Tác động của biến đổi các giá trị văn hóa tới xây dựng nông thôn mới bền vững
Chương trình quốc gia xây dựng nông thôn mới được triển khai với mục tiêu đưa nông thôn Việt Nam phát triển toàn diện, góp phần thúc đẩy công cuộc đổi mới đất nước. Mặc dù trong 19 tiêu chí về xây dựng nông thôn mới chỉ có 2 tiêu chí về văn hóa, nhưng đó là động lực quan trọng để đạt được các tiêu chí còn lại, đáp ứng chuẩn nông thôn mới và phát triển bền vững. Muốn phát huy vai trò, sức mạnh của văn hóa, đưa văn hóa trở thành nền tảng tinh thần và động lực của xây dựng nông thôn mới, cần dự báo được các nhân tố tác động đến sự biến đổi văn hóa và hệ quả của biến đổi văn hóa đối với quá trình phát triển nông thôn mới ở nước ta, từ đó đề ra các chủ trương, chính sách phù hợp.
1. Các nhân tố tác động đến sự biến đổi văn hóa và các giá trị văn hóa
Văn hóa là những giá trị do con người sáng tạo ra nhằm xây dựng và phát triển xã hội. Con người là chủ thể sáng tạo ra văn hóa, đồng thời cũng là mục tiêu của phát triển văn hóa. Sự phát triển của nhân loại nói chung, suy cho cùng, là sự phát triển của văn hóa và ngược lại, văn hóa không ngừng biến đổi cùng với sự phát triển của tiến trình lịch sử. Văn hóa và các giá trị của văn hóa chịu sự tác động mạnh mẽ của các nhân tố sau đây:
Về tình hình thế giới trong những năm tới, Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh: “Thế giới đang trải qua những biến động to lớn, diễn biến rất nhanh chóng, phức tạp, khó dự báo”(1). Về tổng thể, các mâu thuẫn cơ bản vẫn tồn tại và phát triển dưới nhiều hình thức và mức độ khác nhau. Hòa bình, hợp tác, liên kết và phát triển vẫn là xu thế chủ đạo nhưng cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn rất phức tạp, gay gắt, cục diện đa cực ngày càng rõ nét. Toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế tiếp tục được đẩy mạnh nhưng cũng gặp nhiều trở ngại, thách thức do sự gia tăng của chủ nghĩa dân túy, chủ nghĩa dân tộc cực đoan và chính sách bảo hộ mậu dịch. Hợp tác giữa các nước ASEAN vẫn tiếp tục được duy trì, củng cố nhưng cũng tiềm ẩn nguy cơ bị chia rẽ do tác động từ bên ngoài và lợi ích của mỗi quốc gia. Đại dịch Covid-19 để lại hậu quả nặng nề, ảnh hưởng nghiêm trọng tới tất cả các lĩnh vực trên phạm vi toàn cầu sẽ còn kéo dài sang những năm đầu của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2021-2030 của Việt Nam.
Trong khi đó, “Phát triển trở thành xu thế bao trùm trên thế giới; kinh tế số, kinh tế tuần hoàn, tăng trưởng xanh đang là mô hình phát triển được nhiều quốc gia lựa chọn”(2). Khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và Cách mạng công nghiệp 4.0 phát triển mạnh mẽ, tạo nhiều đột phá, tác động sâu rộng đến các lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó có văn hóa. Công nghệ số sẽ làm thay đổi phương thức sáng tạo, sản xuất, kinh doanh, đặc biệt là văn hóa tiêu dùng, cả ở nông thôn và đô thị. Xu thế đô thị hóa và phát triển đô thị thông minh, đô thị sáng tạo ngày càng gia tăng, mang lại cả cơ hội và thách thức cho phát triển văn hóa.
Biến đổi khí hậu, suy thoái môi trường, cạn kiệt tài nguyên, sử dụng nguồn nước xuyên biên giới, cùng với các vấn đề an ninh phi truyền thống ngày càng gia tăng, đặt ra nhiều thách thức lớn đối với mỗi quốc gia - dân tộc.
