Giải pháp nâng cao chất lượng thông tin về chính sách tín dụng ưu đãi cho đồng bào dân tộc thiểu số trên báo mạng điện tử ở Việt Nam hiên nay
1. Thực trạng thông tin về chính sách tín dụng ưu đãi cho đồng bào DTTS trên Báo mạng điện tử ở Việt Nam hiện nay
Tín dụng chính sách xã hội là hình thức Nhà nước chủ động tổ chức huy động các nguồn lực tài chính nhằm cung cấp các khoản vay ưu đãi cho hộ nghèo và các đối tượng chính sách khác(1). Mục tiêu của chính sách này là tạo điều kiện phát triển kinh tế hộ gia đình, cải thiện chất lượng cuộc sống, đồng thời góp phần giảm thiểu tình trạng đói nghèo trong xã hội(2). Trong quá trình phát triển đất nước, Đảng và Nhà nước Việt Nam luôn nhất quán với quan điểm phát triển kinh tế phải đi đôi với đảm bảo tiến bộ và công bằng xã hội. Mọi người dân cần được thụ hưởng thành quả của quá trình phát triển, không đánh đổi công bằng xã hội, an sinh và môi trường để đổi lấy tăng trưởng kinh tế thuần túy. Tinh thần bao trùm trong các chủ trương, chính sách là “phát triển cùng nhau”, “không để ai bị bỏ lại phía sau”, với sự đồng hành của cả cộng đồng trong quá trình xây dựng và hưởng thụ thành quả phát triển(3).
Theo số liệu thống kê của Uỷ ban Dân tộc (nay là Bộ Dân tộc và Tôn giáo) được công bố vào tháng 7/2025, hiện Việt Nam có trên 14,44 triệu người thuộc 53 dân tộc thiểu số (DTTS), chiếm khoảng 14% tổng dân số cả nước, phân bố rộng khắp tại 34 tỉnh, thành(4). Trong số đó, rất nhiều đồng bào khó khăn có nhu cầu vay vốn thoát nghèo, phát triển kinh tế nhưng chưa được tiếp cận đến thông tin về tín dụng ưu đãi cho đồng bào DTTS; họ thậm chí không biết vay vốn ở đâu.
Thời gian qua, báo chí nói chung và báo mạng điện tử (BMĐT) nói riêng, đặc biệt là các báo điện tử gồm VnExpress, Nhân Dân điện tử và Thời báo Ngân hàng đã trở thành kênh thông tin hữu hiệu trong việc đưa những chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về những nội dung quan trọng của chính sách tín dụng ưu đãi cho đồng bào DTTS, từ đó tác động vào nhận thức người dân góp phần tuyên truyền, phổ biến những chính sách an sinh xã hội đến đối tượng thụ hưởng là đồng bào DTTS, để xây dựng và phát triển cộng đồng theo định hướng của Đảng và Nhà nước. BMĐT đã phát huy hiệu quả vai trò giám sát và phản biện xã hội thông qua các hoạt động báo chí. Ngay từ giai đoạn dự thảo chính sách, các cơ quan báo chí đã chủ động đăng tải ý kiến của người dân, chuyên gia, doanh nghiệp… nhằm đóng góp ý tưởng, đề xuất giải pháp và phản biện các nội dung liên quan. Nhiều chủ trương lớn của Đảng, chính sách của Nhà nước – trong đó có chính sách tín dụng ưu đãi dành cho đồng bào DTTS – đã nhận được sự quan tâm và phản hồi tích cực từ công chúng qua các kênh thông tin báo chí. Đồng thời, khi chính sách được triển khai thực tế, những điểm bất cập, chưa phù hợp cũng được phản ánh kịp thời trên các BMĐT, tạo điều kiện để cơ quan chức năng xem xét, điều chỉnh, góp phần hoàn thiện hệ thống chính sách một cách sát thực và hiệu quả hơn.
Khảo sát của tác giả riêng trên 3 BMĐT gồm VnExpress, Nhân Dân điện tử và Thời báo Ngân hàng cho thấy, cả ba báo này trong năm 2024 đều đã tận dụng tối đa những lợi thế của mình, góp phần đề cập đa chiều liên quan đến chính sách tín dụng ưu đãi cho đồng bào DTTS; thông tin, tuyên truyền các chính sách kịp thời và đạt hiệu quả.
