Đổi mới công tác vận động trí thức trong tình hình hiện nay
Ở nước ta hiện nay, đội ngũ trí thức xuất thân từ nhiều giai cấp, tầng lớp xã hội, trong đó đại đa số từ công nhân và nông dân. Phần lớn đội ngũ trí thức trưởng thành trong xã hội mới, được hình thành từ nhiều nguồn đào tạo ở trong và ngoài nước. Cùng với sự phát triển của đất nước, đội ngũ trí thức đã tăng nhanh về số lượng, nâng lên về chất lượng. Đội ngũ trí thức đã đóng góp tích cực vào xây dựng những luận cứ khoa học cho việc hoạch định đường lối, chủ trương, chính sách của Ðảng và Nhà nước, góp phần làm sáng tỏ con đường đi lên chủ nghĩa xã hội và giải đáp những vấn đề mới phát sinh trong sự nghiệp đổi mới ở nước ta; trực tiếp đào tạo nguồn nhân lực, nâng cao dân trí và bồi dưỡng nhân tài; sáng tạo những công trình có giá trị về tư tưởng, văn hóa và nghệ thuật, nhiều sản phẩm chất lượng cao, có sức cạnh tranh; từng bước nâng cao trình độ khoa học và công nghệ của đất nước, vươn lên tiếp cận với trình độ của khu vực và thế giới.
Nhận thức được vai trò của trí thức, trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, đặc biệt là những năm đổi mới, Ðảng và Nhà nước đã có nhiều chủ trương, chính sách để đội ngũ trí thức phát triển nhanh, phát huy vai trò trên mọi lĩnh vực đời sống xã hội. Ðảng đã ban hành nhiều nghị quyết, chỉ thị, nhất là các nghị quyết chuyên đề về giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, văn hóa và văn nghệ, về công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài... Trên cơ sở đó, Nhà nước đã ban hành nhiều chính sách nhằm đào tạo, bồi dưỡng, bố trí sử dụng, tôn vinh trí thức, tạo động lực thúc đẩy sự sáng tạo, cống hiến của đội ngũ trí thức cho sự phát triển của đất nước.
Tuy nhiên, trước yêu cầu của sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế, đội ngũ trí thức nước ta còn bộc lộ một số hạn chế, chưa thực sự đáp ứng tốt những yêu cầu của sự phát triển đất nước trong thời kỳ mới. Trí thức tinh hoa và hiền tài còn ít, chuyên gia đầu ngành còn thiếu nghiêm trọng, đội ngũ kế cận hẫng hụt; chưa có nhiều tập thể khoa học mạnh và cá nhân có uy tín khoa học ở khu vực và quốc tế, cơ cấu có những mặt bất hợp lý về ngành nghề, độ tuổi, giới tính.... Nhìn chung, hoạt động nghiên cứu khoa học chưa xuất phát và chưa thực sự gắn bó mật thiết với thực tiễn sản xuất, kinh doanh và đời sống xã hội. Số công trình được công bố ở các tạp chí có uy tín trên thế giới, số sáng chế được đăng ký quốc tế còn quá ít(1). Công tác nghiên cứu lý luận chưa giải đáp được nhiều vấn đề do thực tiễn đổi mới đặt ra. Trong văn hóa, văn nghệ còn ít tác phẩm có giá trị xứng tầm với những thành tựu vẻ vang của đất nước, sự sáng tạo và hy sinh lớn lao của nhân dân ta trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đội ngũ trí thức ở nhiều cơ quan nghiên cứu, trường đại học còn nhiều hạn chế về trình độ chuyên môn, năng lực sáng tạo, khả năng thực hành, khả năng sử dụng công nghệ tiên tiến, v.v..
Một bộ phận trí thức, kể cả người có trình độ học vấn cao, còn thiếu tự tin, e ngại, sợ bị quy kết về quan điểm, né tránh những vấn đề có liên quan đến chính trị. Một số giảm sút đạo đức nghề nghiệp, thiếu ý thức trách nhiệm và lòng tự trọng, có biểu hiện chạy theo bằng cấp, thiếu trung thực và tinh thần hợp tác. Một số trí thức không thường xuyên học hỏi, tìm tòi, trau dồi chuyên môn nghiệp vụ, thiếu chí khí và hoài bão khoa học. Nhiều trí thức trẻ có tâm trạng thiếu phấn khởi, chạy theo lợi ích trước mắt, thiếu ý chí phấn đấu vươn lên về chuyên môn...(2).
