Tà áo dài Việt Nam qua hai phần ba thế kỷ
Lâu nay các nhà nghiên cứu về văn hoá trang phục vẫn lấy cái mốc năm 1932 đánh dấu sự ra đời của chiếc áo dài nữ Việt Nam. Tính theo cái mốc này, áo dài Việt Nam đã có hơn 70 năm tuổi. Từ bấy đến nay, tà áo dài Việt Nam có thể coi là quốc phục của người phụ nữ Việt. Các văn nhân thi sĩ tốn không ít giấy mực luận bàn về nó, tôn vinh nó, nhất là qua đó mà tôn vinh vẻ đẹp muôn hồng ngàn tía của các thiếu nữ Việt Nam mỗi khi phục sức áo dài.
Xung quanh sự ra đời của tà áo dài duyên dáng này cũng có những ý kiến không giống nhau. Có một loại ý kiến khá phổ biến cho rằng áo dài này là do sáng tạo của hoạ sỹ Cát Tường năm 1932. Đây là một hoạ sĩ thành danh vào thời kỳ này. Ông phát triển từ loại áo “tứ thân”, “mớ bẩy mớ ba” của các phụ nữ truyền thống đồng bằng Bắc Bộ. Gọi áo “tứ thân” là do chiếc áo được may từ 4 mảnh vải ghép lại. Người phụ nữ vận trang phục kiểu này thường mặc nhiều lớp áo, mỗi chiếc một màu khác nhau (thí dụ trong cùng là yếm, rồi đến các lớp áo màu trắng, nâu non, xanh nõn chuối, hồng cánh sen…và ngoài cùng là thắt lưng bao xanh, bao đỏ gì đó). Khi mặc theo kiểu nhiều lớp áo và nhiều màu như vậy được gọi là áo “mớ bẩy mớ ba”. Loại trang phục này có ba đặc điểm: kín đáo; mềm mại, tha thướt; và nhất là màu sắc rất sống động. Mỗi khi các cô mặc trang phục này, tay cầm nón thúng quai thao, tóc vấn chít khăn mỏ quạ, đi dép cong cong, nhai trầu bỏm bẻm… trên đường trẩy hội mùa xuân, như thấy cả đất trời hoa cỏ cùng mở hội. Một nét đẹp không gì có thể thanh khiết hơn, Việt Nam hơn thế… Nhưng rồi cùng với sự phát triển của nền văn minh kỹ thuật hiện đại, dần dần bộ áo dài mớ bẩy mớ ba tuy đẹp và thơ mộng thật đấy, song cũng có cái “lỉnh kỉnh” của nó. Mỗi khi vận trang phục này, khá tốn thời gian. Nhưng đó không phải là lý do chủ yếu. Lý do chính là, khi vận trang phục này, vẻ đẹp đường nét hình thể của phụ nữ bị “bưng bít”, che khuất hết cả. Cái vóc dáng và sức sống thanh tân của người phụ nữ có phần bị kiềm toả, giam hãm. Con người không được khoe ra cái vẻ kiều diễm trời cho với những đường cong tuyệt mỹ. Thế là nhu cầu cách tân xuất hiện. Hoạ sĩ Cát Tường đã kết hợp cái vẻ kín đáo, mềm mại thướt tha của chiếc áo truyền thống với cách bó sát áo vào cơ thể để tôn vinh đường nét hình thể người nữ. Nhờ vậy, chiếc áo dài tân thời ra đời. Người hay chơi chữ gọi tà áo do hoạ sĩ Cát Tường sáng tạo đó là áo “Lơ muya” ( Le mur tiếng Pháp là bức tường). Kiểu áo này được tờ báo Phong hoá (sau đổi thành Ngày nay) của nhóm Tự lực văn đoàn cổ suý nhiệt liệt, và được các thiếu nữ tân thời nhanh chóng hưởng ứng. Lúc mới đầu, nó không phải đã dễ dàng được chấp nhận ngay. Có một số người phản đối, nhất là những bậc Nho học thủ cựu. Họ sợ con em mình văn minh theo kiểu phong trào “Cải cách âu hoá”, “Vui vẻ trẻ trung” mà rơi vào sa ngã(!). Ngay cả nhà văn Nguyễn Công Hoan lúc bấy giờ cũng còn chê bai các cô mặc áo dài, đánh phấn tô son, đi giầy cao gót bằng câu chuyện Cô Kếu, gái tân thời kia mà! Nhưng rồi vẻ đẹp thực sự của tà áo dài đã từng bước chinh phục được ngay cả những người khó tính nhất.
