Cống hiến vĩ đại của Ph.Ăngghen đối với chủ nghĩa Mác và lịch sử phong trào công nhân quốc tế
1. Hành trình tư tưởng của Ph.Ăngghen
Ph.Ăngghen sinh ngày 28.11.1820 tại Bácmen, tỉnh Rêni của Vương quốc Phổ (hiện nay là một phần của nước Đức). Ông là con trai trưởng của một nhà sản xuất sợi dệt giàu có người Đức. Cha ông là một chủ tư bản lớn, rất sùng đạo, tháo vát về kinh doanh, giao du rộng nhưng về chính kiến thì rất bảo thủ. Mẹ ông là một trí thức kinh tế, nhạy cảm, đôn hậu, hoạt bát, thích hài hước và yêu văn học, nghệ thuật. Ông ngoại của Ph.Ăngghen là một giáo sư đại học về ngôn ngữ học, thường kể cho cháu ngoại mình nghe chuyện về các anh hùng trong các thần thoại Hy Lạp cổ đại và truyền thuyết dân gian Đức.
Khi còn nhỏ, Ph.Ăngghen học trung học tại Bácmen. Năm 1837, khi mới 17 tuổi, Ph.Ăngghen đã phải dừng việc học để tập trung vào kinh doanh theo ý nguyện của cha. Ông làm việc ở văn phòng của cha gần một năm, sau đó đến Bơremơ làm trong một hãng buôn lớn. Thời kỳ này, ông đã có điều kiện liên lạc với nhóm nhà văn cấp tiến “Nước Đức trẻ” và cộng tác với tờ báo “Điện tín Đức”. Đây được coi là bước đệm đầu tiên đưa Ph.Ăngghen tiếp xúc với những vấn đề chính trị.
Mùa xuân năm 1841, Ph.Ăngghen rời Bơremơ. Sau đó ông đi thăm Thụy Sỹ và miền Bắc nước Ý. Không bao lâu sau, Ph.Ăngghen đến Béclin và tham gia vào một trung đoàn pháo binh. Trong những năm tháng tuổi trẻ, Ph.Ăngghen rất yêu thích văn chương và triết học. Ông đã nhiều lần đăng ký dự thính các lớp giảng dạy triết học ở các trường đại học và vì thế ông có điều kiện tiếp xúc với nhóm Hêghen trẻ.
Cũng như nhiều người trẻ ở Đức lúc bấy giờ, Ph.Ăngghen rất đề cao tư tưởng của Hêghen nhưng ông không hoàn toàn đi theo những tư tưởng của nhà triết học nổi tiếng này. Ngay từ những năm 40 của thế kỷ XIX, Ph.Ăngghen đã luôn trăn trở về những điều được viết trong Kinh thánh và vào sự tồn tại của Chúa trời, Thượng đế.
Điều đó đã thôi thúc Ph.Ăngghen viết một loạt bài với nhan đề “Những lá thư gửi từ Vúppơtan” đăng trên tờ báo Điện tín Đức. Ph.Ăngghen viết: “Chỉ riêng vùng Enbơphenđơ, trong số 2.500 trẻ em đến tuổi đi học, có 1.200 em không có khả năng đến trường và phải lớn lên trong công xưởng - chỉ cốt để cho chủ xưởng khỏi phải trả cho công nhân người lớn mà các em thay thế, một số tiền công gấp đôi tiền trả cho trẻ em. Nhưng bọn chủ xưởng giàu thường có một lương tâm co giãn và linh hồn của một người thuộc phái kiền thành cũng chưa phải đã sa xuống địa ngục vì có thêm hay bớt đi một trẻ em bị héo hon, hơn nữa, nếu như cái linh hồn ấy mỗi ngày chủ nhật đều đi lễ nhà thờ hai lần”(1).
Năm 1842, sau khi hết hạn lính, Ph.Ăngghen sang Manchester (Anh). Đây là quãng thời gian rất quan trọng trên hành trình tư tưởng của ông, vì ở đây, Ph.Ăngghen có điều kiện tiếp xúc với đông đảo các tầng lớp, giai cấp công nhân Anh. Do đó, ông đã có dịp hiểu biết thêm về tình cảnh của họ. Cũng trong thời gian này, Ph.Ăngghen có dịp tiếp xúc với những chiến sĩ của phái Hiến chương Anh và bắt đầu hợp tác trong việc xuất bản những tài liệu về chủ nghĩa xã hội.