Những hạn chế, yếu kém của đội ngũ trí thức nêu trên do nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân quan trọng là các cấp ủy đảng và chính quyền, các cơ quan quản lý chưa nhận thức đầy đủ vai trò của trí thức và chậm đổi mới nội dung, phương thức tiến hành công tác vận động trí thức. Công tác vận động trí thức của Ðảng và Nhà nước vẫn còn nhiều hạn chế cả về nội dung, phương pháp tiến hành. Ðến nay vẫn chưa có chiến lược tổng thể về phát triển đội ngũ trí thức. Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội chưa thể hiện rõ quan điểm lấy khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo làm “quốc sách hàng đầu”, chưa gắn với các giải pháp phát huy vai trò đội ngũ trí thức trên nhiều lĩnh vực. Nhiều chủ trương, chính sách đúng của Ðảng và Nhà nước về công tác trí thức chậm đi vào cuộc sống; có nơi, có lúc thực hiện thiếu nghiêm túc, nửa vời, thiếu những chế tài đủ mạnh bảo đảm cho việc thực hiện có kết quả. Nhìn chung, các chính sách đối với trí thức còn thiếu đồng bộ, nhiều chính sách còn nặng tính hành chính và dấu ấn của cơ chế kế hoạch hóa tập trung, quan liêu, bao cấp, cơ chế “xin - cho” trong hoạt động khoa học. Một số cấp ủy đảng và chính quyền chưa đánh giá, sử dụng đúng trí thức, ngay cả với những trí thức đầu ngành, vẫn còn nhận thức lệch lạc về các chức danh khoa học và có tâm lý đề cao bằng cấp, dẫn đến những băn khoăn, tâm tư, thậm chí sự tự ti hoặc có thái độ tiêu cực, chống đối trong đội ngũ trí thức. Thực tế cho thấy, vẫn còn hiện tượng cán bộ lãnh đạo ngại tiếp xúc, đối thoại với trí thức, không thực sự lắng nghe, thậm chí quy chụp, nhất là khi trí thức góp ý phản biện những chủ trương, chính sách, những đề án, dự án do các cơ quan lãnh đạo và quản lý đưa ra. Thiếu chính sách và cơ chế tạo điều kiện thuận lợi cho trí thức chuyên tâm cống hiến, phát triển và được xã hội tôn vinh; đồng thời, thiếu những cơ chế thích hợp để phát hiện, tuyển chọn, bồi dưỡng, trọng dụng nhân tài. Cơ chế và chính sách tài chính hiện hành trong các hoạt động khoa học và công nghệ, văn hóa và văn nghệ còn nhiều bất cập, nặng về thủ tục giấy tờ, không gắn với chất lượng, hiệu quả thực tế, gây khó khăn, dẫn đến mặc nhiên thừa nhận sự đối phó, không trung thực, “làm một đằng, báo cáo một nẻo”, làm giảm chất lượng của các công trình sáng tạo, lãng phí thời gian, công sức, tiền của, ảnh hưởng tới uy tín và danh dự của trí thức.
Đất nước ta đang bước vào giai đoạn phát triển mới với nhiều thời cơ và thuận lợi, nhưng cũng không ít khó khăn, thách thức lớn từ nhiều phía. Công cuộc đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, mở cửa hội nhập quốc tế đang đặt ra nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn bức xúc, cần phải được nghiên cứu, làm sáng tỏ, nhiều yêu cầu và đòi hỏi to lớn về phát triển khoa học, công nghệ, đào tạo bồi dưỡng cán bộ và nguồn nhân lực, phát triển nền kinh tế tri thức, xây dựng tiềm lực quốc phòng cho đất nước nhằm bảo vệ vững chắc Tổ quốc, v.v.. Bên cạnh đó, các thế lực thù địch luôn tìm mọi cách chống phá sự nghiệp cách mạng nước ta, trong đó có việc lợi dụng, lôi kéo, mua chuộc, khống chế một số trí thức, nhất là những người có tư tưởng dao động, bất mãn. Bởi vậy, để tập hợp, phát huy vai trò to lớn của đội ngũ trí thức trong công cuộc đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế đòi hỏi Đảng, Nhà nước phải tiếp tục đổi mới mạnh mẽ hơn nữa cả về nhận thức, tư duy, nội dung và phương thức tiến hành công tác vận động trí thức.
Từ thực tế ở nước ta, vận dụng những bài học, những kinh nghiệm quốc tế, có thể rút ra một số vấn đề cần đổi mới trong công tác vận động trí thức hiện nay:
1. Đổi mới nhận thức về trí thức
Những năm qua, Đảng, Nhà nước ta đã có bước tiến mới trong nhận thức về vai trò của đội ngũ trí thức đối với sự hưng vong của đất nước, thể hiện rõ tinh thần tôn trọng, tôn vinh trí thức, trọng dụng nhân tài, coi nhân tài là vốn quý của quốc gia. Tuy nhiên, những quan điểm đó mới dừng ở tầm chỉ đạo vĩ mô, chưa được thể hiện thống nhất trong các cấp, các ngành, trong đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý. Đặc biệt, những quan điểm của Đảng về trí thức và vận động trí thức chưa thể thay đổi được cách nhìn, cách ứng xử của nhiều cấp ủy, cán bộ lãnh đạo, quản lý đối với trí thức, vai trò xã hội và giá trị lao động của họ.
Trong lịch sử, trí thức được quan niệm là một tầng lớp xã hội mở và đa dạng, không giống bất kỳ một giai cấp, tầng lớp nào khác trong xã hội như: Nông, công nhân, thợ thủ công, quân nhân, thương nhân hay người buôn bán nhỏ. Trí thức có thể là bất kỳ ai xuất phát từ các giai cấp, tầng lớp ấy, khi họ trở thành người lao động trí óc nhờ có sự hiểu biết về khoa học, kỹ thuật. Tuy nhiên, bộ phận hạt nhân của tầng lớp trí thức là các nhà khoa học, nhà giáo, bác sĩ, dược sĩ, kỹ sư, các nhà văn, nhà điêu khắc, nghệ sỹ, nhạc sĩ, họa sĩ, nhà báo, các nhà lãnh đạo, quản lý các cơ quan chuyên môn khoa học, v.v.. Lao động của trí thức là lao động phức tạp, là sự sáng tạo ra các giá trị mới, các tri thức mới. Đặc điểm lao động trí óc đặt ra yêu cầu đòi hỏi cao về tính độc lập, sáng tạo và luôn có thói quen phản biện, hoài nghi.
