Nâng cao chất lượng hoạt động biên tập tài liệu giáo dục địa phương tại Việt Nam trong thời gian tới
1. Đặt vấn đề
Nội dung giáo dục địa phương (GDĐP) là một cấu phần quan trọng trong Chương trình giáo dục phổ thông 2018 (GDPT 2018). Theo quy định, nội dung GDĐP được xác định là một trong những môn học/ nội dung giáo dục bắt buộc, được triển khai xuyên suốt từ lớp 1 đến lớp 12. Ở cấp Tiểu học, GDĐP được tích hợp vào các môn học và hoạt động giáo dục phù hợp, đặc biệt là Hoạt động trải nghiệm. Ở cấp Trung học cơ sở, nội dung này được bố trí với thời lượng 35 tiết/năm học, tương đương với nhiều môn học khác như Giáo dục công dân, Tin học, Công nghệ. Tại cấp Trung học phổ thông, thời lượng dành cho GDĐP tiếp tục duy trì ở mức 35 tiết/năm học, tương đương với môn Giáo dục quốc phòng và an ninh(2). Điều này cho thấy, nội dung GDĐP giữ vai trò thiết yếu trong việc hiện thực hóa mục tiêu phát triển phẩm chất và năng lực học sinh.
Với vai trò quan trọng đó, GDĐP góp phần tạo cầu nối giữa học sinh, nhà trường và lịch sử, văn hoá truyền thống, điều kiện kinh tế - xã hội nơi các em sinh sống, thông qua các nội dung giáo dục chủ đạo như “những vấn đề cơ bản hoặc thời sự về văn hoá, lịch sử, địa lí, kinh tế, xã hội, môi trường, hướng nghiệp,... của địa phương”(3). Qua việc tăng cường hiểu biết về địa phương, GDĐP giúp học sinh phát triển tình yêu quê hương, ý thức trách nhiệm bảo vệ, gìn giữ và giải quyết những vấn đề của địa phương.
Thời gian qua, 63 tỉnh, thành phố (trước sáp nhập) trên cả nước đã triển khai hoạt động biên soạn và xuất bản tài liệu GDĐP. Các bộ tài liệu này, đều được Bộ GD&ĐT phê duyệt và đưa vào sử dụng trong các cơ sở giáo dục phổ thông, đáp ứng yêu cầu triển khai Chương trình GDPT 2018 theo đúng tiến độ. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, chất lượng biên tập tài liệu GDĐP giữa các địa phương vẫn còn có sự chênh lệch đáng kể, thể hiện ở độ sâu của nội dung, tính khoa học, sư phạm và tính cập nhật của thông tin. Điều này đặt ra yêu cầu cần thiết phải tiếp tục nâng cao chất lượng hoạt động biên tập nhằm bảo đảm tính thống nhất và hiệu quả trong triển khai nội dung GDĐP ở các địa phương.
Trong thời gian tới, với việc triển khai chủ trương sắp xếp đơn vị hành chính cấp tỉnh và tổ chức lại hoạt động của chính quyền địa phương theo mô hình hai cấp(4), tài liệu GDĐP đứng trước yêu cầu điều chỉnh và tái cấu trúc. Cụ thể, tại các địa phương không thực hiện sáp nhập, tài liệu GDĐP cần được rà soát, chỉnh sửa để cập nhật và hoàn thiện nội dung; trong khi đó, đối với các địa phương mới hình thành sau sáp nhập, cần tiến hành biên soạn, xuất bản tài liệu GDĐP hoàn toàn mới, phản ánh đầy đủ đặc điểm địa lí - lịch sử - văn hóa - xã hội của đơn vị hành chính mới. Thực tiễn này đặt ra yêu cầu cấp thiết đối với công tác biên tập tài liệu GDĐP, nhằm bảo đảm cả về chất lượng nội dung lẫn tiến độ triển khai, từ đó đáp ứng yêu cầu tổ chức dạy học nội dung GDĐP trong năm học sắp tới tại các cơ sở giáo dục phổ thông trên toàn quốc.
Trên cơ sở phân tích thực trạng và những yêu cầu đặt ra trong bối cảnh mới của đất nước, bài viết đề xuất một số định hướng và giải pháp nhằm nâng cao chất lượng hoạt động biên tập tài liệu GDĐP thời gian tới.
2. Thực trạng hoạt động biên tập tài liệu giáo dục địa phương tại Việt Nam
2.1. Một số kết quả đạt được của hoạt động biên tập tài liệu giáo dục địa phương tại Việt Nam trong thời gian qua
Thứ nhất, hoạt động biên tập đã góp phần đảm bảo tiến độ triển khai Chương trình giáo dục phổ thông 2018.
Khác với sách giáo khoa, tài liệu GDĐP là sản phẩm do các địa phương chủ trì biên soạn và thẩm định, báo cáo Bộ Giáo dục và Đào tạo (GD&ĐT) phê duyệt. Trong giai đoạn đầu, phần lớn các địa phương còn bỡ ngỡ trong việc tổ chức bản thảo, xây dựng nội dung, biên tập và thẩm định, do chưa có nhiều kinh nghiệm trong quy trình xuất bản nói chung và xuất bản tài liệu GDĐP nói riêng. Tuy nhiên, khó khăn này từng bước được tháo gỡ nhờ sự phối hợp tích cực từ các đơn vị xuất bản, đặc biệt là Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam - đơn vị đã tham gia hỗ trợ hơn 90% tỉnh, thành phố trong cả nước. Sự hỗ trợ này góp phần quan trọng giúp tài liệu GDĐP được hoàn thiện đúng tiến độ triển khai Chương trình GDPT 2018. Tính đến năm học 2024 - 2025, toàn bộ nội dung GDĐP đã được tổ chức dạy học với tài liệu GDĐP đầy đủ cho các lớp 5, 9 và 12. Việc đảm bảo đúng tiến độ theo yêu cầu của chương trình mới, tạo điều kiện cho các nhà trường chủ động xây dựng kế hoạch giáo dục phù hợp với bối cảnh địa phương.
Thứ hai, hoạt động biên tập góp phần nâng cao chất lượng tài liệu GDĐP.