Ảnh 1: Đồng bào dân tộc thiểu số ở Hà Giang vay vốn Ngân hàng Chính sách xã hội để phát triển kinh tế gia đình (Nguồn: Tác giả chụp trong chuyến đi công tác tại Hà Giang năm 2024)
1.1. Những ưu điểm nổi bật
Thứ nhất, nội dung thông tin chính sách tín dụng ưu đãi trên các BMĐT thuộc diện khảo sát đều chính xác, kịp thời. Những thông tin trên các BMĐT nhận được những phản hồi tích cực đại đa số công chúng cho rằng cơ bản phong phú, đáp ứng được nhu cầu thông tin về vấn đề chính sách tín dụng ưu đãi cho đồng bào DTTS nhất là về thực trạng những vấn đề bất cập còn tồn tại đã được phản ánh đầy đủ không né tránh. Hầu hết tác phẩm báo chí khi viết về đồng bào DTTS thì tần suất xuất hiện hình ảnh người DTTS khó khăn, bế tắc, bị động, trông chờ được trợ giúp,… ít xuất hiện mà thay vào đó, hình ảnh người dân chủ động, sáng tạo, nỗ lực vươn lên nhờ có chính sách tín dụng ưu đãi của Đảng và Nhà nước xuất hiện với tần suất nhiều.
Một đối tượng được hưởng chính sách khi trả lời phỏng vấn của tác giả đã cho biết: "Tôi thấy thông tin các báo cung cấp đều hữu ích và phản ánh nhiều khía cạnh của vấn đề. Các báo đều đã phát huy được những ưu điểm, lợi thế riêng trong thông tin về chính sách tín dụng ưu đãi cho đồng bào DTTS thông qua việc tập trung phản ánh thực trạng áp dụng chính sách tín dụng ưu đãi cho đồng bào DTTS và những vấn đề bất cập liên quan; tuyên truyền, phổ biến sâu rộng các chủ trương, chính sách nhằm nâng cao nhận thức của người dân đồng thời tham gia xây dựng, hoạch định và thực thi chính sách; giám sát về thực hiện chính sách cũng như đề xuất các giải pháp về chính sách tín dụng ưu đãi cho đồng bào DTTS”.
Các nội dung thông tin về chính sách tín dụng ưu đãi cho đồng bào DTTS trên các báo thuộc diện khảo sát đã có những đóng góp tích cực trong phần nâng cao nhận thức của công chúng về chính sách tín dụng ưu đãi cho đồng bào DTTS, đặc biệt là những thay đổi tích cực của đồng bào khi được hưởng các chính sách tín dụng ưu đãi của Đảng và Nhà nước. Và cũng chính điều này đã góp phần đảm bảo cho sự phát triển kinh tế của người dân và sự phát triển bền vững của địa phương.
Thứ hai, giao diện của các báo đều thể hiện xu hướng thiết kế mở, hiện đại, khoa học, thân thiện, cho phép thể hiện nhiều sản phẩm báo chí trên nền tảng công nghệ mới, đáp ứng nhu cầu tiếp cận thông tin đa dạng và ngày càng cao của độc giả. Các báo cũng quan tâm tới nút like hay share mạng xã hội tại mỗi bài viết bởi chính là môi trường thuận lợi giúp phổ biến, tuyên truyền nội dung chính sách, tạo nên dư luận xã hội, đặc biệt là trong chính sách tín dụng ưu đãi cho đồng bào DTTS hiện nay. Bên cạnh đó, bình luận của độc giả ngày càng được các BMĐT coi trọng. Dưới mỗi tin tức, bài báo về chính sách tín dụng ưu đãi cho đồng bào DTTS đã có tính năng giúp cho độc giả thể hiện sự quan tâm của mình qua việc để lại các ý kiến bình luận. Điều này đã trở thành một kênh tương tác hữu hiệu giữa các tòa soạn BMĐT với độc giả, giúp cơ quan báo chí nắm được tâm tư, nguyện vọng cũng như những chia sẻ, góp ý hay quan điểm cá nhân của độc giả về vấn đề mà họ quan tâm.