Trí thức là những người có hiểu biết sâu rộng về một chuyên ngành khoa học hoặc một số lĩnh vực của đời sống xã hội, thường xuyên vận dụng những hiểu biết đó để phát hiện và giải quyết những vấn đề lý luận và thực tiễn nảy sinh trong lĩnh vực hoạt động của mình vì lợi ích chung của cộng đồng và nhu cầu nhận thức của bản thân. Bởi vậy, một cách tự nhiên, trí thức có những mối quan tâm chung với các chủ thể lãnh đạo, quản lý và họ có thể tham gia vào các hoạt động lãnh đạo, quản lý xã hội một cách trực tiếp hay gián tiếp. Bất kỳ chế độ xã hội nào, giai cấp cầm quyền và các chính đảng của nó cũng luôn cần đến sự tham gia của những trí thức trong hoạt động lãnh đạo, quản lý và điều hành xã hội, bởi đây là các quá trình chính trị và quản trị xã hội phức tạp, đòi hỏi phải có năng lực trí tuệ, kiến thức sâu rộng, có bản lĩnh, kỹ năng, kinh nghiệm, uy tín để tập hợp, tổ chức, giáo dục, thuyết phục quần chúng thực hiện những nhiệm vụ mà giai cấp thống trị đề ra. Lịch sử đã chứng minh chế độ xã hội nào thu hút được đông đảo trí thức tham gia lãnh đạo, quản lý và điều hành xã hội thì xã hội đó phát triển một cách ổn định, hợp quy luật, văn minh. Bởi thế, tôn trọng, tập hợp và sử dụng trí thức là tất yếu đối với các nhà nước từ xưa đến nay và chính mức độ, cách thức sử dụng trí thức là một trong những tiêu chí quan trọng đánh giá tính chất tiến bộ của các chế độ xã hội, các chế độ chính trị. Về vấn đề này, ông cha ta cũng đã khẳng định như một vấn đề có tính quy luật rằng quốc gia thịnh suy là do ở việc sử dụng hiền tài - “Hiền tài là nguyên khí của quốc gia, nguyên khí mạnh thì thế nước lên cao, nguyên khí suy thì thế nước yếu rồi xuống thấp“(Thân Nhân Trung). Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng chỉ rõ: “Trí thức là vốn liếng quý báu của dân tộc. Ở nước khác như thế, ở Việt Nam càng như thế”(3).
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, trí thức không phải là một giai cấp, mà là một tầng lớp xã hội đặc biệt, tuy không có hệ tư tưởng độc lập nhưng trí thức là đại diện cho trí tuệ, tinh hoa của dân tộc trong từng thời kỳ lịch sử. Do đặc thù lao động trí tuệ phức tạp, sáng tạo, nên trí thức có khả năng tổng kết, khái quát thực tiễn thành lý luận, xây dựng hệ thống lý luận, hệ tư tưởng cho giai cấp cầm quyền. Vậy nên, bất cứ giai cấp nào khi lên nắm chính quyền cũng đều cần đến trí thức và tìm cách thu hút, tập hợp lực lượng trí thức về phía mình. Mặt khác, trong một thể chế chính trị nhất định, tính giai cấp của trí thức là do tư tưởng của giai cấp thống trị quyết định, khuôn mẫu người trí thức do quan điểm, đường lối, hệ thống giáo dục của nhà nước mà giai cấp thống trị thiết lập tạo ra. Đội ngũ trí thức Việt Nam hiện nay đều là con em công nhân, nông dân, cán bộ, công chức, viên chức nhà nước, con em những người lao động, được nuôi dưỡng, đào tạo, rèn luyện và trưởng thành trong môi trường giáo dục, văn hóa cùng thể chế chính trị của đất nước do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Vì thế, có thể nói rằng, đội ngũ trí thức Việt Nam cũng là những người mang hệ tư tưởng của giai cấp lãnh đạo, và về nghĩa nào đó, họ cũng là những người công nhân.
Ngày nay, với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học và công nghệ, của kinh tế tri thức, việc nhận thức đúng tính chất, vai trò của đội ngũ trí thức lại càng quan trọng. Phát triển kinh tế nói chung, kinh tế tri thức nói riêng không thể do ý chí chủ quan của các chủ thể chính trị quyết định mà phải dựa vào tri thức, có nền tảng, nguồn lực tri thức. Mọi hoạt động, mọi quá trình sản xuất trong nền kinh tế tri thức không thể chỉ do những công nhân lao động thủ công đảm nhận mà cần phải có những công nhân trí thức và những người lao động trí óc điều hành. Theo đó, cùng với công nhân trí thức, đội ngũ trí thức sẽ là những người đại diện cho phương thức sản xuất tiên tiến, là một trong những động lực quan trọng phát triển kinh tế xã hội của mỗi quốc gia.