Đội ngũ biên tập viên tại các đơn vị xuất bản sách giáo dục phần lớn đã được tập huấn, nâng cao hiểu biết về Chương trình GDPT 2018, nắm vững phương pháp xây dựng bài học theo định hướng phát triển phẩm chất, năng lực học sinh, đồng thời tích lũy kinh nghiệm chuyên môn trong công tác biên tập tài liệu giáo dục. Không chỉ truyền đạt các yêu cầu chuyên môn và kĩ thuật đến đội ngũ tác giả địa phương, các biên tập viên còn trực tiếp tham gia quá trình rà soát, chỉnh lí bản thảo đảm bảo tính chính xác về nội dung, logic về cấu trúc, sự phù hợp về mặt sư phạm và đặc điểm tâm sinh lí lứa tuổi học sinh.
Nhờ vậy, phần lớn các tài liệu GDĐP trình Bộ GD&ĐT đều đạt mức độ hoàn thiện cao, hạn chế tối đa lỗi chính tả, diễn đạt và trình bày, từ đó rút ngắn đáng kể thời gian phê duyệt. Đặc biệt, hoạt động biên tập bài bản đã góp phần tạo nên sự thống nhất tương đối về chất lượng và cấu trúc tài liệu GDĐP giữa các tỉnh, thành phố, mặc dù mỗi địa phương có đặc điểm riêng. Điều này giúp giáo viên thuận lợi hơn trong việc triển khai giảng dạy, không bị gián đoạn hay lúng túng khi tiếp cận tài liệu, qua đó nâng cao hiệu quả thực thi chương trình.
Thứ ba, một số đơn vị xuất bản đã xây dựng được quy trình biên tập - xuất bản bài bản.
Nội dung GDĐP lần đầu được đưa vào Chương trình GDPT 2006, tuy nhiên chỉ đến Chương trình GDPT 2018, GDĐP mới trở thành một nội dung giáo dục bắt buộc với yêu cầu rõ ràng, hệ thống và có tính phân hóa theo từng cấp học. Những thay đổi mang tính đột phá này đặt ra các yêu cầu hoàn toàn mới đối với tài liệu GDĐP, từ nội dung, phương pháp tiếp cận, đến quy trình biên soạn, biên tập và xuất bản.
Trước bối cảnh đó, một số đơn vị xuất bản giáo dục đã chủ động xây dựng được quy trình biên tập - xuất bản riêng biệt dành cho tài liệu GDĐP, phù hợp với đặc thù của từng địa phương nhưng vẫn đảm bảo tính sư phạm và thống nhất chương trình như Công ty Cổ phần Đầu tư và Phát triển Trường phổ thông Công nghệ giáo dục (phối hợp xuất bản tài liệu GDĐP với tỉnh Ninh Bình, Hải Dương, Hưng Yên, Hà Nam, Thái Bình; Công ty Cổ phần Đầu tư và Xuất bản giáo dục phối hợp với các tỉnh Bắc Giang, Phú Thọ, Thái Nguyên, Lạng Sơn, Cao Bằng)…. Việc chuẩn hóa quy trình này không chỉ giúp các đơn vị xuất bản phối hợp hiệu quả hơn với các địa phương mà còn nâng cao tính chuyên nghiệp, chủ động trong toàn bộ chuỗi hoạt động từ biên soạn, thực nghiệm, đến biên tập, thẩm định và phát hành.
Từ đây, nhiều địa phương đã hoàn thành tài liệu GDĐP trước thời hạn, một số khác triển khai sớm công tác biên tập nên có đủ thời gian rà soát, hoàn thiện kĩ lưỡng hơn (như tỉnh Bắc Giang, Ninh Bình, Hà Nam,...). Đặc biệt, vai trò của biên tập viên ngày càng thể hiện rõ nét: không chỉ đơn thuần chỉnh sửa bản thảo, họ còn tham gia vào nhiều công đoạn như đóng góp ý kiến từ giai đoạn xây dựng đề cương, tham gia thực nghiệm tài liệu nhằm đánh giá tính phù hợp, và cùng các cơ quan chuyên môn hoàn thiện bản thảo trước khi trình phê duyệt. Sự chuyên nghiệp hóa trong công tác biên tập xuất bản đã góp phần đáng kể vào việc nâng cao chất lượng tài liệu GDĐP trên phạm vi cả nước.
Thứ tư, huy động được nhiều nguồn lực xã hội tham gia vào hoạt động biên tập.
Hoạt động biên tập tài liệu GDĐP trong thực tiễn không giới hạn ở nghĩa hẹp là quá trình chỉnh sửa bản thảo do các biên tập viên có chứng chỉ hành nghề tại các nhà xuất bản thực hiện. Thay vào đó, trong bối cảnh triển khai Chương trình GDPT 2018, hoạt động biên tập được hiểu rộng hơn là toàn bộ quá trình chỉnh sửa, hoàn thiện tài liệu nhằm đảm bảo tính chính xác, sư phạm, phù hợp với đặc điểm lịch sử - văn hoá - xã hội của từng địa phương.
Dưới cách tiếp cận này, nhiều tỉnh, thành phố đã chủ động huy động sự tham gia của các tổ chức, cá nhân trên địa bàn vào công tác biên tập tài liệu GDĐP. Bên cạnh các chuyên gia đến từ các cơ sở giáo dục và viện nghiên cứu, nhiều địa phương đã mời gọi các nhà văn hoá, nghệ nhân, người có uy tín trong cộng đồng, đại diện làng nghề truyền thống - những người am hiểu sâu sắc về lịch sử, văn hoá, phong tục tập quán địa phương cùng tham gia góp ý, hiệu đính và cung cấp tư liệu thực tiễn cho tài liệu GDĐP.
Chính sự tham gia đa chiều này đã giúp tài liệu GDĐP trở nên phong phú về nội dung, chính xác về tư liệu, đồng thời phản ánh được tính đặc thù của từng vùng miền. Qua đó, tạo sự đồng thuận và gắn kết giữa nhà trường, cộng đồng và địa phương trong quá trình giáo dục học sinh.
2.2. Một số hạn chế, bất cập tồn tại trong hoạt động biên tập tài liệu GDĐP
Thứ nhất, tài liệu GDĐP thiếu sự đồng nhất trong thể hiện nội dung và hình thức.
Hiện nay, mặc dù tài liệu GDĐP của 63 tỉnh/thành phố (trước sáp nhập) đã được Bộ GD&ĐT phê duyệt để sử dụng chính thức trong các nhà trường phổ thông, song chất lượng tài liệu GDĐP và công tác biên tập vẫn còn đặt ra nhiều băn khoăn. Một trong những bất cập nổi bật là tình trạng thiếu đồng nhất trong cách thể hiện nội dung và hình thức trình bày giữa các lớp học, các cấp học trong cùng một địa phương, giữa các địa phương với nhau, thậm chí trong cùng một đơn vị xuất bản.
