Tầm nhìn thời đại và tư duy độc lập, sáng tạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh trên hành trình tìm đường cứu nước, giải phóng dân tộc
Nhân tố thôi thúc quyết tâm ra đi tìm đường cứu nước của Chủ tịch Hồ Chí Minh
Truyền thống gia đình, đặc biệt là nhân cách và những tư tưởng tiến bộ của cụ thân sinh Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc chính là cội nguồn cho chí hướng cách mạng và hoài bão ra đi tìm đường cứu nước, cứu dân của Nguyễn Tất Thành - Nguyễn Ái Quốc. Nguyễn Tất Thành sinh ra và lớn lên trên quê hương Nghệ An giàu truyền thống văn hiến và cách mạng. Không chỉ giàu truyền thống hiếu học, cần cù trong lao động, trọng tình nghĩa trong cuộc sống, người dân nơi đây còn giàu truyền thống yêu nước, kiên cường, bất khuất chống giặc ngoại xâm với nhiều tấm gương lưu sử sách, như Mai Thúc Loan, Nguyễn Biểu, Đặng Dung, Phan Đình Phùng, Phan Bội Châu, Hoàng Xuân Hành, Nguyễn Sinh Quyết...
Chính truyền thống yêu nước tốt đẹp của quê hương, của dân tộc là nền tảng để Nguyễn Tất Thành sau này đã gặp gỡ và tiếp thu chủ nghĩa Mác - Lênin, tinh hoa tư tưởng, văn hóa của nhân loại, một học thuyết khoa học, cách mạng triệt để nhất, qua đó thể hiện tầm nhìn rộng mở mang tính thời đại của Người trong hành trình đi tìm đường cứu nước.
Những tư tưởng tiến bộ của các thầy giáo, các bậc sĩ phu yêu nước đã tiếp thêm sức mạnh và thôi thúc người thanh niên Nguyễn Tất Thành ra đi tìm đường cứu nước. Nhờ những ảnh hưởng của các thầy giáo tân học và những trang sách báo tiến bộ mà ý muốn sang phương Tây để tìm hiểu tình hình các nước và học hỏi thành tựu văn minh nhân loại đã từng bước lớn dần lên trong tâm trí của Nguyễn Tất Thành. Thực tiễn Việt Nam khi đó là nhân tố tác động và ảnh hưởng trực tiếp đến quyết định ra đi tìm đường cứu nước của Nguyễn Tất Thành.
Vào giữa thế kỷ XIX, thực dân Pháp tiến hành chiến tranh xâm lược Việt Nam. Chính sách thuộc địa của thực dân Pháp ở Việt Nam là chuyên chế về chính trị, bóc lột nặng nề về kinh tế, kìm hãm và nô dịch về văn hóa. Dưới ách thống trị và bóc lột của thực dân Pháp, Việt Nam từ một chế độ phong kiến độc lập chuyển thành chế độ thuộc địa, mất hẳn chủ quyền, phụ thuộc vào thực dân Pháp; kinh tế bị kìm hãm nặng nề, mâu thuẫn xã hội ngày càng tăng và gay gắt; người dân lâm vào cảnh đói nghèo, khổ ải, lầm than.
Thực dân Pháp ra sức vơ vét tài nguyên của đất nước; bọn quan lại đặt ra đủ các thứ thuế, bọn hào lý thì tham nhũng vô độ, bóc lột nhân dân không thương tiếc. Trước tình hình chính trị - xã hội như vậy, nhiều phong trào đấu tranh yêu nước nổ ra, như phong trào chống Pháp ở Nam Kỳ (1861 - 1868), phong trào Cần Vương ở Trung Kỳ và Bắc Kỳ (1885 - 1895), khởi nghĩa Yên Thế ở Bắc Kỳ (1885 - 1913)…, nhưng đều bị thực dân Pháp đàn áp dã man và bị thất bại. Đầu thế kỷ XX, các sĩ phu yêu nước tiếp thu trào lưu tư tưởng mới, tiến hành cuộc vận động cứu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản…, nhưng cũng không thành công. Sự nghiệp giải phóng dân tộc lâm vào tình trạng khủng hoảng sâu sắc về đường lối.