Ở trong nước, đường lối đổi mới của Đảng tiếp tục được khẳng định, kế thừa và phát triển ở Đại hội XIII. Việc triển khai Nghị quyết Đại hội XIII sẽ tạo những động lực mới để phát triển kinh tế - xã hội. Mục tiêu phát triển mà Đại hội XIII nêu ra là: “phát triển nhanh và bền vững đất nước; bảo đảm gắn kết chặt chẽ và triển khai đồng bộ các nhiệm vụ, trong đó: Phát triển kinh tế - xã hội là trung tâm; xây dựng Đảng là then chốt; phát triển văn hóa là nền tảng tinh thần; bảo đảm quốc phòng, an ninh là trọng yếu, thường xuyên”(3). Việc triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó có đường lối phát triển văn hóa và con người Việt Nam sẽ tác động mạnh mẽ đến quá trình biến đổi văn hóa của đất nước theo chiều hướng tích cực.
Quy mô, tiềm lực, sức cạnh tranh của nền kinh tế từng bước được nâng lên. Kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định, niềm tin của cộng đồng doanh nghiệp và xã hội gia tăng. Chất lượng tăng trưởng kinh tế được cải thiện, cơ cấu kinh tế chuyển đổi theo hướng gắn với mô hình tăng trưởng nhanh và bền vững. Các đột phá chiến lược được triển khai tích cực để tạo động lực cho kinh tế phát triển bền vững. Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa từng bước được hoàn thiện theo hướng hiện đại, đồng bộ và hội nhập, trọng tâm là tạo lập môi trường cạnh tranh bình đẳng, minh bạch, thuận lợi. Phát triển vùng, kinh tế biển, đô thị, xây dựng nông thôn mới đạt được những bước tiến rõ rệt, tiến tới chủ trương đẩy mạnh xây dựng hạ tầng số.
Kinh tế Việt Nam hội nhập sâu rộng hơn vào nền kinh tế thế giới, đặc biệt là sau khi gia nhập một số hiệp định FTA thế hệ mới. Khu vực kinh tế tư nhân ngày càng đóng góp lớn vào phát triển kinh tế đất nước, trong tương lai sẽ hình thành một số tập đoàn tư nhân mang thương hiệu Việt Nam trên quy mô quốc tế.
Tuy nhiên, trong những năm tới, nền kinh tế nước ta vẫn phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức như: nguy cơ mắc bẫy thu nhập trung bình và khả năng tụt hậu xa hơn về kinh tế; độ mở của nền kinh tế ngày càng lớn khiến các biến động tiêu cực của nền kinh tế thế giới tác động đến kinh tế trong nước càng nhanh và mạnh hơn. Những yếu kém nội tại của nền kinh tế chậm được khắc phục; năng lực tiếp cận với nền kinh tế số còn hạn chế. Các yếu tố nền tảng như kết cấu hạ tầng, nguồn nhân lực... để đưa Việt Nam sớm trở thành một nước công nghiệp hiện đại còn thấp so với yêu cầu. Do đó, nguồn lực đầu tư của Nhà nước cho phát triển hạ tầng văn hóa còn khó khăn.
Các lĩnh vực văn hóa - xã hội, môi trường, an ninh, đối ngoại tiếp tục được quan tâm và có chuyển biến tích cực. Tầng lớp trung lưu trong xã hội tăng nhanh. Thành quả xây dựng nông thôn mới tiếp tục được củng cố và góp phần quan trọng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân.
Tuy nhiên, trong những năm tới, các vấn đề văn hóa - xã hội cũng gây áp lực đến sự phát triển bền vững đất nước. Đó là tình trạng già hóa dân số, sự chênh lệch giàu - nghèo, khoảng cách phát triển giữa các vùng, miền gia tăng. Tác động của thiên tai, dịch bệnh, biến đổi khí hậu, nước biển dâng ngày càng nhanh với cường độ mạnh, khó lường. Tác động của thiên tai có thể phá hủy các công trình văn hóa mới cũng như làm biến dạng các di sản văn hóa. Đặc biệt, ảnh hưởng của dịch bệnh Covid-19 có thể còn kéo dài, gây tác động tiêu cực đến phát triển kinh tế - xã hội, nhất là trong lĩnh vực phát triển văn hóa - du lịch. Nhiệm vụ bảo vệ độc lập, chủ quyền, bảo đảm an ninh quốc gia trong thời gian tới còn nhiều thách thức. Tình hình an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội trên một số địa bàn còn diễn biến phức tạp. Tình trạng suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên là yếu tố làm suy giảm niềm tin của nhân dân vào chính sách của Nhà nước.