Thứ ba, hình thức thông tin về chính sách tín dụng ưu đãi cho đồng bào DTTS thể hiện đa dạng. Các tờ BMĐT diện khảo sát đã bắt đầu đầu tư phát triển báo chí chuyên sâu, báo chí dữ liệu, thể hiện qua một số tác phẩm viết về chính sách tín dụng ưu đãi cho đồng bào DTTS thông qua thể loại đa phương tiện như e-magazine, infogarphic, phóng sự ảnh..., sử dụng các tools vào quy trình sản xuất các sản phẩm trực quan, dữ liệu. Bên cạnh việc khai thác thế mạnh của văn bản, các trang báo còn tận dụng thế mạnh của BMĐT; đó là kết hợp được nhiều hình thức truyền tải thông tin trong một bài viết gồm chữ viết, hình ảnh, video, âm thanh và các sản phẩm truyền thông đa phương tiện làm dẫn chứng cho nội dung liên quan đến chính sách tín dụng ưu đãi cho đồng bào DTTS mà tác phẩm đề cập. Giá trị hiện đại thể hiện ở việc mở rộng khu vực đa phương tiện thành các khối thông tin tạo điểm nhấn cho tác phẩm. Có thể thấy, các BMDT đã đem lại những thông tin sống động, hấp dẫn cho công chúng liên quan đến chính sách tín dụng ưu đãi cho đồng bào DTTS.
1.2. Một số tồn tại, hạn chế
Bên cạnh những ưu điểm nổi bật nêu trên, một số bài viết trên 3 BMĐT trong diện khảo sát vẫn còn những hạn chế nhất định cần được nhìn nhận một cách thẳng thắn để có giải pháp hoàn thiện hơn nữa việc thông tin về chính sách tín dụng ưu đãi cho đồng bào DTTS trên BMĐT hiện nay.
Thứ nhất, số lượng tin bài thông tin về chính sách tín dụng ưu đãi cho đồng bào DTTS còn thấp, thông tin chưa chi tiết, người dân chưa tiếp cận được nhiều. Một phóng viên chuyên theo dõi mảng tài chính ngân hàng khi trả lời phỏng vấn của tác giả có cho biết: "Các bài viết có chủ đề giải pháp nâng cao chất lượng chính sách tín dụng ưu đãi cho đồng bào DTTS, nhất là những giải pháp về tạo cơ chế chính sách khuyến khích cho đồng bào DTTS có cơ hội tiếp cận các chương trình ưu đãi tín dụng và cơ hội cải thiện sản xuất, kinh tế mang rất nhiều thông tin hữu ích và cần thiết đối với đồng bào DTTS. Tuy nhiên, tôi thấy những nội dung này chưa được khai thác nhiều trên các báo".
Thứ hai, còn ít bài viết mang tính chuyên sâu, dự báo, nhận định và đưa ra các giải pháp. Qua khảo sát cho thấy, phần lớn các bài viết về chính sách tín dụng ưu đãi cho đồng bào DTTS trên các báo điện tử thuộc diện khảo sát thì thể loại tin và bài phản ánh vẫn chiếm nhiều nhất trong số các thể loại khác liên quan đến chủ đề chính sách tín dụng ưu đãi cho đồng bào DTTS. Các thể loại khác ngoài việc khái quát những vấn đề thời sự còn phân tích, lý giải các vấn đề đã đưa ra nhất là những khó khăn, thách thức và nguy cơ phức tạp. Tuy nhiên, thể loại khác còn ít và hầu như chưa được quan tâm. Điều này cũng đã cho thấy ở phần nội dung khi độc giả phản ánh các tác phẩm nội dung chưa phản ánh sâu sắc vấn đề thì nguyên nhân một phần là do chọn thể loại để chuyển tải chưa phù hợp.
Thứ ba, các BMĐT vẫn chưa khai thác triệt để tính đa phương tiện của thể loại BMĐT. Phần lớn các bài viết mới là sự kết hợp giữa chữ viết và hình ảnh, còn chưa có nhiều video hay đồ họa vi tính. Còn đối với những bài viết có video thì thường rất ít video có tiếng động ở hiện trường mà chủ yếu quay hình ảnh và lồng tiếng của phóng viên hay nhạc vào làm hạn chế tính chân thực của video.