Năm 1844, Ph.Ăngghen cho đăng trên tờ “Niên giám Pháp - Đức” tác phẩm “Phê phán chính trị kinh tế học”. Đây được coi là tác phẩm mở đầu cho tư duy phê phán của Ph.Ăngghen khi xem xét những tư tưởng về chính trị, kinh tế của các nhà tư tưởng cùng thời. Điều này được C.Mác - người chủ của tờ “Niên giám Pháp - Đức” lúc này đánh giá rất cao và coi là “một cuốn đại cương tài tình về khoa học chính trị của giai cấp vô sản”.
Tháng 8.1844, Ph.Ăngghen rời Manchester sang Đức. Khi đi ngang qua Paris, ông đã gặp C.Mác. Từ đây bắt đầu tình cảm cao đẹp và vĩ đại của C.Mác và Ph.Ăngghen, đồng thời cũng tạo ra những chuyển biến rất quan trọng trên hành trình tư tưởng của Ph.Ăngghen. Do nhanh chóng bắt gặp những điểm tương đồng về mặt lập trường, tư tưởng nên Ph.Ăngghen cùng với C.Mác đã viết chung tác phẩm “Gia đình thần thánh” năm 1845 để chống lại phái Hêghen trẻ.
Trong tác phẩm, hai ông đã bước đầu xây dựng được một số quan điểm về chủ nghĩa xã hội trên lập trường duy vật cách mạng. Sau đó, khi trở về Đức, Ph.Ăngghen đã viết tác phẩm riêng có nhan đề “Tình cảnh của giai cấp lao động ở Anh”. Đây là kết quả của thời gian ngắn Ph.Ăngghen sống ở Anh và có điều kiện tiếp xúc với giai cấp công nhân nơi đây nhưng nó đã cho thấy Ph.Ăngghen bắt đầu nhận ra rằng giai cấp vô sản không chỉ là những người bị bóc lột đầy đau khổ mà họ còn có khả năng tự giải phóng giai cấp mình.
Mùa xuân năm 1845, Ph.Ăngghen đến Bruyxen gặp C.Mác. Hai ông đã bàn bạc, thống nhất và viết chung tác phẩm lớn là “Hệ tư tưởng Đức” vào năm 1846 để phê phán tư tưởng của phái Hêghen trẻ và tư tưởng của Phoiơbắc - một nhà triết học nổi tiếng ở Đức lúc bấy giờ. Đây là tác phẩm đánh dấu sự trưởng thành lớn về mặt tư tưởng của Ph.Ăngghen với bước chuyển từ lập trường dân chủ cách mạng sang lập trường cộng sản chủ nghĩa; đồng thời cho thấy sự rũ bỏ của Ph.Ăngghen cũng như người bạn của mình là C.Mác khỏi cái bóng của các nhà triết học lớn của Đức đang có tầm ảnh hưởng rất rộng lúc bấy giờ là Hêghen và Phoiơbắc để xây dựng cho mình một hệ thống lý luận độc lập.
Tháng 2.1848, cách mạng Pháp nổ ra, cả C.Mác và Ph.Ăngghen bị trục xuất khỏi Bruyxen, sau đó là Paris. Tháng 1-1849, hai ông đến Côlônhơ lập tờ báo Rênani để đấu tranh tư tưởng. Vì lẽ đó, chính quyền tư sản đã truy lùng, trục xuất các ông ở khắp mọi nơi. Các ông bị vu cáo là xúc phạm nhà cầm quyền và bị đưa ra tòa cùng những người cộng sản ở Côlônhơ. Tại phiên tòa, cả C.Mác và Ph.Ăngghen đã kịch liệt lên án tính chất phản động, phản dân chủ của thể chế và pháp quyền tư sản. Được sự ủng hộ lớn của những người cộng sản tham gia phiên tòa, hai ông đã trắng án.
Sau đó, Ph.Ăngghen còn tham gia vào phong trào khởi nghĩa vũ trang của nhân dân. Do phong trào bị đàn áp nên ông sang Thụy Sỹ rồi sang Anh. Đây là thời kỳ hoạt động thực tiễn đầy sôi nổi của Ph.Ăngghen; đồng thời cung cấp cho ông những tư liệu sinh động để viết các tác phẩm về đấu tranh giai cấp và cách mạng như tác phẩm “Chiến tranh nông dân ở Đức” (1848-1849), và các tác phẩm viết chung với C.Mác như “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” (1848), “Cách mạng và phản cách mạng ở Đức” (1851-1852).
Cuối năm 1850, khi biết C.Mác đang sửa soạn để viết công trình nghiên cứu đồ sộ là “Tư bản”, Ph.Ăngghen đã chuyển đến Manchextơ để làm công cho một hãng buôn lớn ở đây - một công việc mà ông không hề thích thú, thậm chí là khinh ghét nhưng giờ đây ông đã tình nguyện làm với mong muốn có tiền để giúp đỡ C.Mác và cả gia đình bạn sinh sống; giúp C.Mác chuyên tâm nghiên cứu và viết “Tư bản”.
