Học tập tư tưởng Hồ Chí Minh về bản chất và phương pháp tiếp cận dư luận xã hội
Đặt vấn đề
Việc nghiên cứu và giảng dạy về dư luận xã hội trở nên quan trọng và cần thiết bởi vì nó trực tiếp liên quan tới quan điểm và chính sách đổi mới toàn diện đời sống kinh tế chính trị xã hội do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo từ năm 1986 đến nay. Các phương châm lãnh đạo và hành động thực tiễn được dư luận xã hội ủng hộ sâu rộng, ví dụ như: “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”, “Nhà nước và nhân dân cùng làm”, “Đảng lãnh đạo, nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”. Đặc biệt khi “quy chế dân chủ cơ sở” đi vào cuộc sống thì vai trò của dư luận xã hội càng thể hiện rõ. Rất nhiều tấm gương điển hình đi đầu trong công tác xoá đói giảm nghèo và tăng trưởng kinh tế được dư luận xã hội ủng hộ nhiệt tình. Không ít các vụ sai trái ở các cấp, các ngành đã bị dư luận xã hội phản ứng quyết liệt. Nhưng bản chất dư luận xã hội là gì? cần nghiên cứu và định hướng dư luận xã hội như thế nào?
Dư luận là một hiện tượng xã hội gắn liền với đời sống của con người. Con người có tiếng nói là có phương tiện để bày tỏ suy nghĩ, tình cảm và chia sẻ ý kiến với nhau trong quá trình cùng sinh sống và lao động. Trong xã hội có sự phân chia giai cấp, dư luận xã hội là ý kiến của công chúng được nói công khai về những vấn đề công cộng. Do đó, về thực chất, dư luận xã hội phản ánh mong muốn, tâm tư, nguyện vọng của nhân dân. Quần chúng lao động sử dụng dư luận xã hội như là diễn đàn để nói lên ý kiến của mình nhằm ngợi ca những điều tốt đẹp và phê phán những thói hư, tật xấu của xã hội và nhất là nhằm bảo vệ quyền lợi của mình. Xét từ góc độ này, trong xã hội phân chia giai cấp, dư luận xã hội là ý kiến của quần chúng nhân dân mà không phải lúc nào giai cấp thống trị cũng muốn nghe và dám nghe. Điều này giải thích tại sao trong một thời kỳ rất dài của lịch sử loài người, dư luận xã hội vẫn thường xuyên tồn tại, nhưng không được tìm hiểu và nghiên cứu một cách khoa học.
Trên thế giới, mãi đến thời đại ánh sáng cùng với sự phát triển của kinh tế công nghiệp và cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật, thì hiện tượng dư luận xã hội mới được nghiên cứu một cách khoa học. Sự phát triển kinh tế thị trường đòi hỏi các nhà sản xuất kinh doanh phải quan tâm tìm hiểu dư luận xã hội của các nhóm người đặc biệt có tên gọi chung là nhóm khách hàng. Dư luận xã hội dưới góc độ kinh tế học được hiểu là thị hiếu của khách hàng. Chế độ dân chủ tư sản đòi hỏi các đối thủ cạnh tranh của các đảng phái chính trị phải tranh thủ dư luận xã hội và hành vi của các cử tri đối với những chính sách và chính sách cụ thể. Trước yêu cầu về mặt kinh tế và chính trị như vậy, các cuộc điều tra dư luận xã hội được thực hiện và không ngừng được cải tiến về phương pháp và kỹ thuật nghiên cứu. Đồng thời, các cách tiếp cận khoa học về dư luận xã hội trong chính trị học, kinh tế học, tâm lý học và xã hội học về dư luận xã hội cũng phát triển mạnh mẽ, nhất là ở những nước công nghiệp hàng đầu thế giới.