Ảnh 2: Cán bộ Ngân hàng hướng dẫn bà con tìm hiểu thông tin về thủ tục vay vốn tín dụng ưu đãi (Nguồn: Tác giả chụp khi công tác tại Hà Giang năm 2024)
Với những hạn chế về nội dung và hình thức trong việc thông tin về vấn đề chính sách tín dụng ưu đãi cho đồng bào DTTS đã nêu ở trên thì nguyên nhân, kết hợp với việc quan sát tham dự, tác giả nhận thấy có một số nguyên nhân như sau: (1) thiếu phối hợp chặt chẽ giữa báo chí và cơ quan quản lý; (2) kế hoạch truyền thông thiếu đầu tư, nội dung chung chung, chưa tập trung vào các vấn đề bất cập hay giải pháp mà công chúng quan tâm; (3) điều kiện tác nghiệp hạn chế, ảnh hưởng chất lượng bài viết chuyên sâu; (4) thiếu phóng viên chuyên trách, khiến việc nắm bắt thông tin chưa sâu, thiếu chủ động trong sử dụng các thể loại báo chí để truyền tải hiệu quả.
2. Giải pháp nâng cao chất lượng thông tin về chính sách tín dụng ưu đãi cho đồng bào dân tộc thiểu số trên báo mạng điện tử hiên nay
Từ kết quả khảo sát trên đây cho thấy, hiện nay tuy đã có những thành công nhất định nhưng số lượng tin bài và chất lượng tin bài vẫn còn nhiều hạn chế. Vì vậy, việc thông tin về chính sách tín dụng ưu đãi cho đồng bào DTTS chưa hiệu quả, chưa đáp ứng được những yêu cầu đặt ra. Thực trạng trên đòi hỏi phải có những giải pháp cụ thể nhằm nâng cao chất lượng thông tin về chính sách tín dụng ưu đãi cho đồng bào DTTS trên BMĐT, đáp ứng được yêu cầu không những của báo chí truyền thông, mà còn của độc giả thời đại mới.
2.1. Giải pháp về nâng cao chất lượng đội ngũ phóng viên, biên tập viên
Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói: “Nhiệm vụ của người làm báo là quan trọng và vẻ vang. Muốn hoàn thành nhiệm vụ ấy thì phải cố gắng học tập chính trị, rèn luyện bản lĩnh, tư tưởng vững vàng, đứng vững trên lập trường giai cấp vô sản; phải nâng cao trình độ văn hóa, phải đi sâu vào nghiệp vụ báo chí. Phải luôn luôn cố gắng, mà cố gắng thì nhất định thành công”(5).
Để nâng cao chất lượng đội ngũ phóng viên, biên tập viên BMĐT phục vụ cho việc thông tin về chính sách tín dụng ưu đãi cho đồng bào DTTS tới độc giả, theo tác giả, cần tập trung một số nội dung sau:
Một là, trong công tác tuyển chọn, bố trí, sử dụng phóng viên, biên tập viên thực hiện nhiệm vụ liên quan đến việc thông tin về chính sách tín dụng ưu đãi cho đồng bào DTTS trên BMĐT cần có tiêu chí cụ thể, phân loại, xác định trình độ năng lực công tác rõ ràng; đồng thời có chế độ, chính sách thích hợp nhằm thu hút những người có bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức và trình độ chuyên môn nghiệp vụ cao, trong đó bao hàm cả nghiệp vụ về báo chí và am hiểu các lĩnh vực liên quan đến đối tượng đặc thù người DTTS. Căn cứ theo từng vị trí công tác mà cán bộ lãnh đạo, quản lý bố trí sử dụng con người thích hợp để phát huy thế mạnh của cán bộ, nâng cao chất lượng công tác nhưng không lãng phí nguồn nhân lực(6).
Hai là, tăng cường quán triệt, phổ biến chủ trương, đường lối, của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, đặc biệt các nội dung liên quan đến chính sách tín dụng ưu đãi cho đồng bào DTTS để mọi phóng viên, biên tập viên nắm rõ. Điều này sẽ cung cấp một cơ sở vững chắc cho quá trình tác nghiệp, cùng với những tri thức sâu sắc được nhận từ nghiên cứu và thực tế, từ đó xây dựng, rèn luyện được bản lĩnh chính trị kiên định, vững vàng; xây dựng tầm nhìn chiến lược, nhạy bén với những vấn đề về chính sách tín dụng ưu đãi cho đồng bào DTTS.
Ba là, có kế hoạch bồi dưỡng, đào tạo đội ngũ phóng viên, biên tập viên, thông qua đa dạng các hình thức như tự tổ chức tập huấn, đào tạo, cử đi đào tạo nghiệp vụ tại các cơ sở đào tạo chuyên ngành.
Bốn là, giỏi chuyên môn và am hiểu tiếng địa phương các vùng miền. Đã là người làm báo, dù làm báo ở lĩnh vực nào, việc có kiến thức chuyên môn vững vàng là tiêu chí cần thiết và quan trọng hàng đầu.