2. Đổi mới chính sách đãi ngộ, trọng dụng và tôn vinh trí thức
Là một tầng lớp đặc biệt của xã hội, tinh hoa của đất nước, nhưng trước hết trí thức cũng là những người lao động. Mục đích lao động của họ không chỉ để duy trì cuộc sống của họ, mà cao hơn còn là vì sự phát triển tiến bộ của xã hội. Do đó, họ cần được sự quan tâm và có chế độ đãi ngộ xứng đáng. Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương khóa X về xây dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa chỉ rõ: “phải tôn trọng và phát huy tự do tư tưởng trong hoạt động nghiên cứu, sáng tạo của trí thức..., trọng dụng trí thức trên cơ sở đánh giá đúng phẩm chất, năng lực và kết quả cống hiến; có chính sách đặc biệt đối với nhân tài của đất nước”(4). Để thực hiện được yêu cầu đó, trước hết các cơ quan nhà nước cần rà soát các chính sách hiện có, đánh giá những mặt ưu và hạn chế của từng chính sách, trên cơ sở đó ban hành các cơ chế, chính sách mới bảo đảm để trí thức được hưởng đầy đủ lợi ích vật chất, tinh thần tương xứng với giá trị từ kết quả lao động sáng tạo của họ. Nhà nước cần có chính sách ưu đãi cụ thể về lương, nhà ở, điều kiện làm việc, sinh hoạt, đi lại... đối với trí thức, nhất là trí thức làm việc ở các vùng kinh tế, xã hội khó khăn, vùng sâu, vùng xa, trí thức là người dân tộc thiểu số, người khuyết tật...; tiếp tục hoàn thiện và thực hiện nghiêm các cơ chế, chính sách để động viên, sử dụng chuyên môn, nghiệp vụ đối với những trí thức có trình độ cao, năng lực và sức khỏe đã hết tuổi lao động; đổi mới, nâng cao chất lượng xét chọn và các chính sách đãi ngộ xứng đáng đối với các danh hiệu cao quý và các giải thưởng Nhà nước dành cho trí thức.
Với đặc điểm lao động, tâm lý, khí chất của mình, đội ngũ trí thức không tự đặt ra yêu cầu, đòi hỏi về chế độ, chính sách đãi ngộ về vật chất như một điều kiện tiên quyết cho sự cống hiến. Tuy nhiên, để phát huy vai trò của đội ngũ trí thức, Đảng và Nhà nước phải trọng dụng và tôn vinh họ. Sự trọng dụng và tôn vinh trí thức phải được khẳng định trong nhận thức và cách thức đối xử của các cấp ủy, tổ chức đảng, các cơ quan chính quyền, đoàn thể và trong quan điểm, thái độ ứng xử của cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp. Nó phải được thể chế hóa bằng các chế độ chính sách đãi ngộ công khai, cụ thể. Sự trọng dụng, tôn vinh đó không phải chỉ là đề cao, ca ngợi một chiều, mà là thể hiện ở sự tôn trọng, tin tưởng, gần gũi, sẵn sàng lắng nghe, trao đổi, đối thoại với trí thức, sẵn sàng tiếp thu những ý kiến đóng góp, phản biện của trí thức đối với chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, các chủ trương, nghị quyết của tập thể cấp ủy, cơ quan, đơn vị.
Trọng dụng trí thức nhưng trên cơ sở đánh giá đúng phẩm chất, năng lực và kết quả cống hiến của họ, đồng thời, phải bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, quyền tác giả và đãi ngộ xứng đáng những cống hiến của họ. Đối với những nhân tài của đất nước, cần có chính sách đãi ngộ đặc biệt về nhiều mặt, bảo đảm cho họ có thể chuyên tâm lao động sáng tạo, cống hiến. Cần quy định rõ trách nhiệm của các cơ quan quản lý trong việc tiến cử và sử dụng cán bộ là trí thức. Đặc biệt, cần có những đổi mới mạnh mẽ về cơ chế, chính sách tuyển dụng, đánh giá, sử dụng đối với trí thức theo nguyên tắc công khai, khách quan, công bằng có tính tới những đặc thù trong lao động sáng tạo của trí thức. Tình trạng tuyển dụng cán bộ, công chức, viên chức hiện nay về cơ bản là chưa thống nhất, còn phân tán theo từng cơ quan, đơn vị, còn có nhiều khe hở cho tiêu cực. Việc đánh giá, sử dụng cán bộ trí thức cũng còn nhiều điều bất cập cả về chuẩn mực, trách nhiệm và yêu cầu, chưa bảo đảm sự khách quan, công bằng. Không phải không có lý do để xã hội đàm tiếu, so sánh giữa “trí tuệ” với “hậu duệ”, “quan hệ” và “tiền tệ”. Sự không công bằng, khách quan không chỉ dẫn tới sự lãng phí, bỏ qua những trí thức có năng lực chuyên môn giỏi, hạn chế năng lực của các cơ quan, đơn vị được tuyển dụng cán bộ, mà còn dẫn tới những phản ứng tiêu cực trong xã hội, làm giảm sút niềm tin của người dân đối với Đảng và chế độ.