Trong thời kỳ này, Ph.Ăngghen cũng nghiên cứu và viết sách về khoa học quân sự. Khác với C.Mác, Ph.Ăngghen do không được học đại học một cách chính quy nên chủ yếu ông tự học, tự nghiên cứu. Ngoài việc đồng hành với C.Mác, Ph.Ăngghen còn tự tìm cho mình một hướng nghiên cứu riêng là khoa học tự nhiên và ngoại ngữ. Đó là tiền đề để Ph.Ăngghen tự ghi tên mình vào một tác phẩm nổi tiếng “Biện chứng của tự nhiên”. Tác phẩm đánh dấu bước chuyển biến rất lớn về mặt tư tưởng của Ph.Ăngghen vì bằng những dẫn chứng, lập luận thuyết phục về giới tự nhiên, ông đã chỉ ra những nguyên lý, quy luật, phạm trù cơ bản của cả tự nhiên, xã hội và tư duy con người. Đây là tác phẩm lớn được Ph.Ăngghen viết trong suốt 10 năm (1873-1883).
Năm 1876, Ph.Ăngghen viết tác phẩm “Tác dụng của lao động trong việc chuyển biến từ vượn thành người”. Đây được đánh giá là tác phẩm triết học về xã hội xuất sắc của Ph.Ăngghen, chứng minh khả năng của Ph.Ăngghen trong nghiên cứu cả giới tự nhiên và xã hội loài người.
Vào thời gian 1877-1878, khi đang viết “Biện chứng của tự nhiên”, ở Đức nổi lên một nhà triết học là O.Đuyrinh lên tiếng muốn phủ nhận, bác bỏ những tư tưởng của C.Mác. Ph.Ăngghen đã gác bỏ lại tác phẩm đang viết dở để tập trung củng cố, bảo vệ học thuyết Mác; nhân đó trình bày một cách có hệ thống các nguyên lý của chủ nghĩa Mác trên cả ba phương diện là triết học, kinh tế chính trị học, chủ nghĩa xã hội khoa học; đồng thời vạch trần sự xuyên tạc, giả dối có tính chất chủ quan của Đuyrinh trong tác phẩm nổi tiếng “Chống Đuyrinh”.
Sau khi C.Mác qua đời vào năm 1883, một mặt Ph.Ăngghen phải dồn sức để hoàn thành các tập tiếp theo của bộ “Tư bản” mà C.Mác còn dang dở; mặt khác, cùng với sức lao động phi thường và trí tuệ xuất sắc, Ph.Ăngghen còn viết một tác phẩm nổi tiếng từ sự khảo cứu lịch sử với nhan đề “Nguồn gốc của gia đình, chế độ tư hữu và nhà nước”, đồng thời quay trở lại hoàn thành tác phẩm “Biện chứng của tự nhiên” vào cuối năm 1883. Sau đó, Ph.Ăngghen viết tác phẩm nổi tiếng “Lútvích Phoiơbắc và sự cáo chung của triết học cổ điển Đức” (1888).
Trong những năm cuối đời, Ph.Ăngghen dành nhiều thời gian trao đổi thư từ với nhiều nhà triết học để bổ sung và làm rõ thêm những quan điểm duy vật về lịch sử nhằm phân biệt cách nhìn duy vật biện chứng về lịch sử với cách nhìn tầm thường, thô lỗ về lịch sử. Điểm rất đáng lưu ý trên hành trình tư tưởng của Ph.Ăngghen là trong khoảng hơn 20 năm (1872-1893), ông cùng C.Mác đã bảy lần viết “Lời tựa” cho những lần tái bản tác phẩm “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản”. Sau khi C.Mác qua đời năm 1883, những lời tựa sau đó chỉ còn một mình Ph.Ăngghen đứng tên. Những lời tựa đó chính là sự bổ sung, phát triển tư tưởng của Tuyên ngôn trên quan điểm thực tiễn, lịch sử - cụ thể và phát triển; làm cho “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” trở thành tác phẩm kiểu mẫu của việc bổ sung, phát triển chủ nghĩa Mác bằng thực tiễn sinh động mà chính Ph.Ăngghen là người đi đầu.