2. Dự báo xu thế biến đổi các giá trị văn hóa trong giai đoạn từ nay đến năm 2030
Đại hội XIII của Đảng đã xác định phương hướng chủ đạo của Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021-2030 là: “Khơi dậy khát vọng phát triển đất nước, phát huy mạnh mẽ giá trị văn hóa, con người Việt Nam và sức mạnh thời đại, huy động mọi nguồn lực, phát triển nhanh và bền vững trên cơ sở khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số; phấn đấu đến năm 2030 là nước đang phát triển có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao và đến năm 2045 trở thành nước phát triển, thu nhập cao”(4). Thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của Đại hội XIII sẽ tác động đến sự biến đổi các giá trị văn hóa từ nay đến năm 2030 theo các hướng sau:
Thứ nhất, xu thế đề cao các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc, địa phương
Gắn liền với sự tìm về và đề cao các giá trị văn hóa truyền thống là xu thế khôi phục và phát huy các giá trị văn hóa dân tộc, khẳng định bản sắc văn hóa địa phương. Việc sưu tầm, lưu giữ, bảo quản và trùng tu, khai khác các giá trị văn hóa vật thể và phi vật thể ở địa phương ngày càng được chú trọng. Đây là quá trình người dân gìn giữ, vun đắp mối quan hệ với cộng đồng, làng xã, khẳng định truyền thống, bản sắc và niềm tự hào về địa phương trong bối cảnh CNH, HĐH và hội nhập quốc tế. Tinh thần yêu nước, truyền thống đoàn kết, tính cộng đồng được cụ thể hóa thông qua các hoạt động văn hóa cộng đồng, các hoạt động tôn vinh giá trị văn hóa truyền thống của quê hương, đất nước. Các phong tục, tập quán cổ xưa được khôi phục như trang phục cổ truyền, nghi lễ truyền thống trong lễ hội, khao vọng, cúng tế, cưới hỏi, hội đoàn. Hệ thống đình chùa, lăng tẩm, bia mộ, các di tích lịch sử, văn hóa... được tôn tạo, tu bổ to đẹp, uy nghi hơn. Sự khôi phục và phát huy các giá trị truyền thống chính là nhân tố bảo đảm duy trì tính liên tục. Theo Giáo sư Trần Quốc Vượng: Nhân tố quan trọng nhất để duy trì tính liên tục phát triển và duy trì tính dân tộc của bản sắc văn hóa là lối sống (style of life). “Một sự thay đổi lối sống trong một bộ phận nào đó của cộng đồng là sự xuất hiện những hẫng hụt (gaps) trong cộng đồng ấy”(5).
Thứ hai, xu thế hướng ngoại, hội nhập quốc tế
Hướng ngoại, hướng ra khu vực và quốc tế xu là hướng khách quan khi Việt Nam ngày càng tích cực, chủ động hội nhập quốc tế. Xu thế này dẫn tới sự biến đổi mạnh mẽ các giá trị văn hóa theo hướng hợp tác và hội nhập. Về giá trị xã hội, dân chủ, công bằng, hiệu quả, an toàn, hợp tác, chia sẻ và nhân văn là các giá trị đã và đang được định hình và phổ biến trong thời gian tới. Về giá trị cá nhân, các đức tính, phẩm chất tốt đẹp của con người Việt Nam được đề cao là yêu nước, nhân ái, nghĩa tình, trung thực, đoàn kết, cần cù, sáng tạo.