Tiếp thu truyền thống yêu nước của gia đình và quê hương, người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành sớm có chí đánh đuổi thực dân Pháp, giải phóng đồng bào thoát khỏi cảnh nô lệ, lầm than. Người rất khâm phục tinh thần yêu nước nhưng không tán thành con đường cứu nước của các bậc tiền bối và chính điều này đã thôi thúc Nguyễn Tất Thành ra đi tìm con đường cứu nước mới cho dân tộc. Và cũng chính lòng yêu nước vô bờ bến ấy là cội nguồn sức mạnh giúp Người vượt qua mọi khó khăn nơi đất khách quê người để tìm ra con đường cứu nước, giải phóng dân tộc.
Tầm nhìn thời đại của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong hành trình tìm đường cứu nước
Với tầm nhìn rộng mở, Nguyễn Ái Quốc đã đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, trở thành người cộng sản, chiến sĩ quốc tế xuất sắc, tìm thấy con đường cứu nước duy nhất đúng đắn cho dân tộc Việt Nam. Quyết định sang Pháp là một quyết định có ý nghĩa lịch sử, thể hiện rõ tầm nhìn rộng mở, sẵn sàng tìm hiểu và học hỏi thế giới phương Tây, tiếp xúc, tiếp thu nền văn minh, tinh hoa trí tuệ của nhân loại. Người tham gia nhiều sự kiện lớn của thế giới, ủng hộ các cuộc cách mạng xã hội, đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân, đế quốc, giành độc lập dân tộc và tham gia các buổi diễn thuyết của nhiều nhà chính trị và triết học; tiếp xúc văn hóa và các danh nhân văn hóa, chính trị của Pháp, tiếp xúc với những tư tưởng nhân đạo, nhân văn qua văn học Pháp, Nga, Anh, Mỹ,…
Tại Pari (lúc này được coi là “trung tâm liên minh thế giới của bọn đế quốc”), Người đã có một bước phát triển mới trong nhận thức về con đường cứu nước, giải phóng dân tộc khi tiếp nhận ảnh hưởng của Cách mạng Tháng Mười Nga vĩ đại năm 1917. Từ năm 1911 đến năm 1920, bằng việc khảo cứu các nước thuộc địa và các nước tư bản lớn, như Mỹ, Anh, Pháp, Nguyễn Ái Quốc đã có những nhận thức quan trọng trong việc tìm kiếm con đường giải phóng và mô hình thể chế chính trị tương lai cho đất nước. Ngay từ thời niên thiếu, Người đã bộc lộ những phẩm chất giàu lòng nhân ái, ham hiểu biết, có hoài bão lớn, có chí cứu nước,…; những phẩm chất đó đã được rèn luyện và phát huy trong quá trình hoạt động cách mạng của Người. Nhờ vậy, giữa nhiều học thuyết, quan điểm khác nhau, Người đã phân tích, lựa chọn để cuối cùng đi tới chân lý: “Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin”(1).
Cuối năm 1917, mặc dù vừa hoạt động chính trị, vừa phải kiếm sống một cách chật vật, nhưng Nguyễn Ái Quốc vẫn lạc quan, say sưa học tập, nghiên cứu Cách mạng Mỹ (năm 1776), Cách mạng Pháp (năm 1789), Cách mạng Nga (năm 1917). Người rút ra kết luận rằng: Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc, không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản. Năm 1919, Nguyễn Ái Quốc gia nhập Đảng Xã hội Pháp. Tháng 7.1920, Người sung sướng khi đọc “Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa” của V.I.Lênin. Luận cương đã mở ra cánh cửa để Người đến với chủ nghĩa Mác - Lênin và cách mạng vô sản.
Cuối năm 1920, tại Đại hội Đảng Xã hội Pháp, với việc bỏ phiếu tán thành gia nhập Quốc tế Cộng sản và là một trong những người tham gia thành lập Đảng Cộng sản Pháp, Người khẳng định sự lựa chọn dứt khoát, đứng hẳn về chủ nghĩa Mác - Lênin và Quốc tế Cộng sản.
