Khoa chủ quản, người hướng dẫn khoa học với việc thúc đẩy tiến độ, nâng cao chất lượng nghiên cứu khoa học sinh viên ở Học viện Báo chí và Tuyên truyền
1. Vai trò của nghiên cứu khoa học sinh viên trong trường đại học
Khi tham gia nghiên cứu khoa học, sinh viên sẽ tập làm quen với một đề tài nghiên cứu quy mô nhỏ, sẽ được tiếp cận với những vấn đề cụ thể, có ý thức đào sâu suy nghĩ, và tập cách tư duy để tự nghiên cứu giải quyết một vấn đề. Hoạt động nghiên cứu khoa học có ý nghĩa nhiều mặt đối với sinh viên.
Thứ nhất, nghiên cứu khoa học giúp sinh viên bổ sung, phát triển những kiến thức mà họ chưa được học trong chương trình chính khóa, lấp đầy những kiến thức về kinh tế, đời sống xã hội để làm giàu vốn sống cho bản thân. Trong quá đi khảo sát hay thực tế, các bạn sẽ phải vận dụng những kỹ năng ít khi dùng đến, qua đó bạn hiểu sâu hơn hơn về những điều còn bỏ ngỏ ở giảng đường hay những bài học trong sách.
Thứ hai, nghiên cứu khoa học giúp sinh viên đào sâu hơn những kiến thức được học. Nghiên cứu khoa học sẽ phát huy khả năng phân tích, đánh giá, liên tưởng, kết hợp với những điều mới để giải quyết những vấn đề đang quan tâm, thắc mắc… từ một vấn đề sẽ mở rộng ra nhiều vấn đề làm phong phú kiến thức cũng như vốn sống.
Thứ ba, nghiên cứu khoa học giúp sinh viên rèn luyện các kỹ năng quan trọng như: kỹ năng làm việc nhóm hiệu quả, ăn ý, kết hợp nhuần nhuyễn giữa các thành viên trong đội để hoàn thành mục tiêu nghiên cứu; kỹ năng độc lập phân tích, lập luận để khái quát nền tri thức mới; kỹ năng trình bày khoa học những điều mới mẻ được phát hiện; kỹ năng xây dựng kế hoạch; kỹ năng quản lý thời gian…
Thứ tư, nghiên cứu khoa học giúp sinh viên rèn luyện khả năng thực hiện tốt các nghiên cứu ở chuyên đề tốt nghiệp, khóa luận tốt nghiệp. Đồng thời giúp sinh viên dễ dàng hoàn thành những nhiệm vụ học tập cao hơn ở bậc sau đại học.
Thứ năm, nghiên cứu khoa học giúp sinh viên tăng cường kỹ năng giải quyết những nhiệm vụ mới khi sinh viên ra trường, đi làm việc.
Sinh viên cần phải nhận thức được vai trò thiết thực của hoạt động nghiên cứu khoa học. Từ đó, có ý thức tự giác, nghiêm túc và kiên trì theo đuổi thực hiện thành công đề tài nghiên cứu mà mình đã lựa chọn
2. Động lực nghiên cứu khoa học trong sinh viên Học viện Báo chí và Tuyên truyền
Để có cơ sở đưa ra những định hướng về vai trò của khoa và giảng viên hướng dẫn với sinh viên nghiên cứu khoa học, nghiên cứu đã tiến hành khảo sát với hơn 102 sinh viên Học viện Báo chí và Tuyên truyền qua ứng dụng Google Form, 59% là sinh viên năm thứ ba, 26% sinh viên năm thứ hai và 15% sinh viên năm thứ nhất, số còn lại là sinh viên năm thứ tư, khảo sát đã cho thấy một số khía cạnh sau:
Thứ nhất, đa số sinh viên đánh giá cao tầm quan trọng của nghiên cứu khoa học. Có 86% số ý kiến sinh viên đánh giá nghiên cứu khoa học đóng vai trò quan trọng và rất quan trọng trong quá trình học tập rèn luyện. Kết quả đó cho thấy sinh viên đã có cái nhìn đúng đắn về tầm quan trọng của lĩnh vực này. Trong đó, có 72% sinh viên được hỏi cho rằng, hoạt động nghiên cứu khoa học có ý nghĩa lớn trong phát triển kỹ năng phát hiện vấn đề mới, kỹ năng nghiên cứu; 62% ý kiến cho rằng hoạt động nghiên cứu khoa học giúp sinh viên phát triển kỹ năng làm việc nhóm, kỹ năng phân tích tổng hợp, trình bày khoa học một nhiệm vụ, kỹ năng giao tiếp…
Thứ hai, về mong muốn được tham gia nghiên cứu khoa học, có 68% sinh viên được hỏi trả lời rất mong muốn và rất mong muốn được tham gia các chương trình nghiên cứu khoa học sinh viên.