Năm là, tăng tính chủ động của các phóng viên, nhà báo chuyên trách nội dung thông tin chính sách tín dụng ưu đãi cho đồng bào DTTS. Mỗi phóng viên, nhà báo khi được giao phụ trách mảng nội dung này cần tích cực tìm tòi, tiếp cận các nguồn tin hữu ích phục vụ cho việc sản xuất những tin bài chất lượng về chính sách tín dụng ưu đãi cho đồng bào DTTS, phục vụ nhu cầu thông tin ngày một lớn của công chúng nói chung và đồng bào DTTS nói riêng.
2.2. Giải pháp về đầu tư trang thiết bị kỹ thuật
Các tòa soạn báo cần tăng cường đầu tư trang thiết bị, kỹ thuật nhằm ứng dụng khoa học và công nghệ phục vụ hiệu quả việc tổ chức sản xuất thông tin về chính sách tín dụng ưu đãi cho đồng bào DTTS trên BMĐT. Những thông tin về vấn đề này thường được các phóng viên, nhà báo thu thập ngay tại địa bàn sinh sống của đồng bào DTTS. Do đó, trang thiết bị kỹ thuật có ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng tin bài. Trong quá trình tác nghiệp, phóng viên sẽ mang trang thiết bị theo đến những thôn bản vùng DTTS. Nếu trang thiết bị không hiện đại thì hiệu quả thông tin sẽ không được cao. Nguồn thông tin do cán bộ trực tiếp thu thập từ cơ sở với việc được trang bị nhiều thiết bị hiện đại sẽ nâng cao chất lượng, hiệu quả của đội ngũ phóng viên trong việc thu thập thông tin, hình ảnh cùng những dữ liệu khác để phục vụ sáng tạo thông tin.
2.3. Giải pháp về đổi mới nội dung thông tin chính sách trên báo mạng điện tử
Thứ nhất, tăng cường tính chủ động tìm kiếm thông tin: Trước sự phát triển mạnh mẽ của mạng xã hội, công chúng cũng đặt ra yêu cầu cao cho báo chí, đòi hỏi mỗi nhà báo, mỗi cơ quan báo chí cần phải có được chiến lược, hướng đi rõ ràng để khẳng định vị trí cơ quan báo chí chính thống và phải đổi mới, sáng tạo để thu hút độc giả. Các phóng viên, nhà báo cũng như tòa soạn báo cần chủ động trong việc tìm kiếm thông tin để đáp ứng nhu cầu đa dạng của độc giả, đảm bảo tính thời sự và khách quan của thông tin.
Thứ hai, cải thiện khả năng tiếp cận thông tin của đồng bào DTTS: Bên cạnh những nỗ lực từ phía các cơ quan báo chí trong việc nâng cao chất lượng thông tin hướng đến đồng bào DTTS, Nhà nước cần triển khai thêm các biện pháp nhằm cải thiện khả năng tiếp cận thông tin cho nhóm đối tượng đặc thù này. Một trong những hướng đi thiết thực là tiếp tục mở rộng khả năng tiếp cận internet tại các khu vực vùng cao, vùng sâu, vùng xa. Việc đẩy mạnh đầu tư để hoàn thiện hạ tầng như đưa điện lưới quốc gia đến những khu vực còn khó khăn và mở rộng vùng phủ sóng internet sẽ góp phần tạo điều kiện thuận lợi để đồng bào DTTS tiếp cận thông tin nhanh chóng, đầy đủ và hiệu quả hơn.
Thứ ba, nâng cao chất lượng nội dung thông tin: Đây là giải pháp rất quan trọng. Nội dung tuyên truyền về chính sách cần được xây dựng dựa trên yêu cầu giải quyết các vấn đề thực tiễn mà chính sách đang hướng tới. Khi xuất phát từ nhu cầu thực tế của đời sống, các sản phẩm báo chí sẽ dễ dàng định hình thông tin theo hướng chính xác, phù hợp và hấp dẫn, qua đó đạt hiệu quả truyền thông cao. Riêng đối với chính sách tín dụng ưu đãi dành cho đồng bào DTTS, nội dung tuyên truyền cần bảo đảm ba yếu tố cốt lõi: chính xác về thông tin, phù hợp với nhu cầu, và truyền tải cuốn hút.