Theo định hướng chung của Bộ GD&ĐT, tài liệu GDĐP cần bảo đảm thể hiện được ba nhóm nội dung chính: (1) Lịch sử, văn hoá, truyền thống; (2) Địa lí, kinh tế, hướng nghiệp; (3) Chính trị, xã hội, môi trường. Tuy nhiên, nhiều tài liệu GDĐP hiện nay chưa thể hiện đầy đủ ba nhóm nội dung này, hoặc có xu hướng thiên lệch, tập trung quá nhiều vào một nhóm nội dung, ví dụ như Tài liệu GDĐP tỉnh Bắc Giang lớp 2, lớp 3; Tài liệu GDĐP tỉnh Ninh Bình lớp 1. Việc thiên lệch về nội dung đến việc thiết kế nội dung chưa đảm bảo tính xuyên suốt, đồng tâm - tuyến tính - phát triển, làm giảm hiệu quả sư phạm của tài liệu.
Không chỉ khác biệt về nội dung, hình thức trình bày tài liệu cũng chưa được tiêu chuẩn hóa. Trong Chương trình GDPT 2018, các sách giáo khoa thường được tổ chức theo các pha hoạt động như: Khởi động/ Kết nối - Khám phá - Luyện tập/ Thực hành - Vận dụng/ Mở rộng. Tuy nhiên, trong thực tế tại cùng một địa phương, nhiều địa phương có cách thiết kế Khởi động không đồng nhất. Khởi động ở đây được hiểu là hoạt động giúp học sinh huy động những kiến thức, kĩ năng, kinh nghiệm của bản thân về các vấn đề có liên quan đến chủ đề bài học - giai đoạn kết nối hiểu biết của bản thân để bắt đầu bài học. Song, các cấp học khác nhau trong cùng một tỉnh lại có cách thiết kế khác nhau. Có cấp học lại thiết kế Khởi động như là một “mở bài”, có nghĩa là hoạt động diễn giải, dẫn dắt vào bài chứ không phải thiết kế hoạt động. Tương tự, có địa phương thiết kế Luyện tập, Vận dụng riêng, nhưng có cuốn lại thiết kế Luyện tập, Vận dụng gộp lại thành một, khiến kết cấu bài học không rõ ràng, nhất quán. Ví dụ: Tài liệu GDĐP tỉnh Hải Dương cấp Tiểu học có các pha: Khởi động, Khám phá, Thực hành, Vận dụng. Trong khi đó, Tài liệu GDĐP tỉnh Hải Dương cấp Trung học cơ sở lại chia thành: Khởi động, Hình thành kiến thức, Luyện tập – Vận dụng (gộp chung).
Tình trạng này gây ra những hệ lụy không nhỏ. Về phía giáo viên, việc thiếu thống nhất khiến họ gặp khó khăn khi thiết kế kế hoạch bài dạy và tổ chức các hoạt động học tập phù hợp. Về phía quản lí giáo dục và các nhà xuất bản, điều này cho thấy sự thiếu chuyên nghiệp trong quy trình biên tập xuất bản tài liệu GDĐP, làm giảm hiệu quả và giá trị sử dụng lâu dài của tài liệu trong nhà trường.
Thứ hai, tài liệu GDĐP còn tồn tại một số nội dung chưa đảm bảo tính sư phạm, chưa phù hợp với tâm sinh lí lứa tuổi.
Một hạn chế đáng lưu ý trong tài liệu GDĐP là một số nội dung chưa được thiết kế phù hợp với đặc điểm phát triển tâm lí - nhận thức và trình độ tiếp thu của học sinh các cấp học. Vấn đề này thể hiện ở cả ngôn ngữ, hình thức thể hiện và lựa chọn kiến thức.
Ở cấp Tiểu học, nhất là lớp 1, một số tài liệu GDĐP vẫn sử dụng ngôn ngữ trừu tượng, khái niệm phức tạp, câu lệnh dài, mang tính suy luận cao - điều chưa phù hợp với khả năng đọc hiểu và vốn từ còn hạn chế của học sinh nhỏ tuổi. Với học sinh ở giai đoạn mới bắt đầu làm quen với chữ viết, các yêu cầu này thiếu tính sư phạm và có thể tạo ra rào cản trong quá trình học tập. Ví dụ: Tài liệu GDĐP tỉnh Hà Nam lớp 1 có cách giải thích thuật ngữ: Lễ hội truyền thống là toàn thể những người cùng sống, có những điểm giống nhau, gắn bó thành một khối trong sinh hoạt xã hội. Dù cách giải thích này có nguồn gốc rõ ràng (Từ điển Tiếng Việt, Viện Ngôn ngữ học, NXB Đà Nẵng, 2003). Tuy nhiên, cách giải thích này là chưa phù hợp với trình độ học sinh lớp 1.
Bên cạnh đó, nhiều nội dung đưa vào tài liệu chưa phù hợp với mức độ phát triển nhận thức của học sinh theo lứa tuổi. Ví dụ, việc sử dụng bản đồ hoặc lược đồ trong tài liệu lớp 3 là chưa thực sự hợp lí, bởi năng lực đọc hiểu bản đồ thường hình thành rõ nét ở độ tuổi 9 - 10 (tương đương lớp 4 trở lên), điều này đã được phản ánh trong Chương trình môn Lịch sử và Địa lí - nơi học sinh lớp 4 mới bắt đầu làm quen với bản đồ. Việc đưa bản đồ vào lớp 3 không chỉ gây quá tải mà còn dẫn đến mâu thuẫn nội dung giữa các môn học trong cùng một cấp học. Bên cạnh đó, một số tài liệu GDĐP lớp 4 thể hiện phần trăm, số thập phân trong khi theo chương trình môn Toán, học sinh lớp 5 mới được học các khái niệm này. Điều này cho thấy sự thiếu phối hợp đồng bộ giữa chương trình GDĐP và các chương trình môn học khác, từ đó làm suy giảm tính sư phạm và hiệu quả tiếp thu kiến thức của học sinh.