Bên cạnh những tác động tích cực, xu thế hướng ngoại cũng dẫn đến sự biến đổi giá trị theo hướng tiêu cực. Đó là một số biểu hiện chuyển đổi từ việc đề cao nghĩa tình, thủy chung sang đề cao sự duy lý; từ đề cao tính cộng đồng, lòng nhân ái, bao dung sang chủ nghĩa cá nhân vị kỷ, sẵn sàng hy sinh lợi ích của cộng đồng vì lợi ích cá nhân; từ đề cao giá trị tinh thần sang đề cao giá trị vật chất; từ lối sống thân thiện với xã hội và môi trường sang lối sống ích kỷ, xa rời cộng đồng và hủy hoại môi trường, từ đề cao trách nhiệm xã hội sang đề cao lợi ích cá nhân, lối sống hưởng thụ... Sự biến đổi về giá trị, nhìn chung diễn ra phức tạp, đan xen cả mặt tích cực và tiêu cực.
Thứ ba, xu thế đa dạng hóa, chuyên nghiệp hóa và linh hoạt hóa gắn liền với đổi mới sáng tạo trong văn hóa.
Con người ngày càng hướng tới việc đề cao sự khác biệt, đặc thù, đơn nhất, chú trọng tính sáng tạo của cá nhân và các nhóm xã hội trong hoạt động văn hóa, đề cao tính chuyên nghiệp, tính linh hoạt, giàu khả năng thích ứng, đáp ứng nhanh với sự biến đổi nhu cầu văn hóa của xã hội và thời đại công nghệ số. Sự biến đổi các giá trị văn hóa này tập trung vào lĩnh vực công nghiệp văn hóa như điện ảnh, nghệ thuật biểu diễn, triển lãm, điêu khắc, hội họa, tổ chức sự kiện, du lịch văn hóa giải trí,... Xu thế đa dạng hóa, chuyên nghiệp hóa và linh hoạt hóa liên quan chặt chẽ đến đổi mới, sáng tạo dựa trên sự phát triển của khoa học - công nghệ, nhất là cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0. Sự biến đổi của các giá trị này sẽ tạo ra nhiều sản phẩm văn hóa mới, đáp ứng nhu cầu đa dạng của công chúng.
Thứ tư, xu hướng gắn kết văn hóa với kinh tế; khai thác tài nguyên, nguồn lực văn hóa để phát triển kinh tế - xã hội
Xu hướng gắn kết chặt chẽ giữa văn hóa với kinh tế; khai thác tài nguyên, nguồn lực văn hóa để phát triển kinh tế - xã hội đã tạo nên sự thay đổi trong định hướng giá trị văn hóa. Cái đúng, cái hay, cái đẹp của sản phẩm văn hóa được kết nối với hiệu quả kinh tế trên thị trường văn hóa. Giá trị tổng hợp của các sản phẩm văn hóa được đo lường cả về hiệu quả kinh tế và xã hội, hướng tới mục tiêu lưu giữ, phát triển, truyền bá các giá trị văn hóa, cũng như gia tăng thu nhập cho người sáng tạo, sản xuất ra sản phẩm.
Các quy luật của kinh tế thị trường phần nào tác động và chi phối quá trình sáng tạo, sản xuất, lưu thông các sản phẩm, dịch vụ văn hóa. Lợi ích kinh tế từ các hoạt động văn hóa là một trong những động lực thu hút các chủ thể, từ cá nhân, doanh nghiệp, cộng đồng xã hội tham gia vào quá trình phát triển văn hóa. Định hướng giá trị kinh tế góp phần thúc đẩy sáng tạo các sản phẩm văn hóa, tìm kiếm ý tưởng, ứng dụng khoa học công nghệ, tạo nên sự sống động của thị trường văn hóa. Tuy nhiên, nó cũng làm nảy sinh các xu hướng tiêu cực như các hành vi bất chấp pháp luật nhằm khai thác lợi nhuận, vi phạm bản quyền, cung cấp các sản phẩm văn hóa kém chất lượng, thiếu thẩm mỹ, phản văn hóa, tác động xấu tới đời sống văn hóa - tinh thần xã hội. Trong bối cảnh đẩy mạnh phát triển kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế, thị trường văn hóa của Việt Nam sẽ có cơ hội hợp tác, giao lưu với các nước trong khu vực và quốc tế, do đó, định hướng giá trị kinh tế trong hoạt động văn hóa ngày càng sôi động và đa dạng hơn.