Thứ ba, đánh giá về khó khăn của sinh viên trong nghiên cứu khoa học. 50% sinh viên gặp khó khăn trong chọn đề tài nghiên cứu; 71% sinh viên gặp khó khăn trong tìm kiếm tài liệu, số liệu; 82% sinh viên gặp khó khăn phân tích, tổng hợp số liệu, thông tin để rút ra kết luận khoa học; 60% sinh viên khó khăn trong viết báo cáo kết quả nghiên cứu. Đây là cơ sở quan trọng để khoa chủ quản và Học viện giúp sinh viên nghiên cứu khoa học tốt nhất.
Thứ tư, về mong muốn của sinh viên trong nghiên cứu khoa học. 83% sinh viên mong muốn được nắm rõ thông tin về kế hoạch nghiên cứu khoa học của khoa và Học viện. 88% ý kiến mong muốn được khoa chủ quản và giáo viên hướng dẫn tư vấn để lựa chọn đề tài ý nghĩa và vừa sức với sinh viên. 89% sinh viên mong muốn được giáo viên hướng dẫn trực tiếp hỗ trợ xây dựng kế hoạch nghiên cứu cá nhân và đôn đốc thực hiện kế hoạch nghiên cứu cá nhân. 92% sinh viên mong muốn được tập huấn phương pháp nghiên cứu trước khi kế hoạch nghiên cứu cá nhân bắt đầu.
Kết quả khảo sát cho thấy, sinh viên năm thứ hai và ba là nhóm đối tượng quan tâm tới nghiên cứu khoa học nhiều, họ cũng là đối tượng đã có độ chín về năng lực và dành được nhiều thời gian hơn cho nghiên cứu khoa học. Hầu hết sinh viên Học viện Báo chí và Tuyên truyền đã đánh giá đúng về tầm quan trọng của nghiên cứu khoa học và có nguyện vọng được nghiên cứu khoa học trong quá trình học tập tại nhà trường, với mục tiêu rõ ràng. Tuy nhiên hoạt động nghiên cứu khoa học của các em còn gặp nhiều khó khăn, các em mong muốn được Học viện, khoa và giảng viên hướng dẫn khoa học hỗ trợ trong quá trình nghiên cứu khoa học.
3. Vai trò của khoa chủ quản hoạt động trong nghiên cứu khoa học sinh viên
Trong hoạt động nghiên cứu khoa học của Học viện Báo chí và Tuyên truyền, khoa chủ quản là cấp trực tiếp quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học sinh viên toàn khoa. Lãnh đạo khoa, Hội đồng khoa học khoa có vai trò to lớn trong việc đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu khoa học trong sinh viên các khoa.
Trước hết, khoa chủ quản trực tiếp xây dựng kế hoạch nghiên cứu khoa học sinh viên theo từng khóa và từng năm. Trên cơ sở chương trình kế hoạch nghiên cứu khoa học chung của toàn Học viện, khoa xây dựng kế hoạch nghiên cứu khoa học năm cho sinh viên. Làm rõ mục tiêu nghiên cứu khoa học tương ứng với nhiệm vụ chính trị mà khoa được giao phó. Đưa ra những gợi ý về các vấn đề thực tiễn đang cần được luận giải khoa học và làm rõ góc tiếp cận chuyên môn của khoa trong nghiên cứu vấn đề thực tiễn đó, để định hướng cho hoạt động nghiên cứu khoa học trong toàn thể sinh viên. Kế hoạch nghiên cứu khoa học của khoa là cơ sở để các lớp và mỗi sinh viên có thể lên kế hoạch nghiên cứu cho riêng mình.
