Sự tổng kết lý luận về một mô hình CNXH mới của Việt Nam góp thêm một cơ sở đầy sức thuyết phục về sức sống của chủ nghĩa Mác - Lênin, góp phần khẳng định con đường đi lên CNXH là hiện thực sinh động, tích cực và tốt đẹp sau những đổ vỡ do sai lầm đã xẩy ra ở Liên Xô và các nước ở Đông, Trung Âu. Đó cũng là sự động viên, cổ vũ khát vọng các lực lượng công nhân, cộng sản, nhân dân lao động đang đấu tranh cho tiến bộ, công bằng và quyền con người chân chính trên toàn thế giới. Ý nghĩa đó được khẳng định trong tiếng nói đồng tình, chia sẻ của một lãnh đạo Đảng Lao động Thụy Sỹ: “Vậy còn đối với chúng tôi, thế nào là chủ nghĩa xã hội? Trước tiên, chủ nghĩa xã hội là khát khao bao đời của nhân loại, là niềm hy vọng của các tầng lớp bị áp bức từ khi xã hội có phân tầng, là niềm hy vọng của nhân loại được giải thoát khỏi mọi xiềng xích, là ước mơ về xã hội không có áp bức, bóc lột, không có tầng lớp thống trị, không bị chi phối bởi quyền lợi ích kỷ của một nhóm người, tiến tới một xã hội vận hành trên cơ sở hợp tác thông minh và tự nguyện của mọi công dân, vì lợi ích của mọi người” (Alexander Eniline, Ủy viên Trung ương Đảng Lao động Thụy Sỹ: “Bài viết của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng vững chắc về mặt lý luận, sáng tỏ về những khó khăn và mâu thuẫn thực tại”, báo Nhân dân, ngày 08/9/2021). Hay ý nghĩa thực tiễn đó được khẳng định rõ ràng, thẳng thắn và chân thành: “Bằng lý luận và thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, bài viết góp phần khẳng định ý nghĩa, tầm quan trọng và sức sống trường tồn của chủ nghĩa Mác - Lênin trong thời đại ngày nay” (Bimal Rathnayake: Ủy viên Bộ Chính trị, Trưởng ban Quốc tế Đảng Mặt trận Giải phóng Nhân dân Xri Lanca - JVP; báo Nhân dân, ngày 17/9/2021)./.
Nguồn: Bài đăng trên Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông số tháng 1/2022
Bài liên quan
- Những đóng góp của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng trong công tác xây dựng Đảng
- Nâng cao tính chính đáng cầm quyền của Đảng trong giai đoạn hiện nay
- Vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam trong đổi mới quản trị quốc gia theo hướng hiện đại, hiệu quả
- Từ chân lý “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” của Chủ tịch Hồ Chí Minh đến khát vọng xây dựng nước Việt Nam phát triển phồn vinh, hạnh phúc hiện nay
- Một số vấn đề về nhận diện bản chất của chủ nghĩa tư bản trong thời đại mới, góp phần củng cố vững chắc định hướng đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay
Xem nhiều
- 1 Video Tư liệu: Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông 30 năm xây dựng và phát triển
- 2 Sử dụng công nghệ trí tuệ nhân tạo trong sản xuất chương trình truyền hình
- 3 Giữ gìn và bảo vệ giá trị văn hóa truyền thống các dân tộc ít người, góp phần củng cố, phát triển khối đại đoàn kết toàn dân tộc
- 4 Sử dụng ChatGPT trong việc cải thiện kỹ năng viết cho sinh viên học tiếng Anh
- 5 Phát triển nguồn nhân lực ở tỉnh Bến Tre: Thực trạng và giải pháp
- 6 Lễ kỷ niệm và Hội thảo khoa học “30 năm - Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông”
Liên kết
- Báo điện tử đảng cộng sản việt nam
- Báo nhân dân
- Báo Quân đội nhân dân
- Cổng thông tin điện tử Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Cổng thông tin điện tử Học viện Chính trị quốc gia hồ chí minh
- Tạp chí Cộng sản
- Tạp chí Giáo dục lý luận
- Tạp chí Giáo dục và Xã hội
- Tạp chí Khoa học xã hội và Nhân văn
- Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam
- Tạp chí Lý luận chính trị
- Tạp chí Nghiên cứu con người
- TẠP CHÍ Nghiên cứu dân tộc
- Tạp chí Người làm báo
- Tạp chí Nội chính