Ngày 5.8.1895, Ph.Ăngghen qua đời tại Luân Đôn, thọ 75 tuổi. Bình đựng tro cốt của Ph.Ăngghen được thả trên bờ biển miền Nam nước Anh - nơi ông vẫn thích đến đó nghỉ ngơi đúng như tâm nguyện cuối cùng của ông. Cuộc đời của Ph.Ăngghen không chỉ gắn liền với tình bạn cao đẹp với C.Mác - một tình bạn đã đi vào huyền thoại mà còn cho thấy hành trình tư tưởng đi từ “vương quốc của tất yếu” đến “vương quốc của tự do”. Vì vậy, V.I.Lênin - người học trò xuất sắc của C.Mác và Ph.Ăngghen đã khẳng định: “Từ ngày mà vận mệnh đã gắn liền C.Mác với Ph.Ăngghen thì sự nghiệp suốt đời của hai người bạn ấy trở thành sự nghiệp chung của họ”(2). V.I.Lênin cũng khẳng định thêm: “Không thể nào hiểu được chủ nghĩa Mác và trình bày đầy đủ được chủ nghĩa Mác, nếu không chú ý đến toàn bộ những tác phẩm của Ăngghen”(3).
2. Những đóng góp vĩ đại của Ph.Ăngghen đối với sự hình thành, phát triển của chủ nghĩa Mác và phong trào công nhân quốc tế
Trong suốt 40 năm gắn liền với C.Mác, Ph.Ăngghen đã dành trọn cuộc đời mình cho việc xây dựng nên một học thuyết khoa học hoàn bị và có vai trò to lớn trong việc cỗ vũ, khích lệ và trở thành vũ khí lý luận cho giai cấp vô sản đấu tranh giải phóng giai cấp mình và giải phóng xã hội loài người. Những đóng góp vĩ đại của Ph.Ăngghen đối với sự hình thành, phát triển chủ nghĩa Mác cũng như phong trào công nhân quốc tế được thể hiện ở những khía cạnh chủ yếu sau:
Thứ nhất, Ph.Ăngghen đã có đóng góp to lớn trong việc xây dựng học thuyết Mác trên cả ba bộ phận cấu thành là triết học, chủ nghĩa xã hội khoa học và kinh tế chính trị học.
Trên lĩnh vực triết học, cũng như C.Mác, Ph.Ăngghen tuy xuất thân từ phái Hêghen trẻ nhưng ông đã có công lao to lớn trong việc xây dựng chủ nghĩa duy vật biện chứng. Mặc dù trong khi khẳng định quan điểm duy vật về lịch sử là một trong hai phát kiến vĩ đại của C.Mác, Ph.Ăngghen cũng có công lao to lớn cung cấp những luận chứng thuyết phục để chứng minh tính chất duy vật triệt để của học thuyết Mác trong lĩnh vực lịch sử, xã hội; làm cho chủ nghĩa duy vật trở nên hoàn bị và là “công cụ nhận thức vĩ đại” của con người. Đặc biệt, bằng việc chỉ ra những quy luật của giới tự nhiên, Ph.Ăngghen không chỉ khẳng định tính thống nhất vật chất của thế giới mà còn làm sáng tỏ thêm mối quan hệ giữa triết học và khoa học tự nhiên. Với điều này, Ph.Ăngghen đã cùng với C.Mác xây dựng được một hệ thống lý luận triết học hoàn chỉnh với những quan điểm duy vật biện chứng và duy vật lịch sử.
Trên lĩnh vực chủ nghĩa xã hội khoa học, với những trải nghiệm trong thời gian dài ở Anh, Pháp, Đức cùng thời gian cộng tác với C.Mác; Ph.Ăngghen đã tạo lập và hoàn thiện những quan điểm về chủ nghĩa xã hội khoa học mà linh hồn của lý luận đó là làm sáng tỏ sứ mệnh lịch sử toàn thế giới của giai cấp công nhân - giai cấp có khả năng tổ chức và lãnh đạo xã hội thông qua Đảng Cộng sản, tiến hành cải biến xã hội từ chủ nghĩa tư bản sang chủ nghĩa xã hội trên phạm vi từng nước và trên thế giới.
Có thể nói, nhờ có lý luận này, giai cấp công nhân đã từng bước bước lên vũ đài chính trị và xác lập được vai trò to lớn của mình. Cùng với C.Mác, Ph.Ăngghen đã có công lao trong việc cung cấp những luận cứ thuyết phục để biến chủ nghĩa xã hội từ không tưởng trở thành chủ nghĩa xã hội khoa học. Vì vậy, “những chiến lược, sách lược cho cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân và sự hình thành các chính đảng vô sản mà ông đưa ra trong những năm tháng cuối cùng của cuộc đời hoạt động lý luận và thực tiễn cách mạng của ông là một cống hiến lớn vào kho tàng chủ nghĩa xã hội khoa học”(4).