Thứ hai, Hội đồng khoa học khoa chủ quản có vai trò cùng với giáo viên hướng dẫn lựa chọn đề tài có ý nghĩa lý luận và thực tiễn nhưng phải phù hợp, vừa sức với năng lực nghiên cứu của sinh viên.
Thứ ba, Hội đồng khoa học của khoa chủ quản có vai trò tư vấn cho lãnh đạo khoa về việc phân công giảng viên hướng dẫn phù hợp với lĩnh vực nghiên cứu mà đề tài đang theo đuổi. Để giảng viên hướng dẫn và sinh viên tự tin, phát huy tốt nhất năng lực sở trường của họ nhằm hoàn thành nhiệm vụ nghiên cứu khoa học được giao.
Thứ tư, khoa có vai trò tham mưu cho nhà trường về hoạt động nghiên cứu khoa học sinh viên. Quá trình hoạt động hỗ trợ sinh viên nghiên cứu khoa học ở mỗi khoa có đặc thù riêng và đều hướng tới mục tiêu nghiên cứu khoa học chung của toàn trường. Những thuận lợi, khó khăn và những kiến nghị từ khoa có ý nghĩa to lớn với việc điều chỉnh mục tiêu, kế hoạch, phương pháp, công cụ, phương tiện để hỗ trợ sinh viên nghiên cứu khoa học đạt hiệu quả cao nhất.
4. Vai trò của giảng viên hướng dẫn trong nghiên cứu khoa học sinh viên
Giảng viên hướng dẫn là người trực tiếp làm việc cùng sinh viên, là người đóng vai trò hỗ trợ lớn nhất để sinh viên hoàn thành nhiệm vụ nghiên cứu khoa học. Những vai trò cơ bản bao gồm:
Một là, tạo động lực, truyền cảm hứng nghiên cứu khoa học cho sinh viên. Giảng viên đóng vai trò người truyền cảm hứng cho sinh viên nghiên cứu khoa học bằng nhiều cách khác nhau. Trước hết, người hướng dẫn cần nuôi dưỡng đam mê nghiên cứu, những thành quả nghiên cứu của thầy được công bố là động lực để học trò bước theo dấu chân thầy. Cùng với đó, người hướng dẫn là người biết lắng nghe, thấu hiểu để phát hiện ra những điểm mạnh, những khát khao và cả những khó khăn, vướng mắc mà sinh viên đang gặp phải trong hành trình nghiên cứu của mình. Hơn nữa, để truyền cảm hứng nghiên cứu, giảng viên hướng dẫn cần thể hiện sự sẵn sàng sẻ chia, tận tâm, đồng hành cùng sinh viên trong suốt quá trình thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu. Không chỉ thế, người hướng dẫn vừa là thầy, vừa là bạn, vừa là nhà quản lý, người hướng dẫn luôn cần có sự nghiêm khắc để giúp sinh viên ý thức được tầm quan trọng và thực sự nghiêm túc hoàn thành nhiệm vụ nghiên cứu của mình. Động lực sẽ lớn nhất khi chính thầy giáo là người trao truyền kiến thức, phương pháp và kể cả cách ứng xử với khoa học và cuộc sống cho học trò được mình hướng dẫn.
Hai là, hướng dẫn sinh viên lựa chọn đề tài. Lựa chọn đề tài nghiên cứu luôn được đánh giá là vấn đề khó khăn với sinh viên. Sinh viên chưa nhiều kinh nghiệm nghiên cứu, nên cần có sự hỗ trợ của giáo viên trong bước này. Đề tài nghiên cứu khoa học có thể đến từ nhiều nguồn, sinh viên có thể phát hiện ra đề tài ngay từ như đời sống thường nhật, bài giảng của giảng viên, bài báo khoa học,… và đáp ứng được nhu cầu tìm hiểu cũng như khả năng của người viết. Một đề tài khoa học tốt là đề tài đáp ứng được một số yêu cầu sau: tính khoa học, tính mới, tính khả thi và tính ứng dụng.