Về sự ra đời của tà áo tân thời này, cũng lại có loại ý kiến khác. Như tờ Trong khuê phòng xuất bản ở Sài Gòn cho rằng áo tân thời cũng đã xuất hiện từ năm 1932 ở tại phía Nam. Bằng chứng là cô Elisabeth Huê Mỹ đã là người đầu tiên mặc bộ áo tân thời từ năm đó và còn có cả ảnh chụp quảng cáo.
Các ý kiến khác nhau ấy cũng đã có lúc trở thành cuộc tranh luận kéo dài. Nhưng việc chiếc áo dài có ở đâu trước hẳn không mấy quan trọng. Điều đáng nói hơn cả là tác phẩm áo dài này do người Việt Nam sáng tạo, và ngày càng khẳng định vẻ đẹp cổ điển của nó. Đã có những lúc, những nơi người ta đã thử cải tiến. Tiêu biểu nhất là lần cải tiến của Trần Lệ Xuân trong những năm 60-70 ở Sài Gòn. Và gần đây, một số nhà tạo mốt cũng có ý cách tân (ở một vài chi tiết như: tay, vai, cổ, vạt, độ ngắn dài, nét thêu hoặc hoa văn…), nhưng chung quy lại vẫn không thể thoát được những đặc điểm căn bản vốn có của nó. Bản chất, hồn vía của tà áo dài duyên dáng cách đây hơn 70 năm vẫn kiêu sa bền vững trước sự thử thách của thời gian.
Cũng chẳng biết tự khi nào, tự nhiên có sự “phân công” trang phục áo dài này. áo trắng dành để cho các nữ sinh. áo màu các loại để dành cho thanh nữ, phụ nữ. áo nhung đen nhung tím dành để các bà… Riêng “áo tím Huế mộng mơ” thì với cả thiếu nữ đến trường và các em gái xinh tươi thôi không đến trường nữa cũng đều hút hồn người ta cả.
Không hiểu sao gần đây có một ai đó khi phân tích áo dài lại tán ra thành cái vẻ “sexy” của nó. Tôi cho rằng đó là một cái nhìn có phần lệch lạc, nhuốm màu sắc dục, của người thiếu cái căn bản văn hoá.
Từ bấy đến nay, ai cũng công nhận rằng tà áo dài duyên dáng Việt Nam đã trở thành một nét đẹp đặc sắc, đặc thù có một không hai trên thế giới. Xét trên phương diện thương mại mà nói, nó cũng đã tự nhiên trở thành thương hiệu made in Viet Nam mà chẳng phải đi đăng ký, chẳng sợ nơi nào “nhái” hay chiếm mất bản quyền. Nó cứ kiêu sa lộng lẫy một nét anh hoa cẩm tú quê hương nước Việt.
“Dịu dàng áo trắng trong như suối
Toả phất đôi hồn cánh mộng bay”
Vào thời Thơ Mới, nhà thơ Huy Cận đã chẳng cầm lòng được trước những tà áo trắng mê ly như thế đó./.