Thứ tư, xây dựng kế hoạch, chiến dịch truyền thông chính sách: Khi xác định xây dựng chiến lược, kế hoạch thông tin dài hạn liên quan đến chính sách tín dụng ưu đãi cho đồng bào DTTS, các cơ quan báo chí cần chủ động phối hợp với cơ quan quản lý nhà nước về lĩnh vực tín dụng chính sách nhằm xây dựng kế hoạch truyền thông chính sách cụ thể. Bên cạnh đó, Ban biên tập các tờ BMĐT cần xây dựng kế hoạch tuyên truyền, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát nội dung tuyên truyền thông tin chính sách tín dụng ưu đãi cho đồng bào DTTS và lựa chọn đội ngũ phóng biên, biên tập viên có chuyên môn đảm nhận nhiệm vụ theo dõi, đưa tin về lĩnh vực này.
2.4. Giải pháp về phương thức thông tin chính sách tín dụng ưu đãi cho đồng bào dân tộc thiểu số trên báo mạng điện tử
Thứ nhất, đa dạng ngôn ngữ thể hiện thông tin: Ngôn ngữ thể hiện thông tin liên quan đến chính sách tín dụng ưu đãi cho đồng bào DTTS trên BMĐT không chỉ đơn thuần là dạng chữ viết hay hình ảnh thông thường mà phải bằng các thứ tiếng dân tộc để thông tin đến được đúng người, đúng đối tượng đồng bào DTTS.
Thứ hai, tăng cường sử dụng thông tin đồ họa (infographic) trong truyền thông: Hình thức thể hiện này giúp chuyển tải các dữ liệu và kiến thức về một chủ đề cụ thể theo cách trực quan, sinh động và dễ hiểu, hỗ trợ độc giả nhanh chóng nắm bắt thông tin cốt lõi.
Thứ ba, sử dụng đa dạng hình thức tác phẩm báo chí đa phương tiện như long-form (mega-story), tin theo dòng sự kiện (tin timeline) ... để thông tin vấn đề được hiệu quả.
Thứ tư, sử dụng mạng xã hội vào hoạt động thông tin của BMĐT. Với các đặc điểm nhanh chóng, tiện lợi, dễ dàng tạo lập mối liên hệ giữa tòa soạn với công chúng, khả năng lan truyền thông tin vượt trội, gia tăng sự tham gia của công chúng vào hoạt động báo chí...thì việc sử dụng mạng xã hội hiện nay đang là công cụ đắc lực để truyền tải thông tin tới độc giả. Việc tận dụng mạng xã hội đã mang lại nhiều lợi ích cho báo chí trong việc lan tỏa thương hiệu, nâng cao uy tín và mở rộng độ phủ thông tin đến đông đảo người dùng Internet.
Không chỉ ở cấp độ cơ quan báo chí, mà từng phóng viên, biên tập viên cũng có thể chủ động xây dựng các tài khoản cá nhân để kết nối, tạo dựng mạng lưới cộng tác viên cũng như duy trì mối quan hệ với nhóm độc giả trung thành. Khi một bài viết được chia sẻ rộng rãi và tạo thành xu hướng trên mạng xã hội, sức lan tỏa và mức độ ảnh hưởng của nó sẽ gia tăng đáng kể, góp phần nâng cao hiệu quả truyền thông của báo chí trong không gian số. Vì vậy, các tờ BMĐT cần kết hợp sử dụng mạng xã hội vào hoạt động thông tin về chính sách tín dụng ưu đãi cho đồng bào DTTS để lan tỏa thông tin một cách rộng rãi, thu hút sự chú ý của độc giả đối với vấn đề này./.
_____________________________
(1) Ban Chấp hành Trung ương (2014), Chỉ thị số 40-CT/TW ngày 22/11/2014 của Ban Bí thư Trung ương Đảng khóa XI về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với tín dụng chính sách xã hội.
(2) Chính phủ (2002), Nghị định số 78/2002/NĐ-CP ngày 04/10/2002 về tín dụng đối với người nghèo và các đối tượng chính sách khác.
(3) Chính phủ (2022), Nghị định số 28/2022/NĐ-CP ngày 26/4/2022 về chính sách tín dụng ưu đãi thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào DTTS và miền núi giai đoạn 2021 - 2030, giai đoạn 1: từ năm 2021 đến năm 2025.