Ba là, hướng dẫn sinh viên lập kế hoạch nghiên cứu. Giảng viên hướng dẫn giúp sinh viên lập kế hoạch hoàn thành nghiên cứu. Nội dung kế hoạch thể hiện rõ thứ tự công việc cần làm, nội dung công việc cần làm, thời gian hoàn thành công việc, người thực hiện và người phối hợp để thực hiện nhiệm vụ trong từng giai đoạn.
Bốn là, hướng dẫn sinh viên tìm kiếm, tập hợp tài liệu, số liệu. Hầu hết sinh viên lên mạng tìm kiếm tài liệu. Những tài liệu không rõ nguồn gốc, không đảm bảo chất lượng. Tính mới trong nghiên cứu cần được phát triển trên nền những lý luận đã được tổng kết bởi những nghiên cứu khoa học chân chính. Tập hợp phân loại tài liệu, số liệu sơ bộ cần được tiến hành ngay khi sinh viên lựa chọn vấn đề nghiên cứu. Nó có ý nghĩa lớn với việc nghiên cứu có thể hoàn thành đúng tiến độ và chất lượng tốt. Với số liệu thứ cấp, được tổng hợp và báo cáo bởi các cơ quan chức năng, sinh viên cần có kỹ năng giao tiếp để tiếp cận được nguồn số liệu này. Nhà trường cũng có thể xem xét cấp giấy giới thiệu để sinh viên đi lấy số liệu dễ dàng.
Năm là, hướng dẫn sinh viên xử lý số liệu. Sinh viên năm thứ ba, thứ tư có thể được học cách xử lý số liệu qua các môn học nghiên cứu khoa học. Sinh viên năm thứ nhất, thứ hai, chưa được học các môn khoa học này nên cần được giảng viên hướng dẫn hỗ trợ, hướng dẫn kỹ càng trong việc xử lý số liệu, phân tích số. Khả năng tổng hợp tri thức, rút ra kết luận, tìm ra tri thức mới của sinh viên còn hạn chế, những kết luận chỉ có thể có giá trị khoa học lớn khi những phát hiện mới mẻ của sinh viên được định hướng chọn lọc dưới nhãn quan kinh nghiệm nghiên cứu của giảng viên.
Sáu là, hướng dẫn sinh viên viết báo cáo kết quả nghiên cứu. Báo cáo kết quả nghiên cứu là việc công bố kết quả nghiên cứu với cơ quan quản lý, với giới khoa học và những người các nhà quan tâm trong xã hội. Vậy nhất định bản báo cáo phải đảm bảo được cả tính khoa học và tính đại chúng. Quy định về trình bày báo cáo đã được Ban khoa học chuẩn bị văn bản rõ ràng, sinh viên có thể dựa vào đó để viết. Giảng viên hướng dẫn giúp các em xác định rõ vai trò của báo cáo, thực sự nghiêm túc khoa học trong cả nội dung và hình thức trình bày. Giảng viên hướng dẫn cần đầu tư nhiều hơn vào giúp các em hình thành logic tổng thể, để sản phẩm nghiên cứu như một bức tranh khoa học sáng rõ.
Bảy là, kiểm tra, đôn đốc, hỗ trợ sinh viên hoàn thành nhiệm vụ nghiên cứu đúng kế hoạch được giao. Mục đích tốt, phương pháp rất tốt, nhưng thiếu đi sự kiểm tra, đôn đốc, hỗ trợ thường xuyên của giảng viên hướng dẫn là nguyên nhân chính dẫn đến chậm tiến độ và chất lượng nghiên cứu không đảm bảo. Kiểm tra, đôn đốc trên cơ sở kế hoạch do chính sinh viên xây dựng. Từng bước trong kế hoạch được hoàn thành tất yếu tiến độ nghiên cứu sẽ đảm bảo và chất lượng sẽ tốt hơn. Khắc phục triệt để thực trạng “nước đến chân mới nhảy”, chỉ trước hạn nộp sản phẩm một tháng sinh với mới bắt tay vào làm.
Tám là, là người phản biện đầu tiên cho mọi kết luận khoa học của sinh viên mình hướng dẫn. Giảng viên hướng dẫn cần đóng vai trò người “ác” trong các vấn đề sinh viên đặt ra. Giúp sinh viên lật đi lật lại vấn đề thông qua những ý kiến phản biện để kết luận khoa học được rút ra thực sự chất lượng. Bất kỳ vấn đề khó khăn nào, giáo viên sẵn sàng trao đổi, phản biện, cùng tìm ra hướng giải quyết.