- Tạp chí Quản lý Nhà nước
- Tạp chí Tổ chức Nhà nước
- Tạp chí Tuyên giáo
- Tạp chí Xây Dựng Đảng
- Thư viện số Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Trang thông tin điện tử Hội đồng Lý luận Trung ương
Công tác dân tộc qua những bài học cụ thể của Chủ tịch Hồ Chí Minh từ ngày đầu thành lập nước
Ngay sau khi nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời vào ngày 2/9/1945, chính quyền cách mạng non trẻ của chúng ta đã phải đương đầu với nạn “thù trong, giặc ngoài”, ở cả 2 miền Nam, Bắc vấn đề về xung đột dân tộc trở thành tâm điểm có nguy cơ gây ảnh hưởng trực tiếp đến sự tồn vong của nhà nước cách mạng non trẻ. Với trí tuệ uyên bác, sự lãnh đạo thiên tài của Chủ tịch Hồ Chí Minh, các vấn đề tưởng chừng hết sức phức tạp ấy lại được Người khéo léo giải quyết thành công, đem lại bài học có giá trị cách mạng sâu sắc về công tác dân tộc cả trong quá khứ, hiện tại và tương lai.
Những đóng góp của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng trong công tác xây dựng Đảng
Những đóng góp của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng trong công tác xây dựng Đảng
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã có những đóng góp to lớn đối với Đảng, với Tổ quốc, với Nhân dân. Đối với công tác xây dựng Đảng, Đồng chí giữ vai trò là ngọn cờ lý luận, là người truyền cảm hứng, là nhà lãnh đạo xuất sắc trong thực hành công tác xây dựng Đảng, là người cộng sản mẫu mực, là tấm gương sáng ngời cho cán bộ, đảng viên học tập, rèn luyện.
Nâng cao tính chính đáng cầm quyền của Đảng trong giai đoạn hiện nay
Nâng cao tính chính đáng cầm quyền của Đảng trong giai đoạn hiện nay
Trong quá trình thực thi quyền lực chính trị, tính chính đáng cầm quyền có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Tính chính đáng được xây dựng dựa trên cơ sở niềm tin của người dân đối với chủ thể cầm quyền, là sự thừa nhận rằng, chủ thể đó xứng đáng được cầm quyền. Nếu chủ thể cầm quyền có tính chính đáng cao, khi đưa ra các quyết định, các mệnh lệnh, mức độ chấp hành của người dân cũng cao. Điều này quy định tính hiệu quả của việc thực thi quyền lực.
Vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam trong đổi mới quản trị quốc gia theo hướng hiện đại, hiệu quả
Vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam trong đổi mới quản trị quốc gia theo hướng hiện đại, hiệu quả
Đổi mới quản trị quốc gia theo hướng hiện đại, hiệu quả là một chủ trương mới, được đưa ra trong Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, năm 2021. Tuy nhiên, nội dung, phương thức, bản chất của quản trị quốc gia là vấn đề còn khá mới mẻ và có nhiều ý kiến khác nhau. Mặt khác, vị trí, vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam trong quản trị quốc gia như thế nào? Bài viết góp phần thảo luận và phân tích, làm rõ những nội dung liên quan đến những vấn đề đó.
Từ chân lý “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” của Chủ tịch Hồ Chí Minh đến khát vọng xây dựng nước Việt Nam phát triển phồn vinh, hạnh phúc hiện nay
Từ chân lý “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” của Chủ tịch Hồ Chí Minh đến khát vọng xây dựng nước Việt Nam phát triển phồn vinh, hạnh phúc hiện nay
Chân lý “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” của Chủ tịch Hồ Chí Minh được Đảng ta kế thừa, vận dụng xuyên suốt quá trình lãnh đạo cách mạng. Trong bối cảnh mới hiện nay, nhiệm vụ tiếp tục quán triệt giá trị chân lý trên có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với công cuộc đổi mới đất nước, góp phần hiện thực hóa mục tiêu xây dựng nước Việt Nam phát triển phồn vinh, hạnh phúc.
Bình luận