Trên lĩnh vực kinh tế chính trị học, Ph.Ăngghen đã chứng tỏ là một nhà kinh tế học xuất sắc khi đã chỉ ra được những quy luật vận động của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa, bóc trần bản chất bóc lột giá trị thặng dư của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Đặc biệt, khi giúp C.Mác hoàn thành nốt những tập bản thảo còn dang dở của bộ “Tư bản”, Ph.Ăngghen cũng đã góp phần quan trọng trong việc luận giải những tư tưởng lớn của C.Mác về đặc trưng của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa.
Như vậy, có thể nói, “chủ nghĩa Mác trên tất cả các phương diện cấu thành của nó, từ nội dung đến phương pháp, từ những mầm mống đầu tiên đến khi có một diện mạo trưởng thành, từ những luận chiến đanh thép để tự bảo vệ trước những đòn tấn công, xuyên tạc của kẻ thù cho đến những tổng kết thực tiễn đặc sắc và những dự báo khoa học về xã hội tương lai đều in đậm dấu ấn những đóng góp kiệt xuất của Ph.Ăngghen”(5).
Thứ hai, cùng với C.Mác, Ph.Ăngghen đã đưa chủ nghĩa Mác trở thành một học thuyết vừa mang tính khoa học, vừa mang tính cách mạng.
Ngay từ đầu, mục đích của cả C.Mác và Ph.Ăngghen khi xây dựng học thuyết của mình không phải mang tính lý luận thuần túy mà phải trở thành vũ khí tinh thần cho giai cấp công nhân. Vì vậy, trên hành trình của mình, Ph.Ăngghen đã dành nhiều thời gian để tìm hiểu về đời sống, tình cảnh của những người lao động, đặc biệt là giai cấp công nhân. Chính hoạt động của giai cấp công nhân ở Anh, Pháp, Đức... đã giúp cho Ph.Ăngghen từng bước hoàn thiện lý luận của mình trở thành một ngọn đuốc soi đường cho giai cấp công nhân và nhân dân lao động cần lao. Phong trào công nhân đã tìm thấy ở triết học Mác vũ khí tinh thần của mình, còn triết học Mác tìm thấy ở phong trào công nhân vũ khí vật chất của mình: “Giống như triết học thấy giai cấp vô sản là vũ khí vật chất của mình, giai cấp vô sản cũng thấy triết học là vũ khí tinh thần của mình”(6). Nhờ đó, học thuyết Mác không chỉ mang tính khoa học mà còn mang tính cách mạng.
Không chỉ hoạt động trong lĩnh vực tư tưởng để mang đến cho giai cấp công nhân vũ khí lý luận đấu tranh sắc bén, Ph.Ăngghen còn dành nhiều tâm sức để hoạt động thực tiễn và có đóng góp không nhỏ vào hoạt động của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Cùng với C.Mác, Ph.Ăngghen đã đấu tranh không khoan nhượng chống lại những khuynh hướng cải lương và biệt phái (của Pruđông, Latxan, Bacunin...) để thống nhất hàng ngũ quốc tế.
Ph.Ăngghen là người đỡ đầu của Đảng Dân chủ - xã hội Đức và có ảnh hưởng to lớn đến hoạt động của Đảng. Những nhà xã hội chủ nghĩa Pháp, Áo, Hungari, Anh, Ba Lan, Tây Ban Nha, Italy, Nga, Hà Lan và nhiều nước khác đều nhận được sự giúp đỡ vô giá về tinh thần của Ph.Ăngghen. Vì vậy, đúng như V.I.Lênin nhận xét: “Sau bạn ông là Các Mác (mất năm 1883), Ph.Ăngghen là nhà bác học và là người thầy lỗi lạc nhất của giai cấp vô sản hiện đại trong toàn thế giới văn minh”(7). Những đóng góp to lớn của Ph.Ăngghen đối với phong trào cộng sản và công nhân quốc tế đã khiến Ph.Ăngghen xứng danh là “người thầy vĩ đại” của giai cấp công nhân toàn thế giới.
Thứ ba, Ph.Ăngghen đã không ngừng bảo vệ, phát triển chủ nghĩa Mác trong bất kỳ điều kiện, hoàn cảnh nào.