Tóm lại, sự trọng dụng, tôn vinh trí thức không chỉ là đề cao vai trò của họ trong các văn bản, nghị quyết, khẩu hiệu mà quan trọng hơn phải được thể hiện ở những việc cụ thể, ở sự trân trọng của toàn xã hội đối với nghề nghiệp và lao động của họ, ở sự đánh giá, ghi nhận khách quan những cống hiến, đóng góp thiết thực của họ đối với xã hội; ở một hệ thống chính sách đãi ngộ công bằng, thiết thực, cụ thể và ở sự thường xuyên động viên, khích lệ họ hăng hái, tích cực lao động, sáng tạo.
3. Đổi mới chính sách đào tạo, bồi dưỡng trí thứcl
Một trong những mục tiêu của công tác vận động trí thức là xây dựng đội ngũ trí thức lớn mạnh, số lượng đông đảo, chất lượng cao, khí chất tốt, đa dạng về lĩnh vực, ngành nghề, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, ý thức trách nhiệm cao đối với dân tộc, sẵn sàng đóng góp cho đất nước cho xã hội. Muốn có được đội ngũ trí thức như vậy, cần phải đổi mới mạnh mẽ quan điểm, chính sách đào tạo, bồi dưỡng trí thức ngay trong các trường đại học, cao đẳng; phải đầu tư xây dựng hệ thống các trường đại học, cao đẳng, các học viện, nhà trường đảm bảo chất lượng dạy và học, đổi mới nội dung, chương trình, phương pháp đào tạo, bồi dưỡng, kiên quyết không mở các trường lớp, các hệ đào tạo, bồi dưỡng một cách tràn lan, vô nguyên tắc, không được kiểm soát chặt chẽ về chất lượng. Sự xuống cấp về chất lượng đào tạo, bồi dưỡng trong hệ thống giáo dục quốc dân sẽ tác động tiêu cực tới sự nhìn nhận của xã hội đối với trí thức, đồng thời bản thân những trí thức thực thụ, được đào tạo bài bản, có tâm huyết sẽ cảm thấy bị tổn thương, hoài nghi đối với các chủ thể lãnh đạo, quản lý cũng như thiếu lòng tin vào những thế hệ trí thức trẻ hậu sinh của mình.
Trên cơ sở bảo đảm chất lượng đào tạo đại trà, Nhà nước cần xây dựng cơ chế, chính sách thực hiện có hiệu quả việc đào tạo những chuyên gia, những tài năng trên các lĩnh vực nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ trí thức và phát triển nhân tài cho đất nước. Thực hiện tốt việc đưa cán bộ, học sinh, sinh viên có đạo đức và triển vọng đi đào tạo, bồi dưỡng ở các cơ sở đào tạo uy tín trong nước và nước ngoài, chú trọng các chuyên ngành mà đất nước có nhu cầu bức thiết; có chính sách và kế hoạch cụ thể để phát hiện, đào tạo, bồi dưỡng trí thức trẻ, trí thức là những người đã có cống hiến trong hoạt động thực tiễn, trí thức người dân tộc thiểu số và trí thức nữ. Áp dụng chính sách định kỳ và cơ chế bảo đảm chất lượng bồi dưỡng, đào tạo lại chuyên môn cho đội ngũ trí thức; khuyến khích trí thức thường xuyên nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, đáp ứng kịp thời đòi hỏi của thực tiễn. Tổ chức thực hiện tốt các khâu của quy trình đào tạo, bồi dưỡng kết hợp với tăng cường công tác kiểm tra việc thực hiện kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng...
Hoạt động đào tạo, bồi dưỡng trí thức phải quán triệt phương châm gắn lý luận với thực tiễn, học với hành, gắn các hoạt động khoa học của trí thức với thực tiễn xã hội, gắn với đời sống mọi mặt của nhân dân, qua đó nâng cao vai trò, trách nhiệm cống hiến của trí thức đối với công cuộc đổi mới, xây dựng và phát triển đất nước.
4. Tạo môi trường dân chủ trong nghiên cứu khoa học
Đặc điểm lao động của trí thức là độc lập về tư duy, vai trò quan trọng của cá nhân và tính phản biện, do đó, cần có môi trường dân chủ trong hoạt động sáng tạo khoa học. Để có những ý kiến, những phát minh, sáng chế, tri thức mới đòi hỏi tư tưởng của nhà khoa học phải được giải phóng, không bị gò ép bởi các khuôn mẫu, áp đặt về phong cách tư duy.
Để tạo môi trường dân chủ thực sự trong nghiên cứu khoa học, Đảng và Nhà nước cần ban hành quy chế dân chủ trong hoạt động khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo, văn hóa và văn nghệ, bổ sung, hoàn thiện các cơ chế, chính sách, tạo điều kiện để trí thức tự khẳng định, phát triển, cống hiến và được xã hội tôn vinh. Các diễn đàn khoa học cần được trao đổi một cách dân chủ, cới mở, không giới hạn, gò ép về hình thức, phương pháp tổ chức. Các nhà khoa học có thể thể hiện quan điểm, chính kiến cá nhân, dám nói lên những ý kiến tâm huyết của mình mà không sợ bị quy chụp, trù dập; cần phải tăng cường các hoạt động trao đổi, phản biện giữa các cơ quan, các nhà khoa học với nhau. Các cơ quan lãnh đạo của Đảng, Nhà nước cần tăng cường lấy ý kiến đóng góp, phản biện của các nhà khoa học đối với chủ trương, nghị quyết, chính sách của mình và có cơ chế rõ ràng, chặt chẽ trong việc lựa chọn tiếp thu ý kiến đóng góp, phản biện đó. Để thực hiện được những yêu cầu này, Nhà nước cần hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, tạo hành lang pháp lý thuận lợi và xây dựng cơ chế hoạt động, tổ chức nhiều diễn đàn để khuyến khích và bảo đảm quyền lợi, trách nhiệm của trí thức khi tham gia hoạt động tư vấn, phản biện và giám định các chủ trương, chính sách, các dự án phát triển kinh tế - xã hội; phê phán và xóa bỏ sự coi nhẹ, thành kiến và quy chụp đối với những ý kiến phản biện mang tính xây dựng của trí thức.
