Đội ngũ trí thức trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước
Chúng ta đang chứng kiến sự phát triển mạnh mẽ với tốc độ chưa từng thấy của khoa học - công nghệ tạo nên sự bùng nổ về thông tin, văn hoá và những thay đổi nhanh chóng trên quy mô toàn cầu về nhiều phương diện (tin học, sinh học, vật liệu mới...). Chính sự phát triển mạnh mẽ đó đã tạo nên sự tăng trưởng kinh tế, đồng thời làm thay đổi cả những nhận thức tư tưởng của con người làm cho trí tuệ của nhân loại phát triển nhanh chóng. Trong lịch sử nhân loại bất cứ một nền văn minh nào cũng phải dựa trên cơ sở của sự phát triển khoa học - công nghệ, trong đó khoa học tự nhiên (khoa học công nghệ) được xem là cơ sở vật chất và khoa học xã hội, khoa học nhân văn được xem là cơ sở tinh thần của nền văn minh nhân loại. Sự phát triển đó phải kể đến công lao to lớn của đội ngũ trí thức. Có thể nói trí thức còn là đại biểu cho trí tuệ của một dân tộc. Những tri thức tiến bộ, những nhà lý luận cách mạng vô sản đã góp phần thức tỉnh phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân và nhân dân lao động đến một trình độ giác ngộ về lý tưởng. Trong xây dựng xã hội mới, với tư cách là lực lượng có trình độ học vấn cao, trí thức tham gia trực tiếp chủ yếu vào việc nâng cao dân trí. Lênin đã nhiều lần chỉ ra rằng: trong cách mạng xã hội chủ nghĩa, nếu giai cấp công nhân và chính đảng của nó , lôi kéo, lãnh đạo trí thức, phát huy tài năng, trí tuệ của họ vào mọi công cuộc cách mạng thì cách mạng mới có thể phát triển nhanh chóng, đỡ những tổn thất do thiếu kiến thức và hiệu quả của mọi công việc mới được nâng cao không ngừng.
Trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội nói chung và khoa học - công nghệ nói riêng đòi hỏi phải có sự đầu tư trí tuệ, đầu tư chất xám, nó là sản phẩm đặc trưng là biểu hiện năng lực trí tuệ của đội ngũ trí thức. Đặc biệt trong điều kiện của nước ta hiện nay đang tiến hành công nghiệp hoá - hiện đại hoá hướng vào kinh tế tri thức thì không thể không có sự tham gia tích cực của tầng lớp trí thức. Lênin từng căn dặn: Không có sự chỉ đạo của các chuyên gia am hiểu các lĩnh vực khoa học, kỹ thuật có kinh nghiệm, thì không thể chuyển lên chủ nghĩa xã hội (CNXH) được, vì CNXH đòi hỏi một bước tiến có ý thức và có tính chất quần chúng để đi tới một năng suất lao động cao hơn năng suất của chủ nghĩa tư bản. Xuất phát từ thực tế lịch sử, Lênin đã rút ra một kết luận khoa học có tính định hướng cho tương lai: "Trước sự liên minh của các đại biểu khoa học, giai cấp vô sản và giới kỹ thuật, không một thế lực đen tối nào đứng vững được"(1). Thực tế cũng cho thấy, những kiến thức khoa học, nếu bị những kẻ có đặc quyền, những thế lực thống trị, phản động kiềm chế và lợi dụng, thì sẽ trở thành vũ khí để nô dịch quần chúng, phá hoại xu thế phát triển tất yếu của lịch sử. Do vậy, giai cấp vô sản phải có nhiệm vụ giành lại, hướng dẫn đội ngũ trí thức, phục vụ vì quyền lợi của đại đa số quần chúng nhân dân vì sự giải phóng con người.