Tại Việt Nam, cùng với công cuộc đổi mới kinh tế - xã hội trong hai thập kỷ qua, các vấn đề của dư luận xã hội bắt đầu được đẩy mạnh nghiên cứu một cách khoa học, hệ thống. Các cơ sở nghiên cứu và đào tạo đã chú ý tìm hiểu nguồn gốc lịch sử, xã hội, văn hoá, tư tưởng của hiện tượng dư luận xã hội. Trong các trường đại học đang có các môn học về dư luận xã hội. Trong các viện nghiên cứu đang có các tập thể nhà khoa học thường xuyên thực hiện các đề tài thăm dò dư luận xã hội(1). Một số sách và tài liệu về dư luận xã hội đã được biên soạn để giảng dạy và tham khảo(2). Điều đặc biệt quan trọng là càng tiến hành các cuộc thăm dò dư luận xã hội nhiều bao nhiêu, các nhà nghiên cứu càng thấy cần thiết phải trở lại tìm hiểu những luận điểm gốc của tư tưởng Hồ Chí Minh về dư luận xã hội. Các nhà khoa học của thế kỷ XXI hiểu rất rõ rằng không thể tìm thấy một học thuyết có sẵn và đầy đủ về dư luận xã hội trong các tác phẩm kinh điển. Nhưng chắc chắn có thể tìm ra những ý tưởng khoa học sâu sắc bàn về bản chất, vị trí, vai trò và cơ chế hình thành dư luận xã hội trong các tác phẩm của Hồ Chí Minh. Điều cơ bản là cần học tập tinh thần phương pháp luận khoa học cách mạng trong tư tưởng Hồ Chí Minh về bản chất dư luận xã hội. Qua đó, có thể hiểu sâu sắc hơn tinh thần khoa học cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin để có thể vận dụng một cách sáng tạo vào việc nghiên cứu và định hướng dư luận xã hội nhằm phục vụ công cuộc bảo vệ và xây dựng xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Một số quan điểm cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về dư luận xã hội
Dư luận xã hội là một hiện tượng xã hội đặc biệt phản ánh nhận thức, quan niệm, ý kiến nhận xét, đánh giá, thái độ, tâm tư, nguyện vọng, tình cảm của các nhóm xã hội đối với những vấn đề nảy sinh trong cuộc sống của họ. Như thế có nghĩa là, dư luận xã hội luôn chứa đựng các yếu tố nhận thức, tình cảm và khả năng hành động của các nhóm xã hội nhất định. Để nhận thức và nhất là để có thể định hướng xã hội vào giải quyết những vấn đề đặt ra đối với sự nghiệp xây dựng một xã hội công bằng, dân chủ và văn minh, cần tích cực học tập nghiêm túc những quan điểm cơ bản của Hồ Chí Minh, như phân tích dưới đây:
Dư luận xã hội là nhận thức và quyết tâm làm cách mạng của đồng bào. Bản chất “tập thể ” với nghĩa là sự hiểu biết và sự quyết tâm hành động tập thể của dư luận xã hội đã được Hồ Chí Minh nhấn mạnh trong các tác phẩm quan trọng nhất của người. Ví dụ, trong tác phẩm “Đường cách mệnh”, Hồ Chí Minh đã nêu rõ ý nghĩa quan trọng có tính quyết định của sự đồng tâm nhất trí của nhiều người, của vô số người đối với sự nghiệp cách mạng. Người viết: “Việc gì khó mấy, quyết tâm làm thì làm chắc được, ít người làm không nổi, nhiều người đồng tâm hiệp lực mà làm thì phải nổi”. “Muốn đồng tâm hiệp lực, muốn bền gan thì trước ai ai cũng phải hiểu rõ vì sao mà phải làm, vì sao mà không làm không được, vì sao mà ai ai cũng phải gánh một vai”(3).