5. Đổi mới cơ chế, chính sách đầu tư cho hoạt động khoa học
Để phát triển khoa học, công nghệ, vấn đề quan trọng là tăng cường đầu tư tài chính, cơ sở vật chất, điều kiện làm việc cho các nhà khoa học. Nhưng vấn đề là đầu tư bao nhiêu và như thế nào, thậm chí, vấn đề cốt lõi, căn bản là đầu tư như thế nào? trong điều kiện đất nước còn khó khăn về nguồn lực tài chính như hiện nay, Nhà nước có chính sách khuyến khích đầu tư cho khoa học, đào tạo từ nhiều nguồn khác nhau, đặc biệt khuyến khích nguồn tài chính từ các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế. Nhà nước cần phải lựa chọn những lĩnh vực ưu tiên, có ý nghĩa sống còn đối với đất nước có thể trở thành động lực chính thúc đẩy sự phát triển kinh tế, xã hội để tập trung nguồn lực tài chính đủ mạnh, có cơ chế thuận tiện, hiệu quả để đầu tư cho các lĩnh vực ấy. Đối với các lĩnh vực khác, có cơ chế thích ứng để khai thác các nguồn tài chính từ xã hội hóa, thu hút sự đầu tư của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước.
Cơ chế sử dụng nguồn tài chính từ ngân sách của chúng ta cho hoạt động khoa học hiện nay quá nặng nề, lạc hậu, quá nặng về các thủ tục giấy tờ, hành chính, thậm chí còn nghiễm nhiên chấp nhận các thủ tục không trung thực mà không thực sự quan tâm đến hiệu quả đầu tư, tức là chất lượng và hiệu quả thực tế của các nghiên cứu khoa học. Trên thực tế, cơ chế quản lý ấy đang làm tăng các chi phí quản lý trung gian không cần thiết, làm lãng phí nguồn lao động, gây khó khăn cho việc triển khai các hoạt động nghiên cứu và ở một mức độ nào đó còn tạo ra tình trạng cửa quyền, xin cho thiếu tôn trọng đối với đội ngũ trí thức, các nhà khoa học. Việc thay đổi cơ chế quản lý tài chính trong hoạt động khoa học hiện nay đã trở thành một đòi hỏi bức xúc của giới khoa học. Đã đến lúc phải thông qua các biện pháp khách quan, trung thực để xác định nhu cầu tài chính đầu tư cho các đề án, đề tài khoa học, đồng thời căn cứ vào kết quả nghiên cứu các đề án, đề tài đó để xác định hiệu quả đầu tư tài chính.
Việc đổi mới cơ chế chính sách đầu tư cho khoa học, công nghệ, đào tạo hiện nay cũng cần gắn với việc tạo ra các điều kiện thuận lợi để phát huy năng lực và trách nhiệm của đội ngũ trí thức là các nhà khoa học đầu ngành, có trình độ cao, các tổng công trình sư trong điều hành chuyên môn, nghiệp vụ. Nhà nước đầu tư xây dựng một số khu đô thị khoa học, khu công nghệ cao, tổ hợp khoa học - sản xuất, trường đại học trọng điểm, các trung tâm văn hóa hiện đại để thúc đẩy hoạt động sáng tạo của trí thức trong và ngoài nước. Mở rộng hợp tác và giao lưu quốc tế về khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo, văn hóa và văn nghệ.
6. Đổi mới phương thức hoạt động, nâng cao chất lượng các tổ chức chính trị - xã hội, xã hội, nghề nghiệp, các hội của trí thức
Với đặc điểm xuất thân và môi trường hoạt động của mình, đội ngũ trí thức nước ta tham gia nhiều tổ chức khác nhau (các tổ chức chính trị - xã hội, chính trị - xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội...). Để nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác vận động trí thức cần phát huy sức mạnh tổng hợp của hệ thống các tổ chức này, nhất là các tổ chức mà trí thức tham gia đông đảo như: Công đoàn, đoàn thanh niên trong các cơ quan, tổ chức khoa học, các học viện, nhà trường; các tổ chức chính trị - xã hội - nghề nghiệp như: Liên hiệp các hội VH-NT, liên hiệp các hội KH-KT… Đặc biệt, cần quan tâm đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của các tổ chức này cho phù hợp với điều kiện môi trường kinh tế, xã hội hiện nay, tạo điều kiện thu hút sự tham gia và để phát huy năng lực sáng tạo, nâng cao phẩm chất đạo đức nghề nghiệp của đội ngũ trí thức. Với vai trò nòng cốt, liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật, liên hiệp các hội văn học, nghệ thuật ở Trung ương và địa phương cần đổi mới nội dung, phương thức hoạt động, thường xuyên chủ trì hoặc phối hợp tổ chức các hội nghị, diễn đàn theo chủ đề để tập hợp trí thức đóng góp ý kiến xây dựng, phản biện các chủ trương, đường lối, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, các chương trình, đề án phát triển kinh tế - xã hội của địa phương trước khi trình cơ quan có trách nhiệm, quyền hạn phê duyệt.