Đối với cấp THCS và THPT, tài liệu GDĐP lại gặp phải vấn đề ở hướng ngược lại: thông tin trình bày theo lối thuyết minh nặng tính hàn lâm, dàn trải nhiều kiến thức mà thiếu sự chọn lọc. Tài liệu còn thiếu các yếu tố hỗ trợ học tập như tình huống gợi mở, câu hỏi khám phá, hoạt động thực hành hoặc liên hệ với đời sống thực tiễn tại địa phương. Đồng thời, nội dung tài liệu chưa thực sự gắn với nhu cầu, hứng thú và trải nghiệm của học sinh - đặc biệt trong bối cảnh giáo dục định hướng phát triển phẩm chất, năng lực theo Chương trình GDPT 2018.
Như vậy, việc chưa bảo đảm tính sư phạm, thiếu sự điều chỉnh nội dung cho phù hợp với đặc điểm tâm sinh lí, khả năng nhận thức của học sinh là một hạn chế lớn trong biên soạn và biên tập tài liệu GDĐP hiện nay. Đòi hỏi sự tham gia sâu hơn của các chuyên gia sư phạm, các nhà giáo dục có kiến thức sâu rộng về đặc điểm lứa tuổi và chương trình môn học liên quan khi xây dựng tài liệu.
Thứ ba, thiếu đội ngũ biên tập viên chuyên sâu về sư phạm, xuất bản và văn hoá - lịch sử địa phương.
Một thực trạng nổi bật trong công tác nhân sự biên tập tài liệu GDĐP là đội ngũ biên tập viên hiện nay chưa đáp ứng được yêu cầu về năng lực tổng hợp, vốn đòi hỏi sự kết hợp đồng thời của kiến thức sư phạm, kĩ năng xuất bản và hiểu biết sâu sắc về văn hoá - lịch sử địa phương. Trên thực tế, nhiều biên tập viên chỉ được đào tạo hoặc có kinh nghiệm chuyên môn ở một lĩnh vực nhất định, chẳng hạn như sư phạm hoặc xuất bản, nhưng lại thiếu kiến thức về văn hoá - lịch sử địa phương. Ngược lại, một số biên tập viên có am hiểu văn hoá - lịch sử địa phương nhưng lại chưa được trang bị đầy đủ kĩ năng biên tập theo chuẩn mực sư phạm và nghiệp vụ xuất bản.
Đặc biệt, tại các đơn vị xuất bản, biên tập viên thường mạnh về kĩ thuật chế bản, hiệu đính và tổ chức bản thảo, nhưng hạn chế trong việc thẩm định tính chính xác, tính giáo dục và sự phù hợp về mặt văn hoá - xã hội của nội dung. Sự thiếu hụt này khiến việc xử lí các tình huống phức tạp hoặc nhạy cảm, ví dụ như các chi tiết liên quan đến tín ngưỡng, phong tục tập quán, hoặc các vấn đề lịch sử còn nhiều cách nhìn, gặp nhiều khó khăn.
Thực trạng này cho thấy nhu cầu cấp thiết phải xây dựng một đội ngũ biên tập viên “liên ngành” vừa am hiểu văn hoá - lịch sử địa phương, vừa vững vàng về chuyên môn sư phạm và thành thạo kĩ năng xuất bản để nâng cao chất lượng và tính bền vững của công tác biên tập tài liệu GDĐP.
Thứ tư, việc cập nhật, chỉnh sửa tài liệu GDĐP còn chậm, chưa đáp ứng được yêu cầu thay đổi của địa phương.
Sự vận động và biến đổi là xu hướng tất yếu của xã hội, đặc biệt trong bối cảnh đất nước đang trải qua nhiều chuyển mình mạnh mẽ để đạt được những bước tiến vượt bậc về kinh tế, văn hoá, khoa học - công nghệ và giáo dục. Trong môi trường luôn biến động đó, công tác biên tập - xuất bản, nhất là đối với tài liệu GDĐP, phải đặt yêu cầu cập nhật thường xuyên lên hàng đầu. Đây không chỉ là yêu cầu về kĩ thuật xuất bản mà còn là đòi hỏi tất yếu để bảo đảm tính chính xác, tính thời sự và sự phù hợp với thực tiễn địa phương.
Đặc biệt, tài liệu GDĐP còn chứa đựng những nội dung “mang tính thời sự” như các thành tựu kinh tế - xã hội nổi bật, các sự kiện văn hoá - thể thao tiêu biểu, hay các công trình, di sản mới được công nhận. Nếu những nội dung này không được kịp thời điều chỉnh, bổ sung thì sẽ nhanh chóng mất tính cập nhật, khiến một mạch kiến thức hoặc toàn bộ phần nội dung trở nên lỗi thời.
Thực tế tại nhiều địa phương, sau khi tài liệu GDĐP được phê duyệt, nội dung gần như được giữ nguyên trong nhiều năm liền mà không trải qua các đợt rà soát, chỉnh sửa định kì. Hệ quả là học sinh phải tiếp cận những thông tin đã lạc hậu, không còn sát với thực tiễn địa phương. Đồng thời, tính thời sự và sự linh hoạt vốn là tinh thần cốt lõi của chương trình GDPT 2018 theo hướng “mở” lại bị suy giảm đáng kể. Điều này đặt ra yêu cầu cấp bách về việc xây dựng cơ chế cập nhật, tái biên tập tài liệu GDĐP một cách thường xuyên, có hệ thống và gắn với những thay đổi thực tiễn tại địa phương.
3. Kiến nghị và giải pháp
Thứ nhất, hoàn thiện cơ chế chỉ đạo, quy trình và tiêu chuẩn biên tập.
Hoạt động biên tập là khâu then chốt quyết định chất lượng tài liệu GDĐP. Trong giai đoạn đầu triển khai, công tác chỉ đạo từ cơ quan chuyên môn còn chậm và thiếu đồng bộ khiến nhiều địa phương lúng túng trong việc xác định nội dung, tổ chức biên soạn, biên tập và thẩm định dẫn đến tình trạng tài liệu chắp vá, chất lượng không đồng đều, tiến độ thực hiện không thống nhất giữa các địa phương.
Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục 2019 đã đề xuất một hướng đi mới: không coi tài liệu GDĐP là sách giáo khoa, giao trách nhiệm biên soạn cho Giám đốc Sở GD&ĐT; đồng thời chuyển thẩm quyền phê duyệt từ Bộ trưởng Bộ GD&ĐT về cho Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh. Một điều chỉnh được đánh giá sát với thực tiễn, giảm áp lực cho Bộ GD&ĐT, giúp rút ngắn thời gian phê duyệt tài liệu, đồng thời phù hợp với quy mô và quyền hạn của chính quyền hai cấp mà các địa phương vừa thiết lập. Lúc này, hoạt động biên tập được coi là trục chính để bảo đảm định hướng chất lượng tài liệu chung trên toàn quốc.
Các văn bản chỉ đạo nên đóng vai trò khung định hướng, còn việc cụ thể hóa nội dung, hình thức trình bày và phương thức biên tập xuất bản cần được trao quyền chủ động cho địa phương trong phạm vi đó. Cách tiếp cận này vừa giữ được tính nhất quán toàn quốc, vừa tránh tình trạng “trăm hoa đua nở” gây khó khăn cho tổ chức thực hiện và kiểm soát chất lượng biên tập. Bên cạnh vai trò định hướng, cần ban hành đồng bộ các quy định liên quan trực tiếp đến hoạt động biên tập từ phân bổ kinh phí, mốc thời gian hoàn thành, đến cơ chế kiểm tra, đánh giá tiến độ và chất lượng bản thảo. Quy trình biên tập phải minh bạch với các bước rõ ràng thì đội ngũ biên tập mới không lúng túng khi triển khai. Đồng thời, tạo điều kiện phối hợp nhịp nhàng giữa các khâu biên soạn, thực nghiệm, thẩm định và xuất bản.
Trên cơ sở đó, Bộ GD&ĐT và Uỷ ban nhân dân các tỉnh/ thành phố với cơ quan chuyên môn là Sở GD&ĐT cần rà soát hệ thống văn bản hiện hành, đánh giá mức độ phù hợp với thực tiễn, bổ sung các tiêu chuẩn biên tập bảo đảm chuẩn mực khoa học và khuyến khích sự sáng tạo của địa phương. Một cơ chế chỉ đạo rõ ràng, quy trình nhất quán và bộ tiêu chuẩn cụ thể sẽ nâng cao hiệu quả biên tập, khắc phục tình trạng xử lí tài liệu chậm trễ hoặc chồng chéo,và bảo đảm sự tương thích giữa tài liệu GDĐP và Chương trình GDPT.
Thứ hai, phát triển đội ngũ biên tập viên chuyên nghiệp và liên ngành.
Chất lượng tài liệu GDĐP phụ thuộc đáng kể vào trình độ, kinh nghiệm và tư duy của đội ngũ biên tập viên. Thực tế cho thấy, ở một số địa phương, đặc biệt là các tỉnh miền núi, vùng sâu, vùng xa, lực lượng này còn mỏng, thiếu nền tảng chuyên môn sâu về giáo dục, cũng như kiến thức liên ngành cần thiết. Đây là nguyên nhân khiến tài liệu chưa đạt độ chuẩn xác, chưa phù hợp với tâm sinh lí - nhận thức của học sinh và khó tạo hiệu quả bền vững trong giảng dạy.
Để khắc phục, các đơn vị xuất bản cần xây dựng kế hoạch đào tạo và bồi dưỡng bài bản cho biên tập viên. Nội dung đào tạo nên bao gồm ba nhóm năng lực chính: Một là, kiến thức nền tảng về khoa học giáo dục, đặc biệt là lí luận và phương pháp GDĐP. Hai là, kĩ năng biên tập sách/ tài liệu giáo dục, bao gồm kĩ thuật viết, chỉnh sửa, xử lí tư liệu, thiết kế bài học. Ba là, trang bị kiến thức về văn hóa, lịch sử và đặc điểm kinh tế, xã hội, môi trường, địa lí địa phương,… Các khóa tập huấn và hội thảo chuyên đề cần được tổ chức thường xuyên, kết hợp giữa lí thuyết và thực hành, để biên tập viên có thể hình thành tư duy xử lí nội dung một cách linh hoạt.
Ngoài yếu tố chuyên môn, biên tập viên cần thành thạo kĩ năng phối hợp. Họ phải làm việc chặt chẽ với tác giả để giữ đúng tinh thần nội dung, với họa sĩ minh họa để đảm bảo tính trực quan, và với chuyên gia thẩm định để duy trì tính chính xác, khoa học,… Mỗi mắt xích nếu vận hành tốt giúp tài liệu GDĐP đạt sự hài hòa giữa tính sư phạm, tính thẩm mĩ và tính ứng dụng.
Cơ chế tuyển dụng và đãi ngộ hợp lí đóng vai trò then chốt trong việc thu hút nhân sự giỏi. Các địa phương nên mạnh dạn mở rộng nguồn nhân lực, tiếp nhận những chuyên gia, biên tập viên ngoài ngành giáo dục đến từ các lĩnh vực báo chí, xuất bản, văn hóa, nghệ thuật, truyền thông, công nghệ thông tin,... Sự phát triển của đội ngũ này cần gắn liền với cơ chế đánh giá định kì, dựa trên tiêu chuẩn rõ ràng về chất lượng sản phẩm và hiệu quả tác động trong thực tiễn. Như vậy, quá trình biên tập không dừng lại ở việc hiệu đính câu chữ, mà trở thành hoạt động sáng tạo có định hướng, nâng tầm chất lượng tài liệu GDĐP.
Thứ ba, tổ chức biên tập theo hướng “mở”, linh hoạt, có cập nhật định kì.
Tài liệu GDĐP cần duy trì tính thời sự, bám sát định hướng của địa phương và những đổi mới trong chương trình giáo dục. Việc tích hợp các yếu tố đặc trưng từ nhiều vùng địa phương vào một tài liệu đặt ra thách thức lớn trong việc lựa chọn nội dung. Nếu thực hiện sáp nhập cơ học, nghĩa là ghép các nội dung riêng lẻ mà không có sự liên kết và cân đối tỉ lệ hài hòa, tài liệu sẽ trở nên thiếu nhất quán, mờ nhạt về bản sắc. Ngược lại, nếu tập trung quá nhiều vào đặc trưng của một vùng mà bỏ sót các vùng khác, tài liệu dễ tạo cảm giác áp đặt và có thể gây phản ứng từ cộng đồng địa phương.