Trong cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, cùng với C.Mác, Ph.Ăngghen đã nhiều lần bị chính quyền tư sản các nước trục xuất, kiện ra tòa vì tội “nói xấu”, “phỉ báng” chính quyền. Không chỉ có vậy, tư tưởng của các ông luôn bị chủ nghĩa cơ hội, xét lại xuyên tạc, bội nhọ, phản bác. Vì vậy, bên cạnh những tác phẩm có tính chất tuyên ngôn hay lý luận thuần túy, Ph.Ăngghen còn viết một số tác phẩm bút chiến để vạch trần luận điệu xuyên tạc, lừa bịp của những kẻ cơ hội, tư sản. Một trong những tác phẩm tiêu biểu nhất cần phải kể đến là “Chống Đuyrinh”. Với tác phẩm này, Ph.Ăngghen đã có dịp trình bày một cách có hệ thống những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác. Đó là cách mà Ph.Ăngghen vừa bảo vệ, vừa phát triển chủ nghĩa Mác lên một tầm cao mới. Điều đáng trân trọng là trong bất cứ điều kiện, tình huống nào, Ph.Ăngghen cũng luôn tuyệt đối trung thành với hệ tư tưởng mà mình và C.Mác đã xây dựng lên.
Ph.Ăngghen không bảo vệ chủ nghĩa Mác một cách cực đoan, cứng nhắc. Ph.Ăngghen từng nhấn mạnh: “Học thuyết của chúng tôi không phải là một giáo điều mà là kim chỉ nam cho hành động”(8). Ông không coi học thuyết Mác là một hệ thống đóng, một cái gì đó đã xong xuôi mà cần bổ sung, phát triển bằng thực tiễn sinh động. Điển hình là việc cùng với C.Mác, Ph.Ăngghen đã bảy lần viết lại lời tựa cho tác phẩm “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản”. Qua mỗi lần tái bản đã cho thấy Ph.Ăngghen luôn có ý thức bổ sung, phát triển chủ nghĩa Mác gắn với điều kiện, hoàn cảnh của mỗi thời kỳ lịch sử.
Tinh thần bảo vệ học thuyết Mác của Ph.Ăngghen đã được các học trò của ông kế thừa, khiến chủ nghĩa Mác ngày càng phát triển. V.I.Lênin - người đã không ngừng bảo vệ, phát triển học thuyết Mác nhiều lần nhấn mạnh: “Chúng ta không hề coi lý luận của Mác như là một cái gì đã xong xuôi hẳn và bất khả xâm phạm; trái lại, chúng ta tin rằng lý luận đó chỉ đặt nền móng cho môn khoa học mà những người xã hội chủ nghĩa cần phải phát triển hơn nữa về mọi mặt, nếu họ không muốn trở thành lạc hậu đối với cuộc sống”(9).
Chúng ta đang sống trong điều kiện rất khác so với thời của C.Mác và Ph.Ăngghen. Khoa học - công nghệ với những bước tiến nhảy vọt góp phần tạo ra lực lượng sản xuất mà xưa nay nhân loại chưa từng được chứng kiến. Tri thức xã hội phổ biến đang trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp như C.Mác dự báo; năng suất lao động nhờ vậy tăng lên nhanh chóng. Nền kinh tế tri thức đã ra đời và đang vận hành hiệu quả ở nhiều nước phát triển. Quá trình quốc tế hóa mà vào thế kỷ XIX C.Mác nói đến đã thực sự trở thành quá trình toàn cầu hóa trong thời đại chúng ta. Ở các mức độ khác nhau, tất cả các nước đều bị cuốn hút hội nhập vào toàn cầu hóa, bởi vì nó đã “xâm nhập vào khắp nơi, trụ lại ở khắp nơi và thiết lập những mối liên hệ ở khắp nơi”(10). Không ít kẻ vội cho rằng thực tiễn đã có nhiều thay đổi nên nhiều quan điểm của C.Mác và Ph.Ăngghen về lịch sử xã hội loài người đã không còn phù hợp nữa, cần phải được thay thế bằng một hệ thống lý luận khác. Điều này đặt ra yêu cầu quan trọng đối với chúng ta là một mặt tiếp tục khẳng định những chân giá trị của chủ nghĩa Mác, mặt khác, theo gương Ph.Ăngghen cần phải bổ sung, phát triển chủ nghĩa Mác bằng thực tiễn phong phú của thời đại ngày nay.
__________________________________
(1), (6) C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, 2002, Nxb. CTQG, H., T.1, tr.625-626, 589.
(2) V.I.Lênin: Toàn tập, 2005, Nxb. CTQG, H., T.2, tr.3.
(3) V.I.Lênin: Toàn tập, 2005, Nxb. CTQG, H., T.26, tr.110.
(4) Đoàn Minh Huấn - Nguyễn Chí Hiếu: “Tư tưởng của Ph.Ăngghen về vai trò của lý luận đối với chính đáng vô sản và ý nghĩa trong công tác phát triển lý luận của Đảng Cộng sản Việt Nam hiện nay”, Kỷ yếu Hội thảo khoa học kỷ niệm 195 năm ngày sinh của Ph.Ăngghen: “Giá trị tư tưởng Ph.Ăngghen trong thời đại ngày nay”, 2016, Nxb. Lý luận chính trị, H., tr.278.