Muốn đất nước phát triển nhanh, bền vững không có con đường nào khác là phải khai thác và phát huy các tiềm năng, nguồn lực con người trong và ngoài nước, trong đó trí thức là nguồn lực cần được đặc biệt quan tâm với những chính sách đặc thù. Do đó, cần có sự đổi mới đồng bộ, toàn diện trong cách nhìn nhận, đánh giá, sử dụng, đãi ngộ, tôn vinh đối với trí thức, chính sách đầu tư, tuyển dụng, đánh giá, sử dụng, giải phóng trí thức, tạo điều kiện thuận lợi để họ có thể phát huy năng lực sáng tạo của mình. Thực hành dân chủ, tôn trọng và phát huy tự do tư tưởng trong hoạt động nghiên cứu, sáng tạo, tạo môi trường và điều kiện thuận lợi cho hoạt động nghề nghiệp của trí thức cũng chính là phát huy vai trò, sức mạnh của họ, góp phần thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Đảng, Nhà nước tiến hành công tác vận động trí thức bằng nhiều hình thức, phương pháp, trong đó chủ trương, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước là quan trọng nhất, tác động trực tiếp tới việc xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ trí thức trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước. Do đó, vấn đề cốt lõi của đổi mới công tác vận động trí thức chính là đổi mới chủ trương, quan điểm, hệ thống chính sách đối với trí thức; đổi mới cách nhìn nhận, đánh giá về vai trò, trách nhiệm của trí thức đối với sự phát triển của xã hội; đổi mới chế độ, chính sách sử dụng, đãi ngộ để phát huy tối đa vai trò của trí thức đối với sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước hiện tại và tương lai.
_________________________________
(1) Theo thống kê của USPTO (Văn phòng Thương mại và sáng chế Mỹ), trong 6 năm (2006-2011), Việt Nam chỉ có 5 sáng chế được cấp bằng tại Mỹ. Trong khi đó, số bằng sáng chế năm 2011 của Nhật là 46.139, dân số 126,9 triệu người; Hàn Quốc là 12.262, dân số 48,9 triệu; Singapor là 647, dân số 4,8 triệu người; Malaysia là 161, dân số 27,9 triệu người; Thái Lan 53, dân số 68,1 triệu người; Philipinlà 27, dân số 93,6 triệu người. Việt Nam là nước có số lượng giáo sư, phó giáo sư, tiến sĩ hơn nhiều nước trong khu vực nhưng năm 2011 không có bằng sáng chế nào được công nhận.
(2) Trích Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 25.7.2008 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng “Về xây dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đạu hóa đất nước”.
(3) Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, H. 2000, T5, tr.156.
(4) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI. Nxb Chính trị quốc gia, H.,2011, tr. 241-242.
Nguồn: Tuyển tập các bài báo khoa học Tạp chí LLCTTT (1994-2014)
Bài liên quan
- Hệ thống chính trị Việt Nam truyền thống và hiện đại từ góc nhìn đổi mới
- Tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả
- Giữ gìn và bảo vệ giá trị văn hóa truyền thống các dân tộc ít người, góp phần củng cố, phát triển khối đại đoàn kết toàn dân tộc
- Xu hướng hòa bình, hợp tác, phát triển trên thế giới và vai trò của Việt Nam hiện nay
- Phát huy vai trò của ngành công nghiệp xuất bản trong việc gìn giữ bản sắc văn hóa dân tộc
Xem nhiều
- 1 Video Tư liệu: Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông 30 năm xây dựng và phát triển
- 2 Giữ gìn và bảo vệ giá trị văn hóa truyền thống các dân tộc ít người, góp phần củng cố, phát triển khối đại đoàn kết toàn dân tộc
- 3 Sử dụng ChatGPT trong việc cải thiện kỹ năng viết cho sinh viên học tiếng Anh
- 4 Phát triển nguồn nhân lực ở tỉnh Bến Tre: Thực trạng và giải pháp
- 5 Lễ kỷ niệm và Hội thảo khoa học “30 năm - Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông”
- 6 Lễ kỷ niệm và Hội thảo khoa học “Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông 30 năm xây dựng và phát triển”
Liên kết
- Báo điện tử đảng cộng sản việt nam
- Báo nhân dân
- Báo Quân đội nhân dân
- Cổng thông tin điện tử Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Cổng thông tin điện tử Học viện Chính trị quốc gia hồ chí minh
- Tạp chí Cộng sản
- Tạp chí Giáo dục lý luận
- Tạp chí Giáo dục và Xã hội
- Tạp chí Khoa học xã hội và Nhân văn
- Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam
- Tạp chí Lý luận chính trị
- Tạp chí Nghiên cứu con người
- TẠP CHÍ Nghiên cứu dân tộc
- Tạp chí Người làm báo
- Tạp chí Nội chính
- Tạp chí Quản lý Nhà nước
- Tạp chí Tổ chức Nhà nước
- Tạp chí Tuyên giáo
- Tạp chí Xây Dựng Đảng
- Thư viện số Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Trang thông tin điện tử Hội đồng Lý luận Trung ương
Xây dựng phẩm chất nghề nghiệp người làm báo theo tư tưởng Hồ Chí Minh trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay
Chủ tịch Hồ Chí Minh là nhà báo vĩ đại, tấm gương sáng ngời để chúng ta thường xuyên học tập và noi theo. Trong bối cảnh cuộc cách mạng khoa học và công nghệ truyền thông, báo mạng điện tử ngày càng phát triển mạnh mẽ, báo chí truyền thống đứng trước cơ hội và thách lớn. Báo chí nước ta là vũ khí tư tưởng quan trọng của Đảng và Nhà nước, diễn đàn của nhân dân, góp phần to lớn vào thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Bài viết sau đây trình bày cơ sở lý luận và thực tiễn của việc xây dựng phẩm chất nghề nghiệp người làm báo trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay, đồng thời hưởng ứng cuộc vận động “Tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức và phong cách Hồ Chí Minh”, góp phần xây dựng nền báo chí Việt Nam chuyên nghiệp, nhân văn, hiện đại theo chủ trương của Đại hội lần thứ XIII của Đảng. Đây cũng là một trong những nhiệm vụ quan trọng của công tác tư tưởng, lý luận và báo chí của Đảng, đáp ứng yêu cầu cấp bách và có ý nghĩa cơ bản, lâu dài đối với sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta.