Vì thế, nên xem xét triển khai biên tập tài liệu theo hướng “mở” - thiết kế dựa trên cấu trúc nội dung nền và nội dung mở rộng. Nội dung nền bao gồm kiến thức đại diện cho toàn tỉnh, thành phố. Nội dung mở rộng phản ánh đặc trưng vùng miền, xã/ thị trấn, thôn xóm/ làng bản. Giáo viên được quyền chọn chủ đề mở rộng phù hợp đặc điểm địa bàn và điều kiện tổ chức hoạt động dạy - học. Mỗi chủ đề có mục tiêu, dung lượng, nguồn, và tiêu chí đánh giá. Tất cả chủ đề liên kết với ma trận năng lực để bảo đảm mạch phát triển theo lứa tuổi học sinh tiếp nhận.
Cùng với đó, cần xây dựng kế hoạch biên tập, cập nhật, sửa chữa theo chu kì. Mỗi chu kì gắn với hoạt động thu thập phản hồi. Nguồn phản hồi gồm giáo viên, học sinh, cán bộ quản lí, chuyên gia, và cộng đồng,... Công cụ gồm khảo sát trực tuyến, phỏng vấn nhóm, quan sát lớp học, và phân tích dữ liệu sử dụng,... Kết quả phản hồi cập nhật vào bảng cải tiến. Mỗi mục cần đề cập rõ lí do, phương án điều chỉnh, người phụ trách, thời hạn và hiệu quả mong đợi.
Tổ chức biên tập theo hướng “mở” còn thể hiện ở cơ chế mời gọi, đóng góp xây dựng, chỉnh sửa nội dung tài liệu GDĐP. Nhà trường, bảo tàng, làng nghề, câu lạc bộ, tổ chức chính trị - xã hội địa phương,… có thể gửi chủ đề điển hình. Biên tập viên cung cấp mẫu đề cương, yêu cầu định dạng cùng tiêu chí lựa chọn nội dung. Mọi đóng góp đều qua phản biện và hiệu đính. Tác giả, biên tập cộng tác được ghi nhận và cấp giấy chứng nhận. Mục tiêu của hướng đi này chính là phát huy vai trò của chính quyền địa phương, nơi nắm rõ đặc điểm lịch sử, văn hóa, phong tục, nhu cầu học tập cụ thể của học sinh trên địa bàn.
Thứ tư, tăng cường ứng dụng công nghệ và AI trong biên tập.
Trong thời đại số hóa, hoạt động biên tập tài liệu GDĐP cần được tăng cường ứng dụng công nghệ và AI. Đây là giải pháp trọng tâm giúp quá trình biên tập trở nên nhanh hơn, chính xác hơn và có khả năng thích ứng cao trước những biến động thực tiễn. Yêu cầu trước tiên đối với tài liệu GDĐP trong giai đoạn hiện nay là cập nhập tên gọi, ranh giới, đơn vị hành chính, cơ cấu tổ chức,... bởi những thông tin trong tài liệu biên soạn giai đoạn vừa qua đã lạc hậu. Ở mức độ thông thường, AI có khả năng đảm nhận thay biên tập viên các tác vụ tự động như: rà soát ngữ pháp, chính tả, phát hiện trùng lặp, kiểm tra tính nhất quán thuật ngữ, đối chiếu thông tin với cơ sở dữ liệu chuẩn. Ở mức độ nâng cao, AI có thể phân tích đặc thù địa phương để gợi ý bổ sung nội dung, dữ liệu minh họa hoặc điều chỉnh cách diễn đạt sao cho gần gũi với người học.
Hoạt động biên tập cần tích hợp các công cụ điện tử tương tác ngay trong giai đoạn sản xuất nội dung. Với công nghệ xử lí ngôn ngữ tự nhiên (Natural Language Processing - NLP) và thị giác máy tính (Computer Vision - CV) có thể hỗ trợ việc nhận diện và tối ưu hóa bố cục hình ảnh - văn bản, đảm bảo nội dung khoa học, hấp dẫn. Đồng thời, thiết lập kho dữ liệu số, lưu trữ bản thảo, hình ảnh, bản đồ, video,… theo định dạng mở, cho phép biên tập viên tìm kiếm dễ dàng và tái sử dụng cho các phiên bản tiếp theo của tài liệu. Ngoài ra, ứng dụng công nghệ mới thực tế ảo (Virtual Reality - VR) hay thực tế tăng cường (Augmented Reality - AR) giúp biên tập viên thực nghiệm các phương án trình bày; kiểm tra, đánh giá tài liệu dựa trên yêu cầu truyền tải trước khi phát hành.
Thứ năm, tiếp tục huy động sự tham gia của cộng đồng địa phương và chuyên gia ngoài ngành giáo dục
Trước bối cảnh cả nước hoàn thành việc sắp xếp đơn vị hành chính cấp tỉnh, các địa phương không thể chờ đợi quá lâu để cập nhật nội dung giáo dục cho học sinh. Những bài học lịch sử địa phương, những nét văn hóa truyền thống, những giá trị đặc sắc của từng vùng miền cần nhanh chóng được đưa vào bài giảng. Hoạt động biên tập trong giai đoạn này càng cần cơ chế kết nối, huy động tham gia của cộng đồng địa phương và chuyên gia ngoài ngành giáo dục. Một cách làm hiệu quả là thành lập hội đồng gồm các tổ chức, doanh nghiệp xuất bản, trường đại học, viện nghiên cứu cùng các nhà văn hoá, nghệ nhân, người có uy tín trong cộng đồng, đại diện làng nghề truyền thống,... Hội đồng đóng vai trò tư vấn, xác minh và cung cấp tư liệu liên quan đến tín ngưỡng, phong tục tập quán, hoặc các vấn đề lịch sử địa phương,… cho quá trình biên tập. Cơ chế thù lao hoặc hình thức ghi nhận danh dự sẽ giúp khuyến khích cộng đồng tham gia lâu dài.