Khoa chủ quản và đặc biệt là giảng viên hướng dẫn đóng vai trò to lớn trong đảm bảo tiến độ và chất lượng nghiên cứu khoa học sinh viên. Lãnh đạo Khoa và giảng viên hướng dẫn cần thực hiện tất cả những vai trò trên với một sự tận tâm thì tất yếu chất lượng của nghiên cứu khoa học sinh viên sẽ cải thiện./.
Nguồn: Bài đăng trên Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông tháng 4.2021
Bài liên quan
- Kinh nghiệm giảng dạy từ đồng nghĩa trong giờ đọc – hiểu tiếng Việt cho sinh viên nước ngoài tại Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Lễ Khai giảng các lớp Cao học và Nghiên cứu sinh khóa 31 đợt 1 năm 2025
- Phiên họp lần thứ 35 của Hội đồng Kiểm định chất lượng giáo dục
- Nâng cao chất lượng giáo dục lý luận chính trị ở các trường đại học trong bối cảnh chuyển đổi số
- Truyền thông xây dựng thương hiệu chương trình liên kết đào tạo quốc tế tại Việt Nam
Xem nhiều
-
1
Truyền thông hình ảnh về Tổng Bí thư Tô Lâm trên báo Nhân Dân điện tử
-
2
Hoạt động báo chí trong quá trình định hình Võ Nguyên Giáp như một nhà chỉ huy quân sự: tiếp cận từ lý thuyết trường của Pierre Bourdieu
-
3
Tích hợp giảng dạy AI trong đào tạo báo chí, truyền thông: Tiếp cận từ đặc điểm người học
-
4
Quản lý đối với hội ở Việt Nam: Khung pháp lý và yếu tố tác động đến hoạt động của hội
-
5
Nâng cao năng lực tư duy phản biện và đạo đức nghề nghiệp cho cán bộ báo chí - truyền thông trong bối cảnh thông tin hiện nay
-
6
Ứng dụng truyền thông số trong hoạt động công tác xã hội tại bệnh viện: Thực trạng và xu hướng
Liên kết
- Báo điện tử đảng cộng sản việt nam
- Báo nhân dân
- Báo Quân đội nhân dân
- Cổng thông tin điện tử Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Cổng thông tin điện tử Học viện Chính trị quốc gia hồ chí minh
- Tạp chí Cộng sản
- Tạp chí Giáo dục lý luận
- Tạp chí Giáo dục và Xã hội
- Tạp chí Khoa học xã hội và Nhân văn
- Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam
- Tạp chí Lý luận chính trị
- Tạp chí Nghiên cứu con người
- TẠP CHÍ Nghiên cứu dân tộc
- Tạp chí Người làm báo
- Tạp chí Nội chính
- Tạp chí Quản lý Nhà nước
- Tạp chí Tổ chức Nhà nước
- Tạp chí Tuyên giáo
- Tạp chí Xây Dựng Đảng
- Thư viện số Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Trang thông tin điện tử Hội đồng Lý luận Trung ương
Báo chí đa nền tảng và những yêu cầu về đào tạo báo chí truyền thông trong bối cảnh chuyển đổi số
Báo chí đa nền tảng (Multi platform journalism) đã trở thành xu hướng tất yếu trên thế giới và tại Việt Nam những năm gần đây. Tại Việt Nam, sau khi Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chiến lược chuyển đổi số báo chí đến năm 2025, định hướng đến năm 2030 với mục tiêu 70% cơ quan báo chí đưa nội dung lên các nền tảng số vào năm 2025 và 100% vào năm 2030, báo chí đa nền tảng càng được các tòa soạn đầu tư phát triển, tập trung vào ba nền tảng chính: nền tảng xã hội (social), nền tảng di động (mobile), nền tảng web. Bài viết sẽ đi sâu vào nghiên cứu về sự phát triển của xu hướng báo chí đa nền tảng ở Việt Nam hiện nay, những vấn đề đặt ra ở góc độ nguồn nhân lực, từ đó, đề xuất một số giải pháp về đào tạo nguồn nhân lực báo chí truyền thông đáp ứng nhu cầu phát triển báo chí đa nền tảng tại Việt Nam.