Định hướng dư luận xã hội có nghĩa là làm cho dân hiểu và quyết tâm làm cách mạng giành và giữ độc lập tự do cho dân tộc. Hồ Chí Minh chỉ rõ vì sao giai cấp thống trị cấm không cho dân học tập; đó là vì chúng sợ người dân hiểu biết sẽ đồng lòng nhất trí đứng lên đánh đổ chúng. Muốn làm cách mạng thì phải định hướng dư luận xã hội, tức là làm cho dân hiểu vì sao phải làm cách mạng và phương pháp làm cách mạng thế nào. Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trương phương pháp định hướng dư luận xã hội tuyên truyền, vận động để mọi người dân đều hiểu, tỉnh ngộ và đoàn kết làm cách mạng giành độc lập tự do cho dân tộc. Làm cách mạng có nghĩa là phải giảng giải lý luận và chủ nghĩa Mác Lênin cho dân hiểu. Khi trả lời câu hỏi vì sao phải viết cuốn Đường cách mệnh, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ghi rõ: “Sách này chỉ ao ước sao đồng bao xem rồi thì nghĩ lại, nghĩ rồi thì tỉnh dậy, tỉnh rồi thì đứng lên đoàn kết mà làm cách mệnh”(4).
Định hướng dư luận xã hội phải có đảng cách mạng của chủ nghĩa Mác Lênin. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ muốn làm cách mạng phải giành được sự ủng hộ thực sự bằng hành động cách mạng của quần chúng nhân dân. Muốn vậy phải vận động và tổ chức dân chúng. Đảng phải vững thì mới lãnh đạo cách mạng thành công. Muốn đảng vững chắc thì đảng phải có trí, tức là phải có lý luận của chủ nghĩa Mác Lênin. “Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mạng nhất là chủ nghĩa Lênin”(5).
Định hướng dư luận xã hội là tìm cách giải thích cho dân hiểu. Sau tác phẩm Đường cách mệnh (1927), hai mươi năm sau vào năm 1947 Bác Hồ viết tác phẩm nổi tiếng “Sửa đổi lối làm việc”. Trong tác phẩm vô cùng quan trọng này Bác Hồ căn dặn cán bộ phải sửa chữa các khuyết điểm khi làm việc với dân. Để tạo ra dư luận xã hội ủng hộ sự nghiệp cách mạng, Bác Hồ căn dặn cán bộ phải “tìm đủ cách giải thích cho dân hiểu” và không làm theo cách “hạ lệnh, cách cưỡng bức”(6). Vì sao? Bởi vì nếu dân không hiểu, dân oán.
Định hướng dư luận xã hội phải dựa vào niềm tin tuyệt đối vào dân. Bác phát hiện ra một chân lý và đòi hỏi cán bộ đảng viên phải luôn ghi nhớ khi làm việc với dân. Đó là chân lý: “dân rất tốt. Lúc họ đã hiểu thì việc gì khó khăn mấy họ cũng làm được, hy sinh mấy họ cũng không sợ”(7).
Định hướng dư luận xã hội phải phù hợp với quần chúng. Muốn hiểu tâm tư, nguyện vọng, suy nghĩ của người dân thì cán bộ đảng viên phải sát quần chúng, hợp quần chúng và sửa chữa căn bệnh hình thức, bệnh chủ quan. Bác Hồ chỉ rõ phương pháp nắm bắt dư luận xã hội của quần chúng là: phải chịu khó học hỏi xem “quần chúng cần cái gì, muốn nghe muốn biết cái gì, ham chuộng cái gì”. Vai trò của dư luận xã hội là rất quan trọng, rất cần thiết để có thể tổ chức có hiệu quả các hoạt động. Bác Hồ đã chỉ rõ: “Bất cứ việc to việc nhỏ, chúng ta phải xét rõ và làm cho hợp trình độ văn hoá, thói quen sinh hoạt, trình độ giác ngộ, kinh nghiêm tranh đấu, lòng ham, ý muốn, tình hình thiết thực của quần chúng. Do đó mà định cách làm việc, cách tổ chức. Có như thế mới có thể kéo được quần chúng”. Bác chỉ rõ một nguyên nhân cơ bản của sự yếu kém trong công tác đó là sự xa rời quần chúng: “nơi nào công việc kém là vì cán bộ xa dân chúng, không cùng dân chúng, bàn bạc, không giải thích”(8).