Mặc dù có sự tham gia của cộng đồng địa phương, chuyên gia ngoài giáo dục nhưng biên tập viên vẫn giữ quyền kiểm soát tính khoa học, tính hệ thống và tính sư phạm. Nội dung tài liệu GDĐP cần phải qua hai lớp thẩm định. Một là, kiểm chứng nguồn thông tin. Hai là, thẩm định hiệu quả sư phạm. Trong trường hợp tồn tại nhiều cách diễn giải về một tài liệu, cần ghi chú rõ bối cảnh và các cách hiểu khác nhau để tránh sự áp đặt một chiều. Với câu chuyện dân gian, cần cảnh báo khi có yếu tố mê tín, định kiến. Với hình tượng nhân vật, việc lựa chọn và trình bày phải đạt được sự đồng thuận. Trong trường hợp trẻ em tham gia vào quá trình thu thập tư liệu, nhà trường có trách nhiệm bảo đảm an toàn, tôn trọng quyền riêng tư và thực hiện đầy đủ quy trình xin phép người giám hộ,… Chỉ khi vai trò biên tập viên và các bên liên quan phát huy hiệu quả và minh bạch, tài liệu GDĐP mới thực sự đi vào cuộc sống, nuôi dưỡng lòng yêu quê hương, giúp thế hệ trẻ tự tin hòa nhập mà vẫn giữ được gốc rễ văn hóa.
4. Kết luận
Biên tập tài liệu GDĐP là quá trình định hình chất lượng của một cấu phần quan trọng trong Chương trình giáo dục phổ thông 2018. Trong bối cảnh sắp xếp lại đơn vị hành chính theo Nghị quyết số 202/2025/QH15 và yêu cầu đổi mới giáo dục, hoạt động này cần bảo đảm đồng thời tính khoa học, tính sư phạm và khả năng phản ánh bản sắc văn hoá - lịch sử - địa lí của từng vùng.
Đối với các tỉnh, thành phố thuộc diện điều chỉnh, căn cứ vào chương trình khung và hướng dẫn của Bộ GD&ĐT, các địa phương chủ động lựa chọn các nội dung, chủ đề phù hợp trong tài liệu GDĐP đã được phê duyệt, tổ chức điều chỉnh, tích hợp và sử dụng linh hoạt theo đặc điểm của đơn vị hành chính mới. Cùng với đó, chỉ đạo xây dựng và hoàn thiện khung nội dung GDĐP cho các cấp học, lớp học, bảo đảm tính kế thừa, liên thông và phục vụ công tác chỉnh lí, biên soạn, biên tập để tài liệu có thể sử dụng ổn định trong các năm học tiếp theo.
Để nâng cao chất lượng biên tập tài liệu giáo dục địa phương trong thời gian tới, cần thiết lập một cơ chế chỉ đạo thống nhất theo hướng “mở”, đồng thời xây dựng quy trình biên tập có tính chu kỳ với các tiêu chuẩn rõ ràng. Đội ngũ biên tập viên cần mang tính liên ngành, có kiến thức sư phạm vững chắc và am hiểu sâu sắc văn hoá bản địa. Bên cạnh đó, việc ứng dụng công nghệ hiện đại, đặc biệt là trí tuệ nhân tạo, cùng với sự tham gia đóng góp tri thức từ cộng đồng sẽ tạo nên nền tảng vững chắc cho hoạt động biên tập. Khi các yếu tố này được triển khai đồng bộ, tài liệu giáo dục địa phương sẽ không chỉ trở thành công cụ giáo dục hiệu quả, mà còn góp phần nuôi dưỡng tình yêu quê hương, đồng thời trang bị cho học sinh năng lực hội nhập trong bối cảnh toàn cầu hoá./.
___________________________
(1) Bộ Giáo dục và Đào tạo (2025), Công văn số 4060/BGDĐT-GDPT về tăng cường công tác chỉ đạo thực hiện chương trình, sách giáo khoa giáo dục phổ thông năm học 2025 – 2026, Hà Nội.
(2) (3) Bộ Giáo dục và Đào tạo (2018), Thông tư số 32/2018/TT-BGDĐT về việc Ban hành Chương trình giáo dục phổ thông.
(4) Quốc hội (2025), Nghị quyết số 220/2025/QH15 về việc sắp xếp đơn vị hành chính cấp tỉnh.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2025), Công văn số 4060/BGDĐT-GDPT về tăng cường công tác chỉ đạo thực hiện chương trình, sách giáo khoa giáo dục phổ thông năm học 2025 – 2026, Hà Nội.
2. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2018), Thông tư số 32/2018/TT-BGDĐT về việc Ban hành Chương trình giáo dục phổ thông.
3. Quốc hội (2025), Nghị quyết số 220/2025/QH15 về việc sắp xếp đơn vị hành chính cấp tỉnh.
Nguồn: Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông điện tử
Bài liên quan
- Phong trào “Bình dân học vụ số” - một số biện pháp thực hiện Nghị quyết số 57-NQ/TW, đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới
- Nâng cao chất lượng thực hành nghề nghiệp cho sinh viên ngành công tác xã hội tại Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Kinh nghiệm giảng dạy từ đồng nghĩa trong giờ đọc – hiểu tiếng Việt cho sinh viên nước ngoài tại Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Lễ Khai giảng các lớp Cao học và Nghiên cứu sinh khóa 31 đợt 1 năm 2025
- Phiên họp lần thứ 35 của Hội đồng Kiểm định chất lượng giáo dục
Xem nhiều
-
1
[Video] Dấu ấn Cách mạng Tháng Tám qua những hiện vật lịch sử
-
2
[Video] Lễ diễu binh, diễu hành 80 năm Cách mạng tháng Tám và Quốc khánh 2-9
-
3
Tổng thống Vladimir Putin: Bốn nhiệm kỳ và hành trình phục hưng nước Nga
-
4
Tác động của quảng cáo sản phẩm trên mạng xã hội đến hành vi mua sắm của học sinh trung học phổ thông Hà Nội
-
5
Thông điệp “Ý Đảng, Lòng Dân” trong các chương trình xây dựng Đảng trên truyền hình
-
6
[Ảnh] Đại hội đại biểu Đảng bộ Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh lần thứ XV, nhiệm kỳ 2025-2030 (Phiên thứ nhất)
Liên kết
- Báo điện tử đảng cộng sản việt nam
- Báo nhân dân
- Báo Quân đội nhân dân
- Cổng thông tin điện tử Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Cổng thông tin điện tử Học viện Chính trị quốc gia hồ chí minh
- Tạp chí Cộng sản
- Tạp chí Giáo dục lý luận
- Tạp chí Giáo dục và Xã hội
- Tạp chí Khoa học xã hội và Nhân văn
- Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam
- Tạp chí Lý luận chính trị
- Tạp chí Nghiên cứu con người
- TẠP CHÍ Nghiên cứu dân tộc
- Tạp chí Người làm báo
- Tạp chí Nội chính
- Tạp chí Quản lý Nhà nước
- Tạp chí Tổ chức Nhà nước
- Tạp chí Tuyên giáo
- Tạp chí Xây Dựng Đảng
- Thư viện số Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Trang thông tin điện tử Hội đồng Lý luận Trung ương
[Video] Lễ diễu binh, diễu hành 80 năm Cách mạng tháng Tám và Quốc khánh 2-9
Lễ diễu binh, diễu hành kỷ niệm 80 năm Cách mạng tháng Tám và Quốc khánh 2-9 chính thức diễn ra, trong không khí rợp cờ hoa và niềm tự hào dân tộc dâng trào. Hàng vạn chiến sĩ, lực lượng vũ trang cùng các khối diễu hành đồng loạt tiến bước hiên ngang tại Quảng trường Ba Đình lịch sử. Sự kiện trọng đại này không chỉ khắc họa sức mạnh, tinh thần đoàn kết mà còn là khoảnh khắc triệu trái tim Việt cùng hòa chung một nhịp, hướng về Tổ quốc.
