Quan điểm của Hồ Chí Minh về “Người lãnh đạo, người đày tớ” thật trung thành của nhân dân
Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Đảng ta là một đảng cách mạng… Đảng ta là một đảng lãnh đạo”. Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo cách mạng, lãnh đạo nhân dân là vì dân. Vì dân là điểm xuất phát và cũng là nội dung, là mục tiêu phấn đấu của Đảng. Hồ Chí Minh nhiều lần nhấn mạnh: Đảng ta không có lợi ích nào khác ngoài lợi ích của giai cấp, của nhân dân, của dân tộc; Đảng không có mục đích nào khác là phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân…
Trước lúc đi xa, trong Di chúc, Người căn dặn: “Đảng ta là một đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm, liêm chính, chí công, vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đày tớ thật trung thành của nhân dân”. Đây là một luận điểm cách mạng, khoa học của Hồ Chí Minh, là một đóng góp quan trọng vào lý luận xây dựng đảng kiểu mới của giai cấp công nhân. Luận điểm này đã chỉ rõ vấn đề bản chất nhất trong mối quan hệ giữa một đảng cộng sản cầm quyền với quần chúng nhân dân.
Hồ Chí Minh khẳng định, Đảng vừa là người lãnh đạo, vừa là người đày tớ của nhân dân không hề có sự mâu thuẫn, mà đó là hai mặt gắn bó, thống nhất chặt chẽ, không thể tách rời của một vấn đề, mặt này làm điều kiện, làm tiền đề của mặt kia và chỉ có làm tốt cả hai chức trách tưởng chừng như đầy mâu thuẫn này thì một đảng cộng sản mới có thể hoàn thành tốt sứ mệnh của mình.
Người chỉ rõ, đảng viên, cán bộ muốn xứng đáng là người lãnh đạo, Đảng Cộng sản Việt Nam muốn là người “lãnh đạo đúng nghĩa” thì:
"1. Phải quyết định mọi vấn đề một cách cho đúng. Mà muốn thế thì nhất định phải so sánh kinh nghiệm của dân chúng. Vì dân chúng chính là những người chịu đựng cái kết quả của sự lãnh đạo của ta.
2. Phải tổ chức sự thi hành cho đúng. Mà muốn vậy, không có dân chúng giúp sức thì không xong.
3. Phải tổ chức sự kiểm soát, mà muốn kiểm soát đúng thì cũng phải có quần chúng giúp mới được”(1).
Qua chỉ dẫn của Hồ Chí Minh về cách “lãnh đạo đúng” có thể thấy được trong đó, hai mặt lãnh đạo và đầy tớ thống nhất với nhau một cách hết sức tự nhiên, tất yếu, hòa hợp trong một chủ thể duy nhất là Đảng. Vì Đảng lãnh đạo mọi công việc của Nhà nước, của xã hội trước hết bằng nghị quyết, chủ trương, đường lối. Muốn có chủ trương, đường lối đúng thì đường lối đó phải lấy mục tiêu dân giàu, nước mạnh làm hệ quy chiếu nền tảng để xây dựng; lấy lợi ích của quốc gia, dân tộc làm nguyên tắc bất biến. Đường lối đó phải lấy nhân dân làm trung tâm, đáp ứng đúng nhu cầu của cuộc sống, những nguyện vọng chân chính của nhân dân, được nhân dân tin theo và ủng hộ; “ý Đảng” phải chính là “lòng dân”.
Muốn thực hiện được chủ trương, đường lối đã xác định, Đảng phải học hỏi kinh nghiệm của nhân dân, phải nhờ đến sức người, sức của từ nhân dân để thực hiện, phải cần nhân dân kiểm soát. Như vậy, Đảng lãnh đạo là “vì dân”, đường lối của Đảng thực hiện được là “nhờ dân”, và cũng do vậy “người lãnh đạo” cũng thực sự là “người đầy tớ” một cách hết sức tự nhiên, hài hòa.
Để có đường lối đúng và đường lối đó nhanh chóng đi vào cuộc sống, theo Hồ Chí Minh, mọi cán bộ, đảng viên của Đảng phải là những người có trí tuệ, có bản lĩnh, dày dạn kinh nghiệm thực tiễn và đặc biệt phải hết sức gương mẫu, phải là những người dám hy sinh quyền lợi cá nhân vì lợi ích của tập thể, vì lợi ích của dân tộc và trong đó còn vì lợi ích của người khác. Đó phải là những người luôn luôn vững vàng “đi trước” trong gian khó, để quần chúng tin tưởng “theo sau”; phải là những người thật sự “cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư”, “khổ trước thiên hạ, hưởng sau thiên hạ”.