Dư luận xã hội gắn với tập trung dân chủ trong Đảng. Để cách mạng thành công, Đảng phải vững mạnh, cán bộ đảng viên phải biết rõ ưu điểm và khuyết điểm của bản thân để sữa chữa những khuyết điểm đó. Muốn vậy, người lãnh đạo Đảng và Chính phủ không những phải nắm bắt dư luận xã hội của quần chúng nhân dân, mà còn phải thường xuyên lắng nghe dư luận xã hội của cán bộ đảng viên. Cách tốt nhất không gì bằng là “khuyên cán bộ của mình mạnh bạo đề ra ý kiến và phê bình. Như thế không những không phạm đến uy tín của người lãnh đạo mà lại tỏ ra dân chủ thật thà trong Đảng”. Bác Hồ nêu rõ tai hại của sự tâng bốc mình, thế là một hiện tượng rất xấu. Vì không phải họ không có gì nói, nhưng vì họ không dám nói, họ sợ. Thế là mất hết dân chủ trong đảng. Thế là nội bộ của Đảng âm u, cán bộ trở nên những cái máy, trong lòng uất ức, không dám nói ra, do uất ức mà hoá ra oán ghét, chán nản. Như thế mà muốn cán bộ công tác cho giỏi thì sao được”. Như vậy có thể thấy Bác Hồ đặc biệt quan tâm đến dân chủ trong Đảng và coi việc cán bộ đảng viên phát biểu ý kiến, bày tỏ thái độ, góp ý kiến phê bình là một hiện tượng bình thường và rất cần thiết để nâng cao hoạt động của Đảng. Việc đè nén và tạo ra tâm lý “sợ không dám nói” sẽ gây tác hại to lớn như mất dân chủ, mất đoàn kết, oán ghét, chán nản, âm u.
Dựa vào tiêu chí “dám nói” hay “không dám nói”, một nhà xã hội học nổi tiếng người Đức tên là Newman đã đưa ra một định nghĩa rất độc đáo và chính xác về dư luận xã hội như sau:
“Những ý kiến được nói ra mà không sợ bị trừng phạt là dư luận xã hội”(9).
Quy trình tìm hiểu và định hướng dư luận xã hội
Tư tưởng Hồ Chí Minh chứa đựng những quan điểm cơ bản về quy trình tìm hiểu và định hướng dư luận xã hội. Lắng nghe dư luận xã hội của quần chúng nhân dân và của cán bộ đảng viên là vô cùng cần thiết. Nhưng chưa đủ, bởi vì có rất nhiều người và rất nhiều loại ý kiến. Do đó, cần tập trung ý kiến khác nhau, so sánh kỹ lưỡng, phân tích kỹ nội dung và ý kiến của các tầng lớp xã hội có các ý kiến đó, tìm ra những mâu thuẫn trong các ý kiến khác nhau, xem rõ cái nào đúng, cái nào sai. Chọn ý kiến đúng, đưa ra cho dân chúng bàn bạc, lựa chọn lại để nâng cao dần sự giác ngộ của dân chúng. “Thế gọi là: Tập trung ý kiến, ra sức thi hành”. Như vậy, theo tư tưởng Hồ Chí Minh, một quy trình tìm hiểu và định hướng dư luận xã hội bao gồm các yếu tố và những các bước sau đây:
1. Thu thập các loại ý kiến của các tầng lớp xã hội khác nhau về những vấn đề nhất định
2. So sánh kỹ, phân tích kỹ các nội dung của các loại ý kiến
3. Phát hiện ra mâu thuẫn trong các ý kiến
4. Phân biệt cái đúng và cái sai trong các ý kiến
5. Lựa chọn ý kiến đúng trong các ý kiến đã có
6. Đem ý kiến đúng đã được lựa chọn cho người dân bàn bạc so sánh và giải quyết vấn đề.