Nguồn: Bài đăng trên Tạp chí Báo chí và Tuyên truyền tháng 1,2 năm 2006
Bài liên quan
- Tổng thống Vladimir Putin: Bốn nhiệm kỳ và hành trình phục hưng nước Nga
- Đổi mới công tác cán bộ trong cuộc cách mạng tinh gọn bộ máy nhà nước ở Việt Nam hiện nay: Những vấn đề lý luận và thực tiễn
- Ứng dụng truyền thông số trong hoạt động công tác xã hội tại bệnh viện: Thực trạng và xu hướng
- Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến hành vi trì hoãn kết hôn của giới trẻ Việt Nam hiện nay
- Quản lý hình ảnh về phụ nữ dân tộc thiểu số Việt Nam trên các sản phẩm báo ảnh tại Thông tấn xã Việt Nam hiện nay
Xem nhiều
-
1
[Video] Dấu ấn Cách mạng Tháng Tám qua những hiện vật lịch sử
-
2
Tổng thống Vladimir Putin: Bốn nhiệm kỳ và hành trình phục hưng nước Nga
-
3
Tác động của quảng cáo sản phẩm trên mạng xã hội đến hành vi mua sắm của học sinh trung học phổ thông Hà Nội
-
4
Thông điệp “Ý Đảng, Lòng Dân” trong các chương trình xây dựng Đảng trên truyền hình
-
5
[Ảnh] Đại hội đại biểu Đảng bộ Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh lần thứ XV, nhiệm kỳ 2025-2030 (Phiên thứ nhất)
-
6
Phát huy vai trò của báo chí trong bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng
Liên kết
- Báo điện tử đảng cộng sản việt nam
- Báo nhân dân
- Báo Quân đội nhân dân
- Cổng thông tin điện tử Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Cổng thông tin điện tử Học viện Chính trị quốc gia hồ chí minh
- Tạp chí Cộng sản
- Tạp chí Giáo dục lý luận
- Tạp chí Giáo dục và Xã hội
- Tạp chí Khoa học xã hội và Nhân văn
- Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam
- Tạp chí Lý luận chính trị
- Tạp chí Nghiên cứu con người
- TẠP CHÍ Nghiên cứu dân tộc
- Tạp chí Người làm báo
- Tạp chí Nội chính
- Tạp chí Quản lý Nhà nước
- Tạp chí Tổ chức Nhà nước
- Tạp chí Tuyên giáo
- Tạp chí Xây Dựng Đảng
- Thư viện số Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Trang thông tin điện tử Hội đồng Lý luận Trung ương
Phát huy vai trò của tổ chức đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh trong quản lý nhà nước về văn hóa dân tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh Lạng Sơn
Tỉnh Lạng Sơn, nơi có đông đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống, giữ vị trí chiến lược trong công tác bảo tồn và phát huy văn hóa các dân tộc thiểu số. Trong thời gian qua, tổ chức Đoàn TNCS Hồ Chí Minh tỉnh Lạng Sơn đã có những đóng góp tích cực vào quá trình quản lý nhà nước về văn hóa DTTS thông qua các hoạt động tuyên truyền, giáo dục, phong trào thanh niên và tham gia giám sát chính sách. Những kết quả đạt được bước đầu thể hiện vai trò nhất định của Đoàn trong việc kết nối giữa chính quyền và thanh niên DTTS. Tuy nhiên, thực tiễn cũng cho thấy nhiều hạn chế như thiếu cơ chế phối hợp, chưa được thể chế hóa vai trò, năng lực cán bộ còn bất cập và thiếu nguồn lực bảo đảm hoạt động bền vững. Trên cơ sở phân tích thực trạng, bài viết tập trung làm rõ vai trò của tổ chức Đoàn trong quản lý nhà nước về văn hóa DTTS tại Lạng Sơn, đồng thời đề xuất một số giải pháp có tính khả thi nhằm phát huy hiệu quả hơn nữa vai trò này trong bối cảnh chuyển đổi mô hình quản trị hiện nay, góp phần thúc đẩy phát triển bền vững văn hóa vùng dân tộc.
Tổng thống Vladimir Putin: Bốn nhiệm kỳ và hành trình phục hưng nước Nga
Tổng thống Vladimir Putin: Bốn nhiệm kỳ và hành trình phục hưng nước Nga
Trong suốt hơn hai thập kỷ đầu thế kỷ XXI, tên của Tổng thống Vladimir Putin đã trở thành biểu tượng gắn liền với tiến trình phát triển và chuyển mình của Liên bang Nga. Từ một quốc gia đối mặt với khủng hoảng kinh tế - chính trị nghiêm trọng sau khi Liên Xô tan rã, nước Nga dưới sự lãnh đạo của Tổng thống Putin đã từng bước khôi phục ổn định, nâng cao vị thế quốc tế và củng cố bản sắc quốc gia. Dù vẫn còn không ít tranh cãi, không thể phủ nhận rằng Tổng thống Vladimir Putin đã để lại dấu ấn sâu đậm trong lịch sử nước Nga hiện đại như một nhà lãnh đạo có ảnh hưởng lớn lao và lâu dài. Bài viết được thực hiện với mục đích phân tích các giai đoạn cầm quyền của ông, từ đó làm rõ những đóng góp, lựa chọn chiến lược và quyết sách của Ông đối với vận mệnh quốc gia. Qua đó, góp phần lý giải vì sao Tổng thống Vladimir Putin được xem là “người sẽ cứu nước Nga” trong thời kỳ chuyển giao và định hình bản sắc, quyền lực quốc gia hậu Xô Viết.