Tuy nhiên, Hồ Chí Minh cũng sớm nhìn thấy và cảnh báo về những “mặt trái”, những căn bệnh trong thực tiễn lãnh đạo của một Đảng cầm quyền. Theo Người, Đảng có quyền lực chính trị, có quyền lãnh đạo đất nước, lãnh đạo hệ thống chính trị và toàn xã hội thì cán bộ, đảng viên dù ít, dù nhiều đều có quyền hành, cấp cao thì quyền to, cấp thấp thì quyền nhỏ. Có chức quyền, cán bộ, đảng viên rất dễ sa vào quan liêu, tham nhũng, xa hoa, muốn sao được vậy, coi khinh dư luận, xa rời nhân dân, đứng trên nhân dân, ức hiếp nhân dân.
Người phê phán nghiêm khắc các biểu hiện suy thoái “Miệng thì nói dân chủ, nhưng việc làm thì theo lối “quan” chủ. Miệng thì nói “phụng sự quần chúng”, nhưng họ làm trái ngược với lợi ích của quần chúng…”(2). Tất cả những căn bệnh trên được Hồ Chí Minh coi là “giặc nội xâm”, là một trong những nguyên nhân chính làm suy yếu sức mạnh tổ chức của Đảng, trực tiếp đe dọa vai trò cầm quyền của Đảng.
Để khắc phục vấn đề này, Hồ Chí Minh đặc biệt nhấn mạnh: cán bộ, đảng viên không những là người lãnh đạo quần chúng mà còn phải luôn xác định mình là đày tớ, là công bộc, là người phục vụ lợi ích của nhân dân. Đây là một yêu cầu bắt buộc đối với mọi cán bộ, đảng viên, mọi cơ quan, tổ chức của Đảng và Nhà nước. Ngay sau khi nước nhà giành được độc lập, trở thành Đảng cầm quyền, trong Thư gửi ủy ban nhân dân các kỳ, tỉnh, huyện và làng, Hồ Chí Minh đã đặc biệt lưu ý cán bộ, đảng viên trong hệ thống chính quyền các cấp: “Chúng ta phải hiểu rằng, các cơ quan của Chính phủ từ toàn quốc cho đến các làng, đều là công bộc của dân, nghĩa là để gánh việc chung cho dân, chứ không phải để đè đầu dân như trong thời kỳ dưới quyền thống trị của Pháp, Nhật”(3).
Đây chính là sự khác biệt về bản chất của nhà nước của dân, do dân, vì dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Hồ Chí Minh khẳng định: “Dân là chủ thì chủ tịch, bộ trưởng, thứ trưởng, ủy viên này khác làm gì? Làm đày tớ. Làm đày tớ cho nhân dân chứ không phải làm quan cách mạng”.
Đày tớ của nhân dân, cũng có nghĩa là “Nếu dân đói, Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân rét là Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân dốt là Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân ốm là Đảng và Chính phủ có lỗi”(4). Cán bộ, đảng viên không những phải “yêu dân”, “kính dân”, mà còn phải biết ơn nhân dân vì chúng ta (cán bộ, đảng viên) phải biết rằng: “cơm chúng ta ăn, áo chúng ta mặc, vật liệu chúng ta dùng, đều do mồ hôi nước mắt của nhân dân mà ra”(5). Đày tớ của nhân dân, đó là những người “Việc gì lợi cho dân, ta phải hết sức làm. Việc gì hại đến dân, ta phải hết sức tránh”(6).
Như vậy, trong tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng nói chung, mỗi cán bộ, đảng viên nói riêng, bên cạnh địa vị, trí tuệ là một “nhà lãnh đạo” đều phải có tinh thần làm việc của một “người đày tớ”. Đó là một chỉnh thể thống nhất, biện chứng, không thể tách rời trong phương pháp và phong cách làm việc của Đảng. Điều này là không hề mâu thuẫn vì cái chung của “người lãnh đạo xứng đáng” và “người đày tớ trung thành” là vì dân, phục vụ lợi ích nhân dân. Vì để là người lãnh đạo xứng đáng thì phải có đường lối, chủ trương hợp lòng dân, vì lợi ích của quần chúng nhân dân…mà muốn vậy thì người lãnh đạo phải thật sự gần dân, hiểu dân, phải thật sự ngày đêm trăn trở với lợi ích của dân, phải thật sự vì dân phục vụ - đó cũng là người đày tớ của nhân dân.