Các nhà nghiên cứu dư luận xã hội cũng sử dụng các bước thu thập và xử lý thông tin về dư luận xã hội. Nhưng một bước quan trọng mà các nhà khoa học có thể chưa làm được do nhiều lý do là “Đem ý kiến đúng đã được lựa chọn đến với người dân để họ so sánh, bàn bạc, lựa chọn lại”. Điều đó, có nghĩa là, nắm bắt được dư luận xã hội vẫn chưa đủ, đều cần thiết là phải làm cho dân giác ngộ và tham gia bày tỏ ý kiến, bàn bạc, lựa chọn, quyết định và thực hiện. Về điều này Bác Hồ căn dặn: “phải khéo tập trung ý kiến của quần chúng, hoá nó thành cái đường lối để lãnh đạo quần chúng. Phải đem cách nhân dân so sánh, xem xét, giải quyết các vấn đề, mà hoá nó thành cách chỉ đạo nhân dân”(10). Có đối xử một cách khoa học và khéo léo với dư luận xã hội như vậy mới có thể thực hiện được một trong những nguyên tắc lãnh đạo của Đảng là “tuyệt đối không nên theo đuôi quần chúng”.
Tóm lại, qua tìm hiểu hai trong nhiều tác phẩm quan trọng nhất của Chủ tịch Hồ Chí Minh chúng ta đã học tập được nhiều quan điểm cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về bản chất và phương pháp tiếp cận dư luận xã hội. Theo quan điểm của Hồ Chí Minh, dư luận xã hội bao gồm sự hiểu biết, thái độ và sự quyết tâm hành động của quần chúng nhân dân và cán bộ đảng viên nhằm xây dựng một đất nước độc lập, tự do, hạnh phúc. Định hướng dư luận xã hội đòi hỏi phải nâng cao nhận thức và tạo cơ chế dân chủ để quần chúng nhân dân và cán bộ đảng viên dám nói lên ý kiến của họ để Đảng và Chính phủ hiểu rõ ưu điểm và khuyết điểm. Cách thức thu thập, xử lý thông tin về dư luận xã hội phải tuân theo một quy trình khoa học có tính nghệ thuật “khéo léo”. Chân lý mà Bác Hồ phát hiện ra ở đây là: phải tuyệt đối tin tưởng vào dân.
Dư luận xã hội trở thành một thiết chế xã hội cơ bản đáp ứng nhu cầu chia sẻ thông tin, bày tỏ tình cảm, suy nghĩ và chuẩn bị sẵn sàng hành động của các cá nhân và các nhóm xã hội đối với những vấn đề nảy sinh trong cuộc sống. Càng tìm hiểu những vấn đề cụ thể của dư luận xã hội, ta càng cần phải ra sức tìm hiểu và học tập các quan điểm cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh để xây dựng cơ sở lý luận khoa học cách mạng cho nghiên cứu và giảng dạy về dư luận xã hội. Có như vậy, dư luận xã hội của các tầng lớp xã hội, các nhóm xã hội và các cán bộ đảng viên mới thực sự trở thành đối tượng và công cụ của lãnh đạo và quản lý xã hội nhằm mục tiêu phát triển lâu bền, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ văn minh, như Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu hằng mong ước./.
__________________________________
(1) Ví dụ, Trung tâm nghiên cứu dư luận xã hội, Ban Tư tưởng - Văn hoá Trung ương.
(2) Ví dụ, Nguyễn Đình Tấn (chủ biên) (2004), Giáo trình xã hội học trong quản lý Nxb. Lý luận Chính trị, Hà Nội.
(3), (4), (5) Hồ Chí Minh (1981), Toàn tập, Nxb. Sự thật, Hà Nội, “Đường cách mệnh” (1927). T.2, tr.80, tr.181, tr.189.