(4) http://www.cema.gov.vn/thong-bao/ket-qua-dieu-tra-thu-thap-thong-tin-ve-thuc-trang-kinh-te-xa-hoi-cua-53-dan-toc-thieu-so-nam-2024.htm
(5) Hồ Chí Minh (1959), Phát biểu tại Đại hội lần thứ II của Hội Nhà báo Việt Nam.
(6) Nguyễn Thành Lợi (2019), “Tác nghiệp báo chí trong môi trường truyền thông hiện đại”, Nxb. Thông tin và Truyền thông.
Nguồn: Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông điện tử
Bài liên quan
- Thị trường xuất bản phẩm Việt Nam - Thực trạng và xu hướng
- Nhu cầu tiếp nhận thông tin báo chí của sinh viên hiện nay
- Một số lý thuyết vận dụng nghiên cứu nhu cầu tiếp nhận thông tin báo chí
- Thực trạng chất lượng truyền thông bằng hình ảnh trên chuyên trang media của báo Lao Động điện tử
- Quảng bá di sản văn hóa phi vật thể trên các kênh truyền thông số: Đặc trưng và những yêu cầu đặt ra
Xem nhiều
-
1
Quảng bá di sản văn hóa phi vật thể trên các kênh truyền thông số: Đặc trưng và những yêu cầu đặt ra
-
2
Thực trạng và một số giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý thông tin về sách giáo khoa trên báo mạng điện tử Việt Nam
-
3
Phát triển lực lượng sản xuất chất lượng mới ở Việt Nam hướng tới công nghiệp hóa, hiện đại hóa
-
4
Diễn ngôn truyền thông về “Vành đai, Con đường”: So sánh giữa Trung Quốc và Đông Nam Á
-
5
Thực trạng chất lượng truyền thông bằng hình ảnh trên chuyên trang media của báo Lao Động điện tử
-
6
Đầu tư cơ sở vật chất tại Học viện Báo chí và Tuyên truyền trong giai đoạn hiện nay
Liên kết
- Báo điện tử đảng cộng sản việt nam
- Báo nhân dân
- Báo Quân đội nhân dân
- Cổng thông tin điện tử Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Cổng thông tin điện tử Học viện Chính trị quốc gia hồ chí minh
- Tạp chí Cộng sản
- Tạp chí Giáo dục lý luận
- Tạp chí Giáo dục và Xã hội
- Tạp chí Khoa học xã hội và Nhân văn
- Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam
- Tạp chí Lý luận chính trị
- Tạp chí Nghiên cứu con người
- TẠP CHÍ Nghiên cứu dân tộc
- Tạp chí Người làm báo
- Tạp chí Nội chính
- Tạp chí Quản lý Nhà nước
- Tạp chí Tổ chức Nhà nước
- Tạp chí Tuyên giáo
- Tạp chí Xây Dựng Đảng
- Thư viện số Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Trang thông tin điện tử Hội đồng Lý luận Trung ương
Tổ chức sự kiện truyền thông chính sách - từ lý luận đến thực tiễn Việt Nam trong kỷ nguyên số
Trong bối cảnh kỷ nguyên số, truyền thông chính sách thông qua các sự kiện đóng vai trò thiết yếu trong việc xây dựng đồng thuận xã hội và nâng cao hiệu quả quản trị công tại Việt Nam. Bài báo nghiên cứu hoạt động tổ chức sự kiện truyền thông chính sách bằng phương pháp hệ thống hóa cơ sở lý luận, phân tích kinh nghiệm quốc tế tiêu biểu và soi chiếu vào thực tiễn Việt Nam. Kết quả nghiên cứu cho thấy, bên cạnh những thành tựu quan trọng trong việc ứng dụng công nghệ và mở rộng kênh đối thoại, tổ chức sự kiện vẫn còn đối mặt với các thách thức như tính hình thức, hạn chế về nguồn lực chuyên nghiệp và yếu kém trong khâu đo lường, đánh giá hiệu quả. Trên cơ sở đó, bài báo đề xuất các giải pháp toàn diện nhằm chuyên nghiệp hóa và nâng cao hiệu quả thực chất của hoạt động tổ chức sự kiện truyền thông chính sách, đáp ứng yêu cầu của một nền hành chính phục vụ trong kỷ nguyên số.