Đổi mới công tác cán bộ trong cuộc cách mạng tinh gọn bộ máy nhà nước ở Việt Nam hiện nay: Những vấn đề lý luận và thực tiễn
Đổi mới công tác cán bộ trong cuộc cách mạng tinh gọn bộ máy nhà nước ở Việt Nam hiện nay: Những vấn đề lý luận và thực tiễn
Công cuộc tinh gọn bộ máy nhà nước là một trong những nhiệm vụ trọng tâm nhằm hiện thực hóa mục tiêu xây dựng nền hành chính nhà nước hiện đại, hiệu lực, hiệu năng, hiệu quả, phục vụ nhân dân. Trong tiến trình đó, công tác cán bộ đóng vai trò trung tâm, bởi cán bộ chính là người tổ chức và thực thi cải cách. Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy, công tác cán bộ hiện nay vẫn còn nhiều hạn chế, chưa thực sự tương xứng với yêu cầu đổi mới bộ máy nhà nước. Bài viết tiếp cận vấn đề từ nền tảng lý luận Mác, Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các văn kiện Đảng để phân tích những vấn đề lý luận, thực tiễn trong đổi mới công tác cán bộ, từ đó, đề xuất một số giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ đáp ứng yêu cầu cải cách hệ thống chính trị trong bối cảnh mới.
Ứng dụng truyền thông số trong hoạt động công tác xã hội tại bệnh viện: Thực trạng và xu hướng
Ứng dụng truyền thông số trong hoạt động công tác xã hội tại bệnh viện: Thực trạng và xu hướng
Trong bối cảnh chuyển đổi số y tế đang diễn ra mạnh mẽ trên toàn quốc, một số bệnh viện tuyến trung ương đã bước đầu ứng dụng truyền thông số hiệu quả trong tư vấn tâm lý – xã hội, kết nối cộng đồng và vận động nguồn lực, tuy nhiên, phần lớn bệnh viện tuyến tỉnh, huyện chưa có điều kiện triển khai đầy đủ. Bài viết đề xuất các giải pháp cụ thể nhằm tích hợp truyền thông số vào hoạt động công tác xã hội (CTXH) tại bệnh viện, góp phần định hướng phát triển CTXH bệnh viện theo hướng chuyên nghiệp, công bằng và thích ứng với bối cảnh số hóa y tế đến năm 2030.
Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến hành vi trì hoãn kết hôn của giới trẻ Việt Nam hiện nay
Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến hành vi trì hoãn kết hôn của giới trẻ Việt Nam hiện nay
Theo thống kê trong giai đoạn từ 2013 – 2023 cho thấy độ tuổi kết hôn trung bình của người dân đang có xu hướng tăng(1). Vì vậy, nhóm tác giả đã thực hiện nghiên cứu nhằm làm rõ những nhân tố ảnh hưởng tới hành vi này tại Việt Nam. Bài nghiên cứu chỉ ra sự thay đổi trong độ tuổi kết hôn của người dân Việt Nam, đồng thời phân tích rõ ảnh hưởng của những nhân tố như trình độ học vấn, nền tảng gia đình, địa lý, chi phí sinh hoạt, thu nhập, nghề nghiệp và truyền thông tới việc trì hoãn kết hôn, thông qua dữ liệu từ cuộc khảo sát gồm 736 người trong độ tuổi từ 18 – 35, trải rộng khắp các vùng miền của Việt Nam. Qua đó, nhóm tác giả nêu lên một số đánh giá về tác động của hành vi trì hoãn kết hôn của giới trẻ tới sự phát triển của kinh tế - xã hội. Sau cùng, nhóm tác giả đề xuất giải pháp để giải quyết vấn đề trì hoãn kết hôn của người trẻ Việt Nam hiện nay.
Bình luận