(6), (7), (8), Hồ Chí Minh (1981), Toàn tập, “Sửa đối lối làm việc” (1947), Nxb. Sự thật, Hà Nội, T.4, tr.459, tr.518.
(9) Xem Lê Ngọc Hùng, “Bản chất của dư luận xã hội: Một số vấn đề lý luận và phương pháp nghiên cứu”, Tạp chí Tâm lý học số 5.2003.
(10) Hồ Chí Minh (1981), Toàn tập, “Sửa đối lối làm việc” (1947), T.2, Nxb. Sự thật, Hà Nội, tr.520 - 521.
Nguồn: Bài đăng trên Tạp chí Báo chí và Tuyên truyền số tháng 6.2006
Bài liên quan
- Công tác dân tộc qua những bài học cụ thể của Chủ tịch Hồ Chí Minh từ ngày đầu thành lập nước
- Từ tư tưởng của Hồ Chí Minh "Học không bao giờ cùng..." đến nhiệm vụ nghiên cứu, học tập của giảng viên giảng dạy lý luận chính trị hiện nay
- Thực hành dân chủ và nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng theo Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh
- Bước phát triển về chuẩn mực “Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư”
- Tác phẩm của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tiếp cận từ góc độ học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh
Xem nhiều
- 1 Video Tư liệu: Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông 30 năm xây dựng và phát triển
- 2 Xu hướng hòa bình, hợp tác, phát triển trên thế giới và vai trò của Việt Nam hiện nay
- 3 Sử dụng công nghệ trí tuệ nhân tạo trong sản xuất chương trình truyền hình
- 4 Giữ gìn và bảo vệ giá trị văn hóa truyền thống các dân tộc ít người, góp phần củng cố, phát triển khối đại đoàn kết toàn dân tộc
- 5 Phát triển nguồn nhân lực ở tỉnh Bến Tre: Thực trạng và giải pháp
- 6 Sử dụng ChatGPT trong việc cải thiện kỹ năng viết cho sinh viên học tiếng Anh
Liên kết
- Báo điện tử đảng cộng sản việt nam
- Báo nhân dân
- Báo Quân đội nhân dân
- Cổng thông tin điện tử Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Cổng thông tin điện tử Học viện Chính trị quốc gia hồ chí minh
- Tạp chí Cộng sản
- Tạp chí Giáo dục lý luận
- Tạp chí Giáo dục và Xã hội
- Tạp chí Khoa học xã hội và Nhân văn
- Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam
- Tạp chí Lý luận chính trị
- Tạp chí Nghiên cứu con người
- TẠP CHÍ Nghiên cứu dân tộc
- Tạp chí Người làm báo
- Tạp chí Nội chính
- Tạp chí Quản lý Nhà nước
- Tạp chí Tổ chức Nhà nước
- Tạp chí Tuyên giáo
- Tạp chí Xây Dựng Đảng
- Thư viện số Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Trang thông tin điện tử Hội đồng Lý luận Trung ương
Xây dựng mô hình tự quản trong phương pháp quản lý lưu học sinh nước ngoài tại Học viện Báo chí và Tuyên truyền
Học viện Báo chí và Tuyên truyền là cơ sở đào tạo trong lĩnh vực báo chí, truyền thông và lý luận chính trị có uy tín trên cả nước. Bởi vậy, việc liên kết đào tạo về các lĩnh vực này không chỉ được thực hiện ở các đơn vị đào tạo trong nước mà còn được thực hiện cả ở sự liên kết đào tạo quốc tế. Hàng năm, Học viện đón tiếp một lượng lớn sinh viên quốc tế theo học ở các bậc cử nhân, cao học và nghiên cứu sinh. Do vậy, công tác quản lý sinh viên quốc tế là công tác quan trọng và có tính đặc thù. Công tác này để đạt hiệu quả tốt không chỉ thuộc về phương pháp và trách nhiệm của các đơn vị trong học viện mà còn phụ thuộc vào chính năng lực tự quản của các em. Tuy nhiên, để sự tự quản được thực hiện có chất lượng cần thực hiện trên nguyên tắc: Học viện định hướng – phòng Quản lý Ký túc xá xây dựng phương pháp và giám sát – lưu học sinh tự quản. Với nguyên tắc trên, phòng Quản lý ký túc xá đã thu được những thành công nhất định. Bài viết này trình bày những kinh nghiệm đã thu được trong qua trình xây dựng mô hình tự quản trong tập thể lưu học sinh nước ngoài tại học viện.