Thứ năm, xu hướng gắn kết giữa văn hóa và chính trị, tạo định hướng đề cao tinh thần độc lập, tự chủ, tự cường, truyền thống đoàn kết, trách nhiệm trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Các giá trị dân chủ, kỷ cương, minh bạch, trọng dân, vì dân, thực hành luật pháp được đề cao trong hệ thống chính trị, từ trong các tổ chức đảng, cơ quan nhà nước, các đoàn thể chính trị - xã hội. Các chuẩn mực về xây dựng văn hóa trong Đảng, trong cơ quan nhà nước, các đoàn thể chính trị - xã hội tiếp tục được xây dựng, hoàn thiện và thực hành. Tinh thần nêu gương của đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức trong xây dựng văn hóa công vụ tiếp tục được tăng cường, tạo động lực nâng cao hiệu lực, hiệu quả của bộ máy nhà nước từ Trung ương đến cơ sở. Các giá trị văn hóa được lan tỏa và thấm sâu vào đời sống chính trị, góp phần củng cố niềm tin của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, khơi dậy khát vọng và niềm tin của nhân dân vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
3. Tác động của sự biến đổi các giá trị văn hóa đối với phát triển nông thôn mới bền vững
Sự biến đổi văn hóa và các giá trị văn hóa trong thời gian tới có tác động tích cực, góp phần vào quá trình phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng nông thôn mới bền vững.
Xu thế khôi phục và phát huy các giá trị văn hóa cổ truyền góp phần duy trì, bảo lưu các quan hệ xã hội bền vững, giữ gìn các nét đẹp trong phong tục, tập quán, tín ngưỡng truyền thống, gắn kết các quan hệ gia đình, dòng tộc, làng xóm, khơi dậy và đề cao các giá trị đạo đức truyền thống, trọng nghĩa tình, đoàn kết, chia sẻ, giúp đỡ lẫn nhau trong xóa đói, giảm nghèo, phát triển kinh tế, khắc phục những rủi ro do thiên nhiên và dịch bệnh gây ra.
Xu thế hướng ngoại, tiếp thu các giá trị văn hóa tích cực và tiến bộ của cộng đồng quốc tế sẽ giúp cho quá trình hiện đại hóa trong xây dựng nông thôn mới bền vững diễn ra nhanh hơn, có khả năng thích ứng nhanh với sự biến đổi của môi trường quốc tế. Việc đổi mới tư duy trong tổ chức và quản lý kinh tế và xã hội, kết nối với thị trường trong nước và quốc tế, tạo động lực mới cho các chủ thể ở nông thôn nâng cao năng lực và mở rộng cơ hội phát triển. Những tri thức và kinh nghiệm quốc tế được vận dụng sáng tạo vào xây dựng nông thôn mới (thí dụ kinh nghiệm làng mới ở Hàn Quốc) sẽ góp phần rút ngắn thời gian xây dựng nông thôn mới bền vững ở Việt Nam.
Xu hướng tôn trọng sự đa dạng hóa và tính linh hoạt của văn hóa góp phần khuyến khích đổi mới sáng tạo, nâng cao tính chuyên nghiệp của các hoạt động văn hóa, thể thao, du lịch ở nông thôn, khắc phục chủ nghĩa kinh nghiệm, tính tùy tiện, đại khái trong tổ chức sản xuất, quản lý xã hội và phát triển văn hóa. Đồng thời, xu hướng này góp phần thúc đẩy sự năng động, linh hoạt trong xây dựng nông thôn mới bền vững, khắc phục tâm lý bảo thủ, trì trệ, chậm đổi mới, ngại thay đổi.