Khi bàn đến vai trò, vị trí lao động của trí thức, trước kia cũng như hiện nay không phải lúc nào cũng đều được quan tâm đúng mức, nhiều người, chưa coi trọng lao động chất xám của họ trong sự nghiệp xây dựng đất nước. Lao động của trí thức là lao động trí tuệ cá nhân, sản phẩm trực tiếp của họ là những tri thức khoa học sáng tạo, những giá trị tinh thần. Đó là những công trình khoa học và công nghệ được tạo ra trong quá trình nghiên cứu, phát minh, giảng dạy, quản lý trên các lĩnh vực: khoa học xã hội, khoa học tự nhiên... Đặc biệt sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước nằm trong sự vận động chung của dân tộc theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Vì vậy, vai trò, trách nhiệm của đội ngũ trí thức hết sức lớn lao trước sự phát triển thịnh vượng của đất nước. Lênin đã chỉ ra cho chúng ta thấy lao động sáng tạo của trí thức khác biệt nhiều so với lao động chân tay, hoặc lao động giản đơn. Mặt khác, không phải tất cả những người lao động trí óc đều là trí thức nếu như người đó chỉ có bằng cấp mà không có sáng tạo. Người trí thức phải sáng tạo, tìm tòi, tổng kết thực tiễn để tiếp cận chân lý. Nói đến trí thức là nói đến sáng tạo khoa học không ngừng, biết làm giàu trí óc của mình bằng tất cả tri thức nhân loại tạo ra, nhất là khi trở thành cán bộ lãnh đạo thì càng phải có tầm cao trí tuệ. Lênin đòi hỏi: "Người lãnh đạo cơ quan nhà nước cần phải có ở mức độ cao, khả năng lôi cuốn mọi người và có đủ trình độ kiến tức khoa học kỹ thuật vững vàng để kiểm tra công tác của họ. Đó là điều cơ bản. Không như thế thì công tác không thể tiến hành đúng đắn được"(2).
Để tiến hành công nghiệp hoá - hiện đại hoá, Đảng ta đã nhấn mạnh tới nhiệm vụ, vai trò khoa học - công nghệ, với tư cách là nền tảng cho sự phát triển kinh tế của đất nước. Trong buổi lễ trao Giải thưởng Hồ Chí Minh và Giải thưởng Nhà nước về khoa học và công nghệ năm 2005, Chủ tịch Trần Đức Lương cho rằng: "Các nhà khoa học và công nghệ Việt Nam trong quá trình lao động khoa học đã đạt được nhiều thành quả quan trọng đóng góp vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam kể từ ngày thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà năm 1945 cho đến nay"(3). Có những thành quả quan trọng đó, đội ngũ trí thức - lực lượng trí tuệ cao là chủ thể đi đầu thực hiện nhiệm vụ chính trị của đất nước qua các gian đoạn cách mạng. Trong giai đoạn hiện nay, thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước cần coi trọng hơn vị trí và vai trò của đội ngũ trí thức.
Đội ngũ trí thức không chỉ là một bộ phận trong toàn bộ nguồn lực con người của xã hội, mà còn góp phần trực tiếp vào việc nâng cao dân trí, tạo nguồn nhân lực cho nhiều ngành khác trong xã hội. Nhiệm vụ vẻ vang này là của chung toàn xã hội nhưng trước hết, đó là trách nhiệm của trí thức ngành giáo dục và đào tạo,đã tạo ra đội ngũ người lao động có trình độ năng lực, có đạo đức, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm trước Đảng, trước dân, cần cù lao động sáng tạo để có năng suất lao động cao, có ý thức trách nhiệm vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì hạnh phúc của nhân dân.
Phát triển kinh tế - xã hội trong thời đại cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại là quá trình hợp tác sâu rộng, chặt chẽ và làm xích lại gần nhau giữa lao động trí óc và lao động chân tay. Vị trí và khả năng của trí thức chỉ được thể hiện trong mối quan hệ chặt chẽ với các bộ phận lao động xã hội khác, trước hết là với giai cấp công nhân và nông dân lao động. "Vì vậy, xây dựng quan hệ hợp tác, bình đẳng, cùng có lợi, hỗ trợ, giúp đỡ nhau cùng phát triển giữa công nghiệp và nông nghiệp, thành thị và nông thôn, công nhân, nông dân và trí thức là một khâu mấu chốt trong công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá"(4). Trong đó, giai cấp công nhân là hạt nhân để phát triển những mối quan hệ liên minh cả về kinh tế - chính trị - xã hội. Để thực hiện nhiệm vụ đổi mới toàn diện, đưa đất nước phát triển, thực hiện mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, thì giai cấp công nhân một mặt phải tự mình trí thức hoá, mặt khác phải động viên đầy đủ khả năng lao động sáng tạo trong đội ngũ trí thức của mình. Trong điều kiện kinh tế mở cửa, hội nhập, cần tạo điều kiện, khuyến khích cho trí thức là người Việt Nam định cư ở nước ngoài góp phần trí tuệ của mình vào xây dựng quê hương là một yêu cầu rất cần thiết.