Hệ thống chính trị Việt Nam truyền thống và hiện đại từ góc nhìn đổi mới
Hệ thống chính trị Việt Nam truyền thống và hiện đại từ góc nhìn đổi mới
Nhìn toàn bộ tiến trình lịch sử chính trị của dân tộc, “Hệ thống chính trị” nước ta dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là một thiết chế chính trị mạnh, mô hình này phù hợp với hoàn cảnh Việt Nam và đúng với quy luật vận động của lịch sử. Và, cũng từ thực tế lịch sử, có thể thấy sức mạnh thực sự của Hệ thống chính trị mà chúng ta đang có chủ yếu không phải do tính chất nhất nguyên mà là do uy tín của Đảng, Nhà nước và lãnh tụ Hồ Chí Minh. Sức sống của hệ thống chính trị là sự phù hợp, thống nhất giữa mục đích của Đảng với nguyện vọng của nhân dân, với nhu cầu phát triển của đất nước. Hệ thống chính trị Việt Nam đương đại, trên cơ sở kết tinh các giá trị thiết chế truyền thống gắn với hiện đại không ngừng đổi mới phát triển khẳng định sức mạnh của Hệ thống tổ chức quyền lực Chính trị Việt Nam có vai trò quyết định thành công xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN.
Tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả
Tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả
Xây dựng tổ chức bộ máy hiệu lực, hiệu quả là công việc khó khăn, phức tạp, đòi hỏi sự đoàn kết, thống nhất, dũng cảm, sự hy sinh của từng cán bộ, đảng viên cùng với quyết tâm rất cao của toàn Đảng, cả hệ thống chính trị, trước hết là người đứng đầu cấp ủy, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và đoàn thể các cấp. Tạp chí Cộng sản trân trọng giới thiệu bài viết của đồng chí Tổng Bí thư Tô Lâm về xây dựng hệ thống chính trị với tiêu đề: “Tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả”:
Giữ gìn và bảo vệ giá trị văn hóa truyền thống các dân tộc ít người, góp phần củng cố, phát triển khối đại đoàn kết toàn dân tộc
Giữ gìn và bảo vệ giá trị văn hóa truyền thống các dân tộc ít người, góp phần củng cố, phát triển khối đại đoàn kết toàn dân tộc
Với cộng đồng 54 dân tộc anh em, Việt Nam là quốc gia có nền văn hóa đa dạng, phong phú, có những nét riêng, trở thành tài sản quý giá làm nên bản sắc văn hóa Việt Nam độc đáo, đặc sắc. Giữ gìn và bảo vệ các giá trị di sản văn hóa truyền thống chính là góp phần củng cố phát triển khối đại đoàn kết dân tộc - một sức mạnh nội sinh to lớn và vĩ đại, làm nên mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam, dưới lá cờ vẻ vang của Đảng.
Xu hướng hòa bình, hợp tác, phát triển trên thế giới và vai trò của Việt Nam hiện nay
Xu hướng hòa bình, hợp tác, phát triển trên thế giới và vai trò của Việt Nam hiện nay
Trong bối cảnh hiện nay sự cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn, chạy đua vũ trang, các cuộc xung đột tôn giáo, sắc tộc vẫn diễn ra ở nhiều nơi, đặc biệt là cuộc xung đột quân sự giữa Nga và Ukraina ở Đông Âu, giữa Israel và Palestine vùng các tổ chức hồi giáo ở Trung Đông diễn biến ngày càng căng thẳng đe dọa tới hòa bình, an ninh khu vực và thế giới. Tuy vậy, hòa bình, hợp tác và phát triển vẫn là mục tiêu hướng tới của các nước, là xu hướng chính trị -xã hội tất yếu của nhân loại, từ đó đặt ra vai trò, trách nhiệm của các quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam.
Bình luận