Lịch sử quá trình xây dựng, phát triển và lãnh đạo cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam đã cho thấy tính thống nhất giữa hai vai trò vừa là người lãnh đạo, vừa là người đày tớ là một hiện thực. Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám, của hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, chống đế quốc Mỹ xâm lược, thắng lợi của sự nghiệp đổi mới đã minh chứng rất rõ luận điểm đó. Trong những thắng lợi vĩ đại này, Đảng và đội ngũ cán bộ, đảng viên của mình đã vừa là những người hoạch định đường lối, lãnh đạo nhân dân đấu tranh một cách đúng đắn, khoa học, trí tuệ, vừa là những người trực tiếp đấu tranh hăng hái nhất, anh dũng nhất, hy sinh nhất cho lợi ích của dân tộc, vì lợi ích của nhân dân, thực sự vừa là “người lãnh đạo xứng đáng”, vừa là “người đày tớ trung thành” của nhân dân.
Trước yêu cầu nhiệm vụ thời kỳ mới, trước sức cám dỗ của quyền lực, trước sự tác động của văn hóa thực dụng…một bộ phận cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống, xa rời chức trách “người đày tớ nhân dân”. Thực trạng này trực tiếp đe dọa vai trò lãnh đạo của Đảng. Do đó, mỗi cán bộ, đảng viên phải thấm nhuần chỉ dẫn của Người, Đảng phải tự đổi mới, tự chỉnh đốn, cho Đảng thực sự “là đạo đức, là văn minh”, là người lãnh đạo xứng đáng, là người đày tớ thật sự trung thành của nhân dân.
____________________________________________________
(1) Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, Nxb. CTQG, H., T.5, tr.325.
(2) Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, Nxb. CTQG, H.,T.7, tr.176.
(3), (6) Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, Nxb. CTQG, H.,T.4, tr. 64-65, 65.
(4), (5) Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, Nxb CTQG, H., T.9, tr. 518, 145.
Nguồn: Bài đăng trên Tạp chí Lý luận chính trị điện tử ngày 22.5.2014
Bài liên quan
- Lực lượng Công an nhân dân học tập và làm theo Sáu điều Bác Hồ dạy
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, trí tuệ, “là đạo đức, là văn minh” và việc vận dụng xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong kỷ nguyên mới
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng và vận dụng trong nâng cao đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên hiện nay
- Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng trong Di chúc vào việc xây dựng tổ chức đảng hiện nay
- Nghiên cứu, vận dụng và phát triển sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh trong giải quyết vấn đề dân tộc, tôn giáo hiện nay
Xem nhiều
-
1
[Video] Bài viết của Tổng Bí thư Tô Lâm: “Động lực mới cho phát triển kinh tế”
-
2
Quản trị nhà nước tốt gắn liền với thể chế dân chủ ổn định và phát triển
-
3
Ứng dụng AI trong sáng tạo tác phẩm báo mạng điện tử ở Việt Nam hiện nay
-
4
Phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc - mục tiêu, quyết tâm của toàn Đảng và ý nguyện, khát vọng của người dân Việt Nam
-
5
Phản bác luận điệu xuyên tạc chiến thắng vĩ đại của Việt Nam - Bài 2: Các cứ liệu lịch sử khẳng định bản chất cuộc kháng chiến (Tiếp theo và hết)
-
6
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng và vận dụng trong nâng cao đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên hiện nay
Liên kết
- Báo điện tử đảng cộng sản việt nam
- Báo nhân dân
- Báo Quân đội nhân dân
- Cổng thông tin điện tử Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Cổng thông tin điện tử Học viện Chính trị quốc gia hồ chí minh
- Tạp chí Cộng sản
- Tạp chí Giáo dục lý luận
- Tạp chí Giáo dục và Xã hội
- Tạp chí Khoa học xã hội và Nhân văn
- Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam
- Tạp chí Lý luận chính trị
- Tạp chí Nghiên cứu con người
- TẠP CHÍ Nghiên cứu dân tộc
- Tạp chí Người làm báo
- Tạp chí Nội chính
- Tạp chí Quản lý Nhà nước
- Tạp chí Tổ chức Nhà nước
- Tạp chí Tuyên giáo
- Tạp chí Xây Dựng Đảng
- Thư viện số Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Trang thông tin điện tử Hội đồng Lý luận Trung ương
Đấu tranh phòng, chống các âm mưu, thủ đoạn lợi dụng phản biện xã hội chống phá cách mạng Việt Nam
Những năm qua, với tinh thần dân chủ, cởi mở, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội, các tầng lớp nhân dân đã phát huy vai trò phản biện xã hội, tạo nên một luồng sinh khí mới trong đời sống chính trị đất nước, hiện thực hóa quyền làm chủ, dân chủ trực tiếp của nhân dân trong thực tế. Tuy nhiên, trong dòng chảy chung ấy, vẫn có một số phần tử không hiểu, hoặc cố tình không hiểu về bản chất, mục tiêu của phản biện xã hội, chủ ý lợi dụng hoạt động này để chống phá Đảng, Nhà nước và chế độ. Dù chỉ là thiểu số, song những luận điệu này cũng gây tác hại nhất định đối với sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Việc nhận diện và đấu tranh làm thất bại những luận điệu phản động này là việc làm cấp thiết trong tình hình hiện nay.