Vai trò, vị trí của đội ngũ trí thức nước ta trong sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại đất nước thật to lớn, tuy nhiên vẫn còn nhiều vấn đề bất cập được giải quyết, đó là:
- Trí thức nước ta có khả năng sáng tạo, thông minh, ham học hỏi, cần cù lao động, vượt khó, đã có nhiều tấm gương trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ cũng như trong hoà bình và xây dựng. Nhưng một phần do cơ chế cho đã nên ra diễn ta một thực tế "lãng phí chất xám", "bạc chất xám" và "chảy máu chất xám". Nhiều sinh viên ra trường chưa nhận công tác ở vùng sâu vùng xa, hoặc nhận làm việc trái ngành nghề đào tạo và còn nhiều sinh viên ra trường chưa tìm được việc làm, đây là một thực tế cần được giải quyết.
- Cơ cấu trí thức nước ta còn nhiều bất hợp lý, chủ yếu tập trung ở những thành phố lớn: Hà Nội, Tp Hồ Chí Minh và một số thành phố khác còn những vùng cần trí thức để phát triển kinh tế - xã hội của đất nước thì rất thiếu. Những bất hợp lý này là nguyên nhân không nhỏ làm giảm khả năng huy động, chất lượng sáng tạo của đội ngũ trí thức để tạo ra nhiều sản phẩm cho xã hội để xóa đói, giảm nghèo ở những vùng sâu, vùng xa. Mặt khác, một vấn đề cần giải quyết đó là chất lượng của đội ngũ trí thức không ít người có học vị, bằng cấp nhưng không có năng lực trong nghiên cứu khoa học hoặc kiến thức rỗng chưa tương xứng với bằng cấp. Bằng ,ọi cách họ làm cho có bằng cấp để thăng quan tiến chức..
Đội ngũ trí thức nước ta tiếp thu được truyền thống yêu nước của dân tộc, tin tưởng vào đường lối đổi mới của Đảng, đã có nhiều đóng góp quan trọng trong sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Tuy nhiên, trong cuộc sống đời thường của mỗi trí thức có tài không ít người gặp nhiều khó khăn bởi nhiều nguyên nhân khác nhau, một số người đã nảy sinh hiện tượng tiêu cực... Do vậy, cần phải có công tác giáo dục chính trị tư tưởng và đào tạo ra đội ngũ trí thức phải "vừa hồng vừa chuyên" là một vấn đề hết sức quan trọng. Để khẳng định vai trò của đội ngũ trí thức, đáp ứng với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước theo chúng tôi cần có những giải pháp chính sau:
- Trước hết cần tạo ra: "Một cơ chế thông minh cho tài trí thông minh"(5) vì rằng, nếu chỉ có tài trí thông minh đến mức nào cũng chẳng giúp được gì nếu như cơ chế không đủ thông minh để phát huy tài trí của đội ngũ trí thức. Mặt khác, tiếp tục đổi mới công tác giáo dục đào tạo đội ngũ trí thức một cách có kế hoạch để có thể phát triển cả về số lượng, chất lượng và phù hợp với yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá hiện nay. Thực hiện đồng bộ nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên, cải cách nội dung và phương pháp giảng dạy, khuyến khích tinh thần tìm tòi, ham học tập của sinh viên. Công tác đào tạo phải gắn với sử dụng, tránh tình trạng thừa thầy, thiếu thợ, đào tạo ra người "giữ tiền" nhiều hơn người "làm ra tiền". Cần đào tạo đội ngũ cán bộ đầu đàn, các chuyên gia trong ngành công nghệ then chốt, từng bước nâng cao về mặt chuyên môn, gửi cán bộ đi nghiên cứu học tập nâng cao trình độ ở nước ngoài...
- Các sản phẩm trí tuệ phải được coi là hàng hoá đặc biệt, được mở rộng lưu thông và được trả công xứng đáng. Thực hiện tốt quyền sở hữu công nghiệp và chuyển giao công nghệ, pháp lệnh quyền tác giả... Mặt khác, trí thức cũng phải làm đúng nghĩa vụ của mình và được làm việc đúng chuyên ngành đào tạo. Cần có khuyến khích lợi ích vật chất và tinh thần ch đội ngũ trí thức, tạo ra một động lực chính đáng để đội ngũ trí thức ngày càng được cống hiến nhiều cho xã hội.