Thị trường xuất bản phẩm Việt Nam - Thực trạng và xu hướng
Thị trường xuất bản phẩm Việt Nam - Thực trạng và xu hướng
Trong bối cảnh toàn cầu hóa và chuyển đổi số, ngành xuất bản đứng trước nhiều biến động sâu sắc. Xu hướng dịch chuyển từ xuất bản phẩm in sang xuất bản phẩm điện tử, sự bùng nổ của thương mại điện tử cùng sự thay đổi hành vi tiêu dùng văn hóa của độc giả đã và đang định hình lại cấu trúc thị trường xuất bản phẩm. Điều này vừa mở ra cơ hội to lớn cho sự phát triển, vừa đặt ra thách thức không nhỏ về năng lực cạnh tranh, bảo hộ bản quyền, chất lượng nội dung và khả năng thích ứng công nghệ. Trên tinh thần đó, bài viết phân tích thực trạng và dự báo xu hướng phát triển thị trường xuất bản phẩm Việt Nam, góp phần hoạch định chính sách và chiến lược thị trường xuất bản phẩm trong bối cảnh mới.
Nhu cầu tiếp nhận thông tin báo chí của sinh viên hiện nay
Nhu cầu tiếp nhận thông tin báo chí của sinh viên hiện nay
Bài viết phân tích số liệu khảo sát đánh giá nhu cầu về nội dung tiếp nhận thông tin báo chí của sinh viên trong các lĩnh vực như giải trí; học tập - nghề nghiệp; thời sự - chính trị; kinh tế; khoa học - công nghệ; y tế - sức khỏe; nhu cầu tiếp cận thông tin của sinh viên qua các loại hình báo chí - truyền thông: báo in, báo mạng điện tử, phát thanh, truyền hình. Kết quả nghiên cứu giúp nắm bắt chính xác nhu cầu thông tin báo chí của sinh viên hiện nay; góp phần làm căn cứ để các cơ quan báo chí có thể điều chỉnh nội dung, hình thức phù hợp, đáp ứng nhu cầu của giới trẻ; góp phần hỗ trợ quá trình giáo dục, định hướng giá trị và phát triển nguồn nhân lực trẻ.
Một số lý thuyết vận dụng nghiên cứu nhu cầu tiếp nhận thông tin báo chí
Một số lý thuyết vận dụng nghiên cứu nhu cầu tiếp nhận thông tin báo chí
Bài viết tập trung phân tích những lý thuyết vận dụng trong nghiên cứu nhu cầu tiếp nhận thông tin báo chí, cụ thể là: Mô hình truyền thông tuyến tính; Mô hình truyền thông tương tác; Mô hình truyền thông luân chuyển; Lý thuyết nhu cầu của Abraham Maslow; Lý thuyết sử dụng và hài lòng. Các lý thuyết này đóng vai trò là kim chỉ nam, giúp người nghiên cứu nhu cầu tiếp nhận thông tin báo chí có thể định hướng phân tích, có cơ sở khoa học để xây dựng câu hỏi nghiên cứu, giả thuyết nghiên cứu, xây dựng mô hình nghiên cứu và công cụ đo lường, đưa ra giải pháp truyền thông phù hợp với nhu cầu thực tiễn của công chúng.
Thực trạng chất lượng truyền thông bằng hình ảnh trên chuyên trang media của báo Lao Động điện tử
Thực trạng chất lượng truyền thông bằng hình ảnh trên chuyên trang media của báo Lao Động điện tử
Trong giai đoạn phát triển của truyền thông báo chí, hình ảnh là một phương tiện thông tin thị giác, đóng góp nhiều tác dụng. Truyền thông hình ảnh góp phần làm thông tin trở nên sinh động, dễ tiếp cận và gia tăng sức lan tỏa tới công chúng. Hình ảnh không chỉ minh họa cho nội dung mà còn thể hiện phong cách và bản của mỗi cơ quan báo chí. Lao Động là một trong những tờ báo mạng điện tử đầu tiên có Trung tâm Truyền thông đa phương tiện và đưa chuyên trang Media lên vị trí chủ chốt, đặc biệt chú trọng đến truyền thông bằng hình ảnh. Việc nghiên cứu, đánh giá và đề xuất giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả truyền thông bằng hình ảnh trên chuyên trang Media của báo Lao Động điện tử là yêu cầu cấp thiết. Đây không chỉ là cơ sở để nâng cao chất lượng nội dung tác phẩm báo chí đa phương tiện, mà còn góp phần khẳng định vai trò, vị thế của báo Lao Động trong hệ thống báo chí cách mạng Việt Nam.
llcttt1994dientu@gmail.com
024.38348033
Bình luận