Lực lượng Công an nhân dân học tập và làm theo Sáu điều Bác Hồ dạy
Lực lượng Công an nhân dân học tập và làm theo Sáu điều Bác Hồ dạy
Sáu điều Bác Hồ dạy Công an nhân dân không chỉ là lời căn dặn mà còn là kim chỉ nam cho mọi hoạt động, rèn luyện và cống hiến của lực lượng công an trong suốt quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trên cơ sở phân tích sáu điều Bác Hồ dạy công an nhân dân, bài viết đề xuất các giải pháp giúp đẩy mạnh việc học tập và làm theo sáu điều Bác Hồ dạy của lực lượng Công an nhân dân, góp phần xây dựng lực lượng Công an nhân dân thật sự trong sạch, vững mạnh, sẵn sàng hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ bảo vệ an ninh trật tự trong tình hình mới.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, trí tuệ, “là đạo đức, là văn minh” và việc vận dụng xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong kỷ nguyên mới
Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, trí tuệ, “là đạo đức, là văn minh” và việc vận dụng xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong kỷ nguyên mới
Trong bài nói tại Lễ kỷ niệm 30 năm Ngày thành lập Đảng, tối 5-1-1960, tại Hội trường Ba Đình, Hà Nội, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Đảng ta là đạo đức, là văn minh”(1). Tám chữ vàng đã kết tinh phẩm giá, cốt cách, bản lĩnh, trí tuệ, tầm vóc của một đảng cách mạng chân chính và mang giá trị thời đại sâu sắc, tiếp tục soi sáng cho công cuộc xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay, để trở thành “một Đảng to lớn, mạnh mẽ, chắc chắn, chân chính, triệt để cách mạng”(2), đủ sức gánh vác sứ mệnh đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới phồn vinh, hạnh phúc.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng và vận dụng trong nâng cao đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên hiện nay
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng và vận dụng trong nâng cao đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên hiện nay
Đạo đức cách mạng là một trong những phẩm chất cao quý của người cách mạng, là bài học có giá trị quý báu, đúc kết để đội ngũ cán bộ, đảng viên từng bước hoàn thiện về đạo đức, nhân cách. Trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay, tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng là kim chỉ nam, cơ sở nền tảng để đội ngũ cán bộ, đảng viên vận dụng rèn luyện, nâng cao đạo đức cách mạng. Bài viết làm rõ tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng, phản ánh một số hạn chế, bất cập về đạo đức cách mạng của một bộ phận cán bộ, đảng viên trong giai đoạn hiện nay. Trên cơ sở đó, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng nhằm nâng cao đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ, đảng viên thời gian tới.
Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng trong Di chúc vào việc xây dựng tổ chức đảng hiện nay
Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng trong Di chúc vào việc xây dựng tổ chức đảng hiện nay
Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh là tài sản vô giá, thể hiện tư tưởng, đạo đức và tầm nhìn của Người. Trong Di chúc, Hồ Chí Minh đặc biệt nhấn mạnh vai trò của Đảng đối với sự nghiệp cách mạnh và phát triển đất nước. Những căn dặn của Người về sự đoàn kết, đạo đức cách mạng và năng lực lãnh đạo của Đảng luôn mang giá trị thời sự. Trong bối cảnh thế giới biến động phức tạp, ý nghĩa của Di chúc là kim chỉ nam cho công tác xây dựng Đảng.
Bình luận