- Cần tập trung định hướng đào tạo đội ngũ trí thức đáp ứng với xây dựng những khu công nghiệp mới, công nghệ cao; phát triển công nghệ phục vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn.. Trong văn kiện Đại hội lần thứ IX của Đảng đã khẳng định: "Đối với trí thức, tạo điều kiện thuận lợi để thu nhận thông tin, tiếp nhận các thành tựu mới của khoa học, công nghệ và văn hoá thế giới, nâng cao trình độ chính trị, kiến thức chuyên môn. Khuyến khích tự do sáng tạo, phát minh, cống hiến. Phát hiện bồi dưỡng, sử dụng đúng và đãi ngộ xứng đáng các tài năng. Phát huy năng lực của trí thức trong việc thực hiện các chương trình, đề tài nghiên cứu của Nhà nước và xây dựng đường lối, chủ trương, chính sách, pháp luật"(6).
Trong thời kỳ đổi mới, Đảng ta luôn tạo mọi điều kiện cho đội ngũ trí thức có môi trường thuận lợi để phát huy tài năng, trí tuệ của mình cống hiến cho đất nước. Mặt khác, trong giai đoạn hiện nay với nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, hướng vào kinh tế tri thức vai trò và trách nhiệm của đội ngũ trí thức càng quan trọng cả trong chuyên môn nghiệp vụ và bản lĩnh chính trị. Đội ngũ trí thức phải có ý chí phấn đấu vươn lên, thực sự trở thành nòng cốt và động lực mạnh mẽ của công cuộc đổi mới đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
___________________________________
(1) V.I Lênin Toàn tập, 1997, Nxb Tiến bộ, Mat-xcơ-va, T.40, tr.218.
(2) V.I Lênin Toàn tập, 1997, Nxb Tiến bộ, Mat-xcơ-va, T.45, tr402-403.
(3) Văn kiện Hội nghị lần thứ 7 BCHTW Đảng (khoá VII), 1994, Nxb. CTQG, H., tr10.
(4) GS Hoàng Tụy, Xuân tân tỵ, 2001, Tuổi trẻ TP Hồ Chí Minh, tr.11.
(5) Văn kiện Đại hội đại biểu lần thứ IX, Nxb CTQG, H., 2001, tr125-126
(6) Báo Nhân dân ra ngày 1.10.2005, Số 18318.
Nguồn: Bài đăng trên Tạp chí Báo chí và Tuyên truyền số 6 (tháng 11+12)/2005
Bài liên quan
- Cơ sở hình thành văn hóa từ chức ở Việt Nam hiện nay
- Nâng cao nhận thức của các tổ chức đảng và đảng viên trong xây dựng đảng về đạo đức ở Việt Nam hiện nay
- Những thành tựu lý luận lớn của Đảng qua gần 40 năm đổi mới
- Đảng Cộng sản Việt Nam và niềm tin hiện thực hóa khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc
- Một số vấn đề về đổi mới phương thức lãnh đạo của tổ chức cơ sở đảng hiện nay
Xem nhiều
- 1 Mạch Nguồn số 47: Người gieo mầm xanh
- 2 Mạch Nguồn 46: Chèo làng Khuốc - Tìm về làn điệu tiến Vua
- 3 Thông báo tuyển sinh Chương trình Cử nhân quốc tế Quảng cáo, Quan hệ công chúng và Thương hiệu năm 2024
- 4 Hiệp định Pari - thắng lợi có ý nghĩa chiến lược dẫn đến đại thắng mùa Xuân năm 1975, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước
- 5 Các yếu tố tác động đến sự hình thành dư luận xã hội
- 6 Đại hội đại biểu Hội Cựu sinh viên Học viện Báo chí và Tuyên truyền nhiệm kỳ 2024 – 2029
Liên kết
- Báo điện tử đảng cộng sản việt nam
- Báo nhân dân
- Báo Quân đội nhân dân
- Cổng thông tin điện tử Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Cổng thông tin điện tử Học viện Chính trị quốc gia hồ chí minh
- Tạp chí Cộng sản
- Tạp chí Giáo dục lý luận
- Tạp chí Giáo dục và Xã hội
- Tạp chí Khoa học xã hội và Nhân văn
- Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam
- Tạp chí Lý luận chính trị
- Tạp chí Nghiên cứu con người
- TẠP CHÍ Nghiên cứu dân tộc
- Tạp chí Người làm báo
- Tạp chí Nội chính
- Tạp chí Quản lý Nhà nước
- Tạp chí Tổ chức Nhà nước
- Tạp chí Tuyên giáo
- Tạp chí Xây Dựng Đảng
- Thư viện số Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Trang thông tin điện tử Hội đồng Lý luận Trung ương
Phát huy giá trị đạo đức để khơi dậy động lực cống hiến và khát vọng thực hiện trách nhiệm xã hội của doanh nhân Việt Nam
Bài viết phân tích tầm quan trọng của việc phát huy tinh thần yêu nước, lòng tự hào dân tộc, tình yêu quê hương của các doanh nhân; tinh thần tự giác, phấn đấu vươn lên, có ý thức trách nhiệm trong sản xuất kinh doanh của doanh nhân; lý tưởng sống cao đẹp, tinh thần tương thân, tương ái, có ước mơ, khát vọng vươn lên; trách nhiệm cá nhân, tinh thần tập thể, tinh thần phục vụ nhân dân của doanh nhân. Trên cơ sở đó, đề xuất 4 giải pháp để khơi dậy động lực cống hiến và khát vọng thực hiện trách nhiệm xã hội của doanh nhân Việt Nam.