Công tác dân tộc qua những bài học cụ thể của Chủ tịch Hồ Chí Minh từ ngày đầu thành lập nước
Công tác dân tộc qua những bài học cụ thể của Chủ tịch Hồ Chí Minh từ ngày đầu thành lập nước
Ngay sau khi nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời vào ngày 2/9/1945, chính quyền cách mạng non trẻ của chúng ta đã phải đương đầu với nạn “thù trong, giặc ngoài”, ở cả 2 miền Nam, Bắc vấn đề về xung đột dân tộc trở thành tâm điểm có nguy cơ gây ảnh hưởng trực tiếp đến sự tồn vong của nhà nước cách mạng non trẻ. Với trí tuệ uyên bác, sự lãnh đạo thiên tài của Chủ tịch Hồ Chí Minh, các vấn đề tưởng chừng hết sức phức tạp ấy lại được Người khéo léo giải quyết thành công, đem lại bài học có giá trị cách mạng sâu sắc về công tác dân tộc cả trong quá khứ, hiện tại và tương lai.
Từ tư tưởng của Hồ Chí Minh "Học không bao giờ cùng..." đến nhiệm vụ nghiên cứu, học tập của giảng viên giảng dạy lý luận chính trị hiện nay
Từ tư tưởng của Hồ Chí Minh "Học không bao giờ cùng..." đến nhiệm vụ nghiên cứu, học tập của giảng viên giảng dạy lý luận chính trị hiện nay
Chủ tịch Hồ Chí Minh - lãnh tụ vĩ đại của Đảng và dân tộc Việt Nam, là anh hùng giải phóng dân tộc và nhà văn hóa kiệt xuất, Người đã để lại di sản quý báu về tư tưởng, đạo đức, phong cách cho Đảng và Nhân dân ta. Di sản Hồ Chí Minh bao quát rộng lớn các vấn đề của cách mạng Việt Nam, trong đó có tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục - đào tạo. Trong giới hạn của bài viết này, chúng tôi chỉ đề cập đến lời dạy của Người trong Thư gửi “Quân nhân học báo” tháng 4/1949: “Học không bao giờ cùng. Học mãi để tiến bộ mãi. Càng tiến bộ, càng thấy càng phải học thêm”(1) là vấn đề có ý nghĩa thời sự đối với việc nghiên cứu, học tập của cán bộ, đảng viên nói chung, giảng viên làm công tác giảng dạy lý luận chính trị nói riêng hiện nay.
Thực hành dân chủ và nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng theo Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh
Thực hành dân chủ và nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng theo Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh
Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh là một văn kiện lịch sử đặc biệt, có giá trị to lớn cả về lý luận và thực tiễn, hàm chứa nhiều nội dung sâu sắc về xây dựng Đảng cầm quyền, đặc biệt là vấn đề thực hành dân chủ và nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng. Trải qua 55 năm, di huấn của Người về vấn đề này vẫn còn nguyên giá trị lịch sử và thời đại.
Bước phát triển về chuẩn mực “Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư”
Bước phát triển về chuẩn mực “Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư”
Suy ngẫm tư tưởng Hồ Chí Minh về “Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư” và nghiên cứu Điều 3 Quy định số 144 để thấy được bước phát triển của Đảng về chuẩn mực đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên trong giai đoạn mới.
Bình luận