Kinh nghiệm giảng dạy từ đồng nghĩa trong giờ đọc – hiểu tiếng Việt cho sinh viên nước ngoài tại Học viện Báo chí và Tuyên truyền
Kinh nghiệm giảng dạy từ đồng nghĩa trong giờ đọc – hiểu tiếng Việt cho sinh viên nước ngoài tại Học viện Báo chí và Tuyên truyền
Giờ đọc hiểu là một loại giờ dạy đặc thù trong môn học ngoại ngữ. Để người học hiểu được bài đọc, người dạy cần giúp sinh viên hiểu từ mới (từ mới từ góc độ người học). Việc xuất hiện các từ đồng nghĩa trong bài đọc hoặc trong sự liên hệ của người học là một tất yếu; nó yêu cầu người dạy đưa ra cách giải thích nghĩa của từ sao cho sinh viên dễ hiểu. từ kinh nghiệm giảng dạy, người viết đã sử dụng nhiều cách, trong đó có bốn cách cơ bản sau đây: giải nghĩa loạt từ đồng nghĩa bằng cách xác lập các dãy đồng nghĩa con (nhỏ); cụ thể hóa nghĩa của các từ thông qua hình ảnh, âm thanh; so sánh với từ trái nghĩa; đặt câu. Việc giải thích nghĩa của từ bằng các cách thức trên được dựa trên các nguyên tắc sau: đơn giản hóa việc kiến giải nghĩa từ; cụ thể hóa nghĩa của các từ đồng nghĩa; sử dụng sự so sánh, đối chiếu để người học dễ nhớ.
Lễ Khai giảng các lớp Cao học và Nghiên cứu sinh khóa 31 đợt 1 năm 2025
Lễ Khai giảng các lớp Cao học và Nghiên cứu sinh khóa 31 đợt 1 năm 2025
Sáng 28/6/2025, Học viện Báo chí và Tuyên truyền long trọng tổ chức Lễ Khai giảng các lớp Cao học và Nghiên cứu sinh khóa 31 đợt 1 năm 2025. Lễ Khai giảng diễn ra trực tiếp tại Hội trường C và trực tuyến trên phần mềm Microsoft Teams.
Phiên họp lần thứ 35 của Hội đồng Kiểm định chất lượng giáo dục
Phiên họp lần thứ 35 của Hội đồng Kiểm định chất lượng giáo dục
Ngày 24/6/2025, Trung tâm Kiểm định chất lượng giáo dục, Đại học Quốc gia Hà Nội đã tổ chức Phiên họp lần thứ 35 Hội đồng Kiểm định chất lượng giáo dục để thẩm định kết quả đánh giá chất lượng giáo dục các chương trình đào tạo (CTĐT) và cơ sở giáo dục (CSGD) đã hoàn thành quy trình đánh giá ngoài. Các cơ sở giáo dục được Hội đồng tổ chức thẩm định kết quả đánh giá chất lượng tại Phiên họp gồm: Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, Học viện Báo chí và Tuyên truyền, Đại học Phenikaa. Phiên họp được tổ chức bằng hình thức trực tiếp kết hợp trực tuyến.
Nâng cao chất lượng giáo dục lý luận chính trị ở các trường đại học trong bối cảnh chuyển đổi số
Nâng cao chất lượng giáo dục lý luận chính trị ở các trường đại học trong bối cảnh chuyển đổi số
Chuyển đổi số đang diễn ra mạnh mẽ, đặt ra yêu cầu cấp thiết đối với việc nâng cao hiệu quả giảng dạy lý luận chính trị ở các trường đại học. Nội dung, phương pháp và hình thức dạy học cần được đổi mới để phát huy tư duy độc lập và khả năng vận dụng lý luận vào thực tiễn của sinh viên. Bài viết phân tích vai trò, cơ hội, thách thức và đề xuất các giải pháp trọng tâm để nâng cao chất lượng giảng dạy lý luận chính trị, đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục trong bối cảnh chuyển đổi số.
Bình luận