Cơ sở hình thành văn hóa từ chức ở Việt Nam hiện nay
Cơ sở hình thành văn hóa từ chức ở Việt Nam hiện nay
Văn hoá từ chức là những ứng xử dựa trên lương tri, lòng tự trọng khi những người lãnh đạo thấy mình mắc khuyết điểm, lỗi lầm, thấy không còn xứng đáng đảm nhận được nhiệm vụ hiện tại; là hành vi của cá nhân tự nguyện rời bỏ vị trí lãnh đạo, cầm quyền của mình cho người khác có khả năng hơn (năng lực, trình độ, phẩm chất, sức khỏe…) nhằm đảm bảo lợi ích chung của tập thể, cộng đồng và sự phát triển của đất nước.
Nâng cao nhận thức của các tổ chức đảng và đảng viên trong xây dựng đảng về đạo đức ở Việt Nam hiện nay
Nâng cao nhận thức của các tổ chức đảng và đảng viên trong xây dựng đảng về đạo đức ở Việt Nam hiện nay
Trong giai đoạn hiện nay, vấn đề xây dựng Đảng về đạo đức có vai trò đặc biệt quan trọng, có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn. Đây là một trong những nhân tố quyết định trong việc nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, để Đảng thực sự trong sạch, vững mạnh, xứng đáng với sự tin cậy của nhân dân. Tuy nhiên, nhìn vào thực tế hiện nay, chúng ta phải nghiêm khắc thừa nhận, một số cán bộ đảng viên và tổ chức đảng còn bộc lộ nhiều điểm hạn chế, yếu kém. Bài viết nêu ra thực trạng suy thoái về tư tưởng, đạo đức, lối sống, từ đó chỉ ra một số phương pháp cơ bản để nâng cao nhận thức của các tổ chức đảng và đảng viên trong xây dựng Đảng về đạo đức ở Việt Nam hiện nay.
Những thành tựu lý luận lớn của Đảng qua gần 40 năm đổi mới
Những thành tựu lý luận lớn của Đảng qua gần 40 năm đổi mới
Những thành tựu lý luận lớn của Đảng qua gần 40 năm đổi mới thể hiện sự kiên định mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội, sự phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong thực tiễn cách mạng Việt Nam. Theo đó, một trong những yêu cầu quan trọng hiện nay là cần tăng cường tổng kết những thành tựu lý luận của Đảng, nhằm góp phần phát triển, hoàn thiện, nâng tầm lý luận của Đảng, nhất là những nhận thức mới về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội đặc thù, riêng có ở Việt Nam, hướng đến thực hiện thắng lợi những mục tiêu xây dựng, phát triển đất nước đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.
Đảng Cộng sản Việt Nam và niềm tin hiện thực hóa khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc
Đảng Cộng sản Việt Nam và niềm tin hiện thực hóa khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc
Mùa Xuân năm 1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời - một sự kiện trọng đại đã tạo ra bước ngoặt căn bản, làm thay đổi cả vận mệnh dân tộc, thân phận của người dân và vị thế của quốc gia Việt Nam. Những thắng lợi vĩ đại, những thành tựu đáng tự hào của đất nước dưới sự lãnh đạo của Đảng trong 94 năm qua chính là niềm tin, là nhân tố cơ bản để toàn thể dân tộc tiếp tục hiện thực hóa khát vọng đưa đất nước phát triển phồn vinh, hạnh phúc trong giai đoạn mới.
Bình luận