Nâng cao chất lượng hoạt động biên tập tài liệu giáo dục địa phương tại Việt Nam trong thời gian tới
Nâng cao chất lượng hoạt động biên tập tài liệu giáo dục địa phương tại Việt Nam trong thời gian tới
Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban hành Công văn số 4060/BGDĐT-GDPT ngày 17/7/2025 về tăng cường công tác chỉ đạo thực hiện chương trình, sách giáo khoa giáo dục phổ thông năm học 2025 - 2026. Trong đó, có yêu cầu: “Tổ chức xây dựng khung nội dung giáo dục địa phương các cấp học, lớp học của đơn vị hành chính mới; chỉnh lí tài liệu giáo dục địa phương để phù hợp với khung nội dung đã xây dựng và sử dụng dạy học trong các năm học tiếp theo.”(1). Việc điều chỉnh tài liệu giáo dục địa phương sau sáp nhập được coi là cơ hội để rà soát, cập nhật đồng bộ chương trình giáo dục phổ thông và các chính sách liên quan. Bài viết tập trung mô tả thực trạng biên tập tài liệu giáo dục địa phương, chỉ rõ kết quả đạt được và hạn chế còn tồn tại, đề xuất nhóm giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động biên tập nhằm bảo đảm tính thống nhất và hiệu quả triển khai nội dung giáo dục địa phương tại Việt Nam trong thời gian tới.
Phong trào “Bình dân học vụ số” - một số biện pháp thực hiện Nghị quyết số 57-NQ/TW, đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới
Phong trào “Bình dân học vụ số” - một số biện pháp thực hiện Nghị quyết số 57-NQ/TW, đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới
Thực hiện phong trào “Bình dân học vụ số” là nội dung, biện pháp quan trọng để thực hiện Nghị quyết số 57-NQ/TW, ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị khoá XIII về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia. Bài viết tập trung làm rõ vai trò và thực trạng thực hiện phong trào “Bình dân học vụ số” ở các địa phương thời gian vừa qua; từ đó, đề xuất một số biện pháp cơ bản thực hiện phong trào “Bình dân học vụ số” theo tinh thần Nghị quyết số 57-NQ/TW đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới.
Nâng cao chất lượng thực hành nghề nghiệp cho sinh viên ngành công tác xã hội tại Học viện Báo chí và Tuyên truyền
Nâng cao chất lượng thực hành nghề nghiệp cho sinh viên ngành công tác xã hội tại Học viện Báo chí và Tuyên truyền
Để trở thành một nhân viên công tác xã hội chuyên nghiệp và đáp ứng được nhu cầu thị trường việc làm ngay sau khi ra trường, hoạt động thực hành đóng một vai trò quan trọng trong quá trình đào tạo. Thực hành giúp sinh viên có thể ứng dụng các kiến thức nền tảng, các nội dung lý thuyết vào trong quá trình thực tế. Hơn thế nữa. thông qua quá trình thực hành người học có cơ hội gắn kết các kiến thức lý thuyết với nhu cầu xã hội và thị trường việc làm. Đó chính là quá trình để người học chịu trách nhiệm giải quyết các vấn đề, tình huống thực tiễn nghề nghiệp gặp phải. Do vậy, trong quá trình đào tạo các môn học đặc biệt là chuyên ngành công tác xã hội, việc thực hành luôn được quan tâm chú trọng. Bài viết này đánh giá thực trạng hoạt động thực hành cũng như các hoạt động, phối hợp, giám sát hoạt động thực hành đối với sinh viên chuyên ngành công tác xã hội nhằm đảm bảo chất lượng đầu ra và đặc thù chuyên ngành công tác xã hội (CTXH) tại Học viện Báo chí và Tuyên truyền (HVBC&TT).
Kinh nghiệm giảng dạy từ đồng nghĩa trong giờ đọc – hiểu tiếng Việt cho sinh viên nước ngoài tại Học viện Báo chí và Tuyên truyền
Kinh nghiệm giảng dạy từ đồng nghĩa trong giờ đọc – hiểu tiếng Việt cho sinh viên nước ngoài tại Học viện Báo chí và Tuyên truyền
Giờ đọc hiểu là một loại giờ dạy đặc thù trong môn học ngoại ngữ. Để người học hiểu được bài đọc, người dạy cần giúp sinh viên hiểu từ mới (từ mới từ góc độ người học). Việc xuất hiện các từ đồng nghĩa trong bài đọc hoặc trong sự liên hệ của người học là một tất yếu; nó yêu cầu người dạy đưa ra cách giải thích nghĩa của từ sao cho sinh viên dễ hiểu. từ kinh nghiệm giảng dạy, người viết đã sử dụng nhiều cách, trong đó có bốn cách cơ bản sau đây: giải nghĩa loạt từ đồng nghĩa bằng cách xác lập các dãy đồng nghĩa con (nhỏ); cụ thể hóa nghĩa của các từ thông qua hình ảnh, âm thanh; so sánh với từ trái nghĩa; đặt câu. Việc giải thích nghĩa của từ bằng các cách thức trên được dựa trên các nguyên tắc sau: đơn giản hóa việc kiến giải nghĩa từ; cụ thể hóa nghĩa của các từ đồng nghĩa; sử dụng sự so sánh, đối chiếu để người học dễ nhớ.
Bình luận