Xu hướng gắn kết văn hóa với kinh tế sẽ góp phần đề cao giá trị kinh tế của văn hóa, phát huy vai trò của văn hóa đối với sự phát triển kinh tế - xã hội. Các địa phương từ cấp tỉnh đến cấp xã ở nông thôn hệ thống hóa các nguồn lực văn hóa, từ đó tìm giải pháp khai thác, phát huy các giá trị văn hóa trong phát triển kinh tế - xã hội. Các di sản văn hóa vật thể và phi vật thể ở các địa phương là tài sản vô giá, tạo lợi thế trong phát triển, tăng trưởng kinh tế, xây dựng nông thôn mới bền vững.
Xu hướng gắn kết văn hóa với chính trị sẽ giúp các giá trị văn hóa thấm sâu và lan tỏa trong hệ thống chính trị, góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước ở khu vực nông thôn, góp phần xây dựng kỷ cương, nền nếp trong công tác quản lý kinh tế, xã hội, duy trì sự ổn định chính trị - xã hội, chống lại các tiêu cực và tệ nạn xã hội, tạo lập môi trường tinh thần lành mạnh cho nông thôn mới bền vững. Nhìn một cách tổng quát, xu hướng vận động biến đổi của văn hóa và các giá trị văn hóa trong thời gian tới sẽ có tác động mạnh mẽ, toàn diện đối với quá trình xây dựng nông thôn mới bền vững. Đây là một trong những cơ hội mà các chủ thể trong xây dựng nông thôn mới cần nắm bắt và tìm ra giải pháp để phát huy ưu thế từ những tác động này nhằm tạo động lực để phát triển nông thôn mới bền vững ở từng địa phương.
Cùng với những tác động tích cực, những biến đổi văn hóa và giá trị văn hóa sẽ có những tác động tiêu cực đến quá trình xây dựng nông thôn mới bền vững:
Xu thế khôi phục và phát huy các giá trị văn hóa cổ truyền ở nông thôn có thể dẫn đến tình trạng khôi phục tràn lan, thiếu chọn lọc, kể cả những yếu tố lạc hậu, tiêu cực. Thí dụ một số hủ tục, lễ nghi rườm rà, tập quán cũ, không còn phù hợp trong tang ma, cưới xin, giỗ chạp, lễ hội... ở vùng nông thôn, vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi.
Xu hướng hướng ngoại dễ dẫn đến tình trạng sao chép, học theo các “hiện tượng” từ bên ngoài, thờ ơ với các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc và địa phương, đề cao lối sống vị kỷ, tiếp thu không chọn lọc các sản phẩm văn hóa từ bên ngoài, kể cả các sản phẩm độc hại. Giới trẻ ở nông thôn là đối tượng chịu ảnh hưởng lớn từ những tác động tiêu cực này, thông qua internet, điện thoại di động, các trò chơi điện tử... Do đó, giáo dục, nâng cao tri thức văn hóa và thẩm mỹ để thanh thiếu niên nông thôn chủ động, tích cực tiếp nhận có chọn lọc các sản phẩm văn hóa, khắc phục tâm lý “đám đông”, bắt chước một cách tự phát là vấn đề lớn hiện nay.
Xu thế đề cao sự đa dạng, khác biệt, đề cao tính đặc thù quá mức sẽ dẫn đến tình trạng phủ định cái chung, cái phổ biến, quay về tư tưởng khép kín, cục bộ. Tuy nhiên, tôn trọng sự đa dạng, khác biệt và tính đặc thù của các hoạt động văn hóa địa phương không có nghĩa là từ bỏ việc tiếp thu, học tập kinh nghiệm tốt từ bên ngoài, phủ nhận những giá trị phổ biến. Vì vậy, trong quá trình xây dựng nông thôn mới bền vững, cần lưu ý đến mối quan hệ biện chứng giữa cái đặc thù và cái phổ biến. Tôn trọng sự đa dạng nhưng phải bảo đảm tính thống nhất chung của nền văn hóa, chống xu hướng biệt lập và đối lập.