(5) Hoàng Chí Bảo: “Cống hiến vĩ đại của Ph.Ăngghen trong lịch sử chủ nghĩa Mác và chủ nghĩa xã hội”, trong sách: “Giá trị tư tưởng của Ph.Ăngghen trong thời đại ngày nay”, 2016, Nxb. Lý luận chính trị, H., tr.26.
(7) V.I.Lênin: Toàn tập, 2005, Nxb. CTQG, H., T.2, tr.3.
(8) C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, 1995, Nxb. CTQG, H., T.19, tr.273.
(9) V.I.Lênin: Toàn tập, 2005, Nxb. CTQG, H., T.4, tr.232.
(10) C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, 1995, Nxb. CTQG, H., T.4, tr.601.
Nguồn: Bài đăng trên Tạp chí Lý luận chính trị điện tử ngày 16.03.2021
Bài liên quan
- Cách tiếp cận phức hợp về an ninh phi truyền thống trong bối cảnh chiến tranh lai và ảnh hưởng sâu rộng của tiến trình chuyển đổi số trong nền an ninh quốc gia (Kỳ 1)
- Cách mạng tháng Tám năm 1945: Bài học về nhận định, vận dụng thời cơ và bảo vệ thành quả cách mạng của Đảng
- Đường lối văn hóa văn nghệ của Đảng Cộng sản Việt Nam trong quy luật vận động của thời đại cách mạng dân chủ nhân dân
- Tính thống nhất giữa phát triển con người về mặt tự nhiên và xã hội
- Lịch sử hình thành khái niệm văn hóa đại chúng ở phương Tây
Xem nhiều
- 1 Video Tư liệu: Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông 30 năm xây dựng và phát triển
- 2 Xu hướng hòa bình, hợp tác, phát triển trên thế giới và vai trò của Việt Nam hiện nay
- 3 Sử dụng công nghệ trí tuệ nhân tạo trong sản xuất chương trình truyền hình
- 4 Giữ gìn và bảo vệ giá trị văn hóa truyền thống các dân tộc ít người, góp phần củng cố, phát triển khối đại đoàn kết toàn dân tộc
- 5 Phát triển nguồn nhân lực ở tỉnh Bến Tre: Thực trạng và giải pháp
- 6 Sử dụng ChatGPT trong việc cải thiện kỹ năng viết cho sinh viên học tiếng Anh
Liên kết
- Báo điện tử đảng cộng sản việt nam
- Báo nhân dân
- Báo Quân đội nhân dân
- Cổng thông tin điện tử Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Cổng thông tin điện tử Học viện Chính trị quốc gia hồ chí minh
- Tạp chí Cộng sản
- Tạp chí Giáo dục lý luận
- Tạp chí Giáo dục và Xã hội
- Tạp chí Khoa học xã hội và Nhân văn
- Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam
- Tạp chí Lý luận chính trị
- Tạp chí Nghiên cứu con người
- TẠP CHÍ Nghiên cứu dân tộc
- Tạp chí Người làm báo
- Tạp chí Nội chính
- Tạp chí Quản lý Nhà nước
- Tạp chí Tổ chức Nhà nước
- Tạp chí Tuyên giáo
- Tạp chí Xây Dựng Đảng
- Thư viện số Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Trang thông tin điện tử Hội đồng Lý luận Trung ương
Hệ thống chính trị Việt Nam truyền thống và hiện đại từ góc nhìn đổi mới
Nhìn toàn bộ tiến trình lịch sử chính trị của dân tộc, “Hệ thống chính trị” nước ta dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là một thiết chế chính trị mạnh, mô hình này phù hợp với hoàn cảnh Việt Nam và đúng với quy luật vận động của lịch sử. Và, cũng từ thực tế lịch sử, có thể thấy sức mạnh thực sự của Hệ thống chính trị mà chúng ta đang có chủ yếu không phải do tính chất nhất nguyên mà là do uy tín của Đảng, Nhà nước và lãnh tụ Hồ Chí Minh. Sức sống của hệ thống chính trị là sự phù hợp, thống nhất giữa mục đích của Đảng với nguyện vọng của nhân dân, với nhu cầu phát triển của đất nước. Hệ thống chính trị Việt Nam đương đại, trên cơ sở kết tinh các giá trị thiết chế truyền thống gắn với hiện đại không ngừng đổi mới phát triển khẳng định sức mạnh của Hệ thống tổ chức quyền lực Chính trị Việt Nam có vai trò quyết định thành công xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN.