Xu hướng đề cao giá trị kinh tế của các hoạt động văn hóa và các sản phẩm văn hóa có thể dẫn đến tình trạng tuyệt đối hóa giá trị kinh tế của văn hóa. Việc tìm mọi cách tăng lợi nhuận trong hoạt động văn hóa có thể dẫn đến tình trạng sản xuất các sản phẩm văn hóa kém chất lượng, sản phẩm giả mạo, chạy theo thị hiếu tầm thường, gây ảnh hưởng tiêu cực đến xã hội. Mặt khác, việc chạy theo lợi ích kinh tế có thể dẫn đến tình trạng khai thác quá mức các di sản văn hóa./.
____________________________________________________
(1), (2), (3), (4) ĐCSVN (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, T.1, tr.105, 207, 33-34, 206.
(5) Trần Quốc Vượng (2003), Văn hóa Việt Nam - Tìm tòi và suy ngẫm, Nxb. Văn học, Hà Nội,, tr.99.
Nguồn: Bài đăng trên Tạp chí Lý luận chính trị số 5.2021
Bài liên quan
- Hệ thống chính trị Việt Nam truyền thống và hiện đại từ góc nhìn đổi mới
- Tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả
- Giữ gìn và bảo vệ giá trị văn hóa truyền thống các dân tộc ít người, góp phần củng cố, phát triển khối đại đoàn kết toàn dân tộc
- Xu hướng hòa bình, hợp tác, phát triển trên thế giới và vai trò của Việt Nam hiện nay
- Phát huy vai trò của ngành công nghiệp xuất bản trong việc gìn giữ bản sắc văn hóa dân tộc
Xem nhiều
- 1 Video Tư liệu: Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông 30 năm xây dựng và phát triển
- 2 Sử dụng công nghệ trí tuệ nhân tạo trong sản xuất chương trình truyền hình
- 3 Giữ gìn và bảo vệ giá trị văn hóa truyền thống các dân tộc ít người, góp phần củng cố, phát triển khối đại đoàn kết toàn dân tộc
- 4 Phát triển nguồn nhân lực ở tỉnh Bến Tre: Thực trạng và giải pháp
- 5 Sử dụng ChatGPT trong việc cải thiện kỹ năng viết cho sinh viên học tiếng Anh
- 6 Lễ kỷ niệm và Hội thảo khoa học “30 năm - Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông”
Liên kết
- Báo điện tử đảng cộng sản việt nam
- Báo nhân dân
- Báo Quân đội nhân dân
- Cổng thông tin điện tử Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Cổng thông tin điện tử Học viện Chính trị quốc gia hồ chí minh
- Tạp chí Cộng sản
- Tạp chí Giáo dục lý luận
- Tạp chí Giáo dục và Xã hội
- Tạp chí Khoa học xã hội và Nhân văn
- Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam
- Tạp chí Lý luận chính trị
- Tạp chí Nghiên cứu con người
- TẠP CHÍ Nghiên cứu dân tộc
- Tạp chí Người làm báo
- Tạp chí Nội chính
- Tạp chí Quản lý Nhà nước
- Tạp chí Tổ chức Nhà nước
- Tạp chí Tuyên giáo
- Tạp chí Xây Dựng Đảng
- Thư viện số Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Trang thông tin điện tử Hội đồng Lý luận Trung ương
Xây dựng phẩm chất nghề nghiệp người làm báo theo tư tưởng Hồ Chí Minh trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay
Chủ tịch Hồ Chí Minh là nhà báo vĩ đại, tấm gương sáng ngời để chúng ta thường xuyên học tập và noi theo. Trong bối cảnh cuộc cách mạng khoa học và công nghệ truyền thông, báo mạng điện tử ngày càng phát triển mạnh mẽ, báo chí truyền thống đứng trước cơ hội và thách lớn. Báo chí nước ta là vũ khí tư tưởng quan trọng của Đảng và Nhà nước, diễn đàn của nhân dân, góp phần to lớn vào thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Bài viết sau đây trình bày cơ sở lý luận và thực tiễn của việc xây dựng phẩm chất nghề nghiệp người làm báo trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay, đồng thời hưởng ứng cuộc vận động “Tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức và phong cách Hồ Chí Minh”, góp phần xây dựng nền báo chí Việt Nam chuyên nghiệp, nhân văn, hiện đại theo chủ trương của Đại hội lần thứ XIII của Đảng. Đây cũng là một trong những nhiệm vụ quan trọng của công tác tư tưởng, lý luận và báo chí của Đảng, đáp ứng yêu cầu cấp bách và có ý nghĩa cơ bản, lâu dài đối với sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta.
Hệ thống chính trị Việt Nam truyền thống và hiện đại từ góc nhìn đổi mới
Hệ thống chính trị Việt Nam truyền thống và hiện đại từ góc nhìn đổi mới
Nhìn toàn bộ tiến trình lịch sử chính trị của dân tộc, “Hệ thống chính trị” nước ta dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là một thiết chế chính trị mạnh, mô hình này phù hợp với hoàn cảnh Việt Nam và đúng với quy luật vận động của lịch sử. Và, cũng từ thực tế lịch sử, có thể thấy sức mạnh thực sự của Hệ thống chính trị mà chúng ta đang có chủ yếu không phải do tính chất nhất nguyên mà là do uy tín của Đảng, Nhà nước và lãnh tụ Hồ Chí Minh. Sức sống của hệ thống chính trị là sự phù hợp, thống nhất giữa mục đích của Đảng với nguyện vọng của nhân dân, với nhu cầu phát triển của đất nước. Hệ thống chính trị Việt Nam đương đại, trên cơ sở kết tinh các giá trị thiết chế truyền thống gắn với hiện đại không ngừng đổi mới phát triển khẳng định sức mạnh của Hệ thống tổ chức quyền lực Chính trị Việt Nam có vai trò quyết định thành công xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN.
Tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả
Tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả
Xây dựng tổ chức bộ máy hiệu lực, hiệu quả là công việc khó khăn, phức tạp, đòi hỏi sự đoàn kết, thống nhất, dũng cảm, sự hy sinh của từng cán bộ, đảng viên cùng với quyết tâm rất cao của toàn Đảng, cả hệ thống chính trị, trước hết là người đứng đầu cấp ủy, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và đoàn thể các cấp. Tạp chí Cộng sản trân trọng giới thiệu bài viết của đồng chí Tổng Bí thư Tô Lâm về xây dựng hệ thống chính trị với tiêu đề: “Tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả”:
Giữ gìn và bảo vệ giá trị văn hóa truyền thống các dân tộc ít người, góp phần củng cố, phát triển khối đại đoàn kết toàn dân tộc
Giữ gìn và bảo vệ giá trị văn hóa truyền thống các dân tộc ít người, góp phần củng cố, phát triển khối đại đoàn kết toàn dân tộc
Với cộng đồng 54 dân tộc anh em, Việt Nam là quốc gia có nền văn hóa đa dạng, phong phú, có những nét riêng, trở thành tài sản quý giá làm nên bản sắc văn hóa Việt Nam độc đáo, đặc sắc. Giữ gìn và bảo vệ các giá trị di sản văn hóa truyền thống chính là góp phần củng cố phát triển khối đại đoàn kết dân tộc - một sức mạnh nội sinh to lớn và vĩ đại, làm nên mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam, dưới lá cờ vẻ vang của Đảng.
Xu hướng hòa bình, hợp tác, phát triển trên thế giới và vai trò của Việt Nam hiện nay
Xu hướng hòa bình, hợp tác, phát triển trên thế giới và vai trò của Việt Nam hiện nay
Trong bối cảnh hiện nay sự cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn, chạy đua vũ trang, các cuộc xung đột tôn giáo, sắc tộc vẫn diễn ra ở nhiều nơi, đặc biệt là cuộc xung đột quân sự giữa Nga và Ukraina ở Đông Âu, giữa Israel và Palestine vùng các tổ chức hồi giáo ở Trung Đông diễn biến ngày càng căng thẳng đe dọa tới hòa bình, an ninh khu vực và thế giới. Tuy vậy, hòa bình, hợp tác và phát triển vẫn là mục tiêu hướng tới của các nước, là xu hướng chính trị -xã hội tất yếu của nhân loại, từ đó đặt ra vai trò, trách nhiệm của các quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam.
Bình luận