Cách tiếp cận phức hợp về an ninh phi truyền thống trong bối cảnh chiến tranh lai và ảnh hưởng sâu rộng của tiến trình chuyển đổi số trong nền an ninh quốc gia (Kỳ 1)
Cách tiếp cận phức hợp về an ninh phi truyền thống trong bối cảnh chiến tranh lai và ảnh hưởng sâu rộng của tiến trình chuyển đổi số trong nền an ninh quốc gia (Kỳ 1)
Một trật tự toàn cầu mới đang được định hình, điều đó cũng đồng nghĩa với một sự đòi hỏi về cách tiếp cận an ninh mới do những luật chơi mới định hình. Chiến tranh lai cùng với tiến trình chuyển đổi số đang đặt ra một sự tác động đồng thời, thay đổi bản chất sức mạnh của mỗi quốc gia. Bối cảnh mới này đòi hỏi phải có một tư duy mới về an ninh, tư duy phức hợp, để có thể đồng lúc nhìn thấy từ nhiều chiều kích khác nhau, những tác động an ninh trong một tương quan tổng thể. Thay vì tập trung vào các danh mục của các mối đe dọa, ngăn chặn và phòng ngừa, vấn đề an ninh quốc gia hiện nay được chuyển hướng vào một mục tiêu duy nhất đó là an ninh quốc gia tổng thể, việc ngăn chặn và phòng ngừa cũng phải chuyển hướng sang thích ứng và phản ứng linh hoạt hiệu quả trước mọi tình huống, bằng mọi biện pháp và từ mọi điểm tiếp cận. Các trọng tâm chiến lược cho an ninh quốc gia cũng chuyển từ các mục tiêu cụ thể theo thứ bậc ưu tiên, sang việc dịch chuyển liên tục các mục tiêu theo hướng tấn công vào bất kỳ điểm tiếp cận nào có thể làm suy yếu theo hiệu ứng mạng lưới một cách nhanh nhất sức mạnh quốc gia. Những thách thức mới này, do vậy, đòi hỏi chúng ta phải có một cách tiếp cận phức hợp về an ninh và hình thành nên một khái niệm an ninh phi truyền thống mới - trong đó an ninh truyền thống và các vấn đề phi truyền thống hòa nhập thành một tổng thể.
Cách mạng tháng Tám năm 1945: Bài học về nhận định, vận dụng thời cơ và bảo vệ thành quả cách mạng của Đảng
Cách mạng tháng Tám năm 1945: Bài học về nhận định, vận dụng thời cơ và bảo vệ thành quả cách mạng của Đảng
Cách mạng tháng Tám năm 1945 là mốc son chói lọi, vĩ đại trong lịch sử dân tộc, đưa đất nước bước sang kỷ nguyên độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; đồng thời để lại nhiều bài học quý báu về nhận định, vận dụng thời cơ và bảo vệ thành quả cách mạng, có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc đối với sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa hiện nay.
Đường lối văn hóa văn nghệ của Đảng Cộng sản Việt Nam trong quy luật vận động của thời đại cách mạng dân chủ nhân dân
Đường lối văn hóa văn nghệ của Đảng Cộng sản Việt Nam trong quy luật vận động của thời đại cách mạng dân chủ nhân dân
(LLCT&TT) Đặc điểm lịch sử nổi bật của thời đại cách mạng dân chủ nhân dân đó là sự lớn mạnh của phong trào quần chúng nhân dân trong mọi cuộc vận động xã hội dưới sự lãnh đạo của Đảng của giai cấp vô sản. Bản thân sự ra đời và phát triển của nền văn hoá văn nghệ mới ở Việt Nam trong giai đoạn cuộc cách mạng dân chủ nhân dân gắn liền với cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc và thống nhất Tổ quốc. Việc xác lập vai trò lãnh đạo của Đảng đối với quá trình xây dựng nền văn hoá văn nghệ mới, gắn với những cuộc đấu tranh cách mạng có chiều hướng tiến bộ lịch sử đã tạo điều kiện cho nền văn nghệ nhân dân phát triển hợp qui luật.
Tính thống nhất giữa phát triển con người về mặt tự nhiên và xã hội
Tính thống nhất giữa phát triển con người về mặt tự nhiên và xã hội
Trong lịch sử tiến hóa lâu dài của con người, sự phát triển về mặt tự nhiên và xã hội trong con người có sự thống nhất chặt chẽ, không tách rời. Hai mặt này làm tiền đề cho nhau, nương tựa vào nhau, giúp con người không ngừng hoàn thiện cả thể chất và tinh thần, góp phần nâng cao khả năng thích nghi với môi trường, thúc đẩy sự phát triển.
Bình luận