Với tầm nhìn thời đại, Người đã làm sáng rõ con đường cách mạng Việt Nam, soi đường, chỉ lối cho Đảng và dân tộc ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Cuộc tìm kiếm con đường cứu nước của Nguyễn Tất Thành - Nguyễn Ái Quốc đã thể hiện tầm nhìn thời đại trong việc xác lập, kiến tạo mô hình xã hội gắn với các thiết chế hiện đại. Người đã tiếp thu tư tưởng tiến bộ từ các nước lớn của phương Tây, như Mỹ, Anh, Pháp để tạo nên mô hình thể chế chính trị tương lai cho đất nước. Đó là mô hình Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Thể chế chính trị Việt Nam dân chủ cộng hòa là mô hình nhà nước mà ở đó, quyền lực thuộc về nhân dân, một thể chế chính trị - xã hội của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Mô hình thể chế đó là động lực, là ngọn cờ thôi thúc toàn thể dân tộc Việt Nam vùng lên làm nên cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, xác lập một thể chế chính trị - xã hội mới, vì mục tiêu độc lập dân tộc, dân quyền và dân sinh, tự do, hạnh phúc.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gắn con đường phát triển của dân tộc Việt Nam với xu thế thời đại, theo quy luật khách quan của lịch sử. Độc lập dân tộc phải đi đôi với tự do và hạnh phúc của nhân dân và gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Xã hội xã hội chủ nghĩa là một xã hội đáp ứng ngày càng cao và toàn diện mọi nhu cầu chính đáng, hợp pháp của người dân; là xã hội do quần chúng nhân dân xây dựng nên, vì vậy, mang tính tập thể, cộng đồng sâu sắc. Những cống hiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với dân tộc đã thể hiện phẩm chất của một bậc đại trí, đại nhân, đại dũng, mở ra thời đại rực rỡ nhất trong lịch sử dân tộc ta.
Tư duy độc lập, sáng tạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong công cuộc giải phóng dân tộc
Ngay từ khi sống tại Pháp và sang nước Anh, Nguyễn Ái Quốc đã tiếp thu rất nhiều nền văn hóa, hấp thụ những tư tưởng dân chủ; từ đó, hình thành phong cách dân chủ từ thực tiễn cuộc sống. Tại nơi đất khách, Người học được cách làm việc dân chủ ngay trong sinh hoạt khoa học của Câu lạc bộ Phô-bua, trong sinh hoạt chính trị của Đảng Xã hội Pháp. Nhờ được rèn luyện trong phong trào công nhân Pháp và sự cổ vũ, dìu dắt trực tiếp của nhiều nhà cách mạng và trí thức tiến bộ Pháp (M.Cachin, P.V.Couturier, G.Monmousseau,..), Nguyễn Ái Quốc đã từng bước trưởng thành, làm giàu trí tuệ của mình bằng vốn trí tuệ của thời đại, cả văn hóa phương Đông và phương Tây, vừa thâu thái, vừa gạn lọc để có thể từ tầm cao của tri thức nhân loại mà suy nghĩ, lựa chọn, kế thừa và đổi mới, vận dụng sáng tạo vào thực tiễn cách mạng Việt Nam.
Trong 10 năm đầu (1911 - 1920) của quá trình bôn ba tìm đường cứu nước, Nguyễn Ái Quốc đã hoàn thiện vốn văn hóa, chính trị và thực tiễn phong phú, tạo thành một bản lĩnh trí tuệ, nâng cao khả năng độc lập, tự chủ, sáng tạo ở Người, khi tiếp thu và vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin phù hợp với hoàn cảnh và điều kiện cụ thể của Việt Nam lúc bấy giờ.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng một cách sáng tạo lý luận về cách mạng vô sản của chủ nghĩa Mác - Lênin vào cuộc cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam. Đối với một đất nước thuộc địa, một dân tộc bị áp bức, Người khẳng định: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”(2). Cuộc cách mạng vô sản ở đây không chỉ là cuộc đấu tranh giai cấp, mà còn là cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, một phạm trù của cách mạng vô sản.
Chánh cương vắn tắt của Đảng (năm 1930), do Chủ tịch Hồ Chí Minh soạn thảo, đã khẳng định: “Làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”(3). Làm tư sản dân quyền cách mạng đánh đổ thực dân Pháp xâm lược đem lại độc lập dân tộc. Làm thổ địa cách mạng là đánh đổ bọn phong kiến, địa chủ đem lại ruộng đất cho dân cày (sau này, cả hai cuộc cách mạng cùng tiến hành song song ấy được gọi là cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân). Đây là điều hoàn toàn phù hợp với yêu cầu của cách mạng Việt Nam, do Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng một cách sáng tạo lý luận về cách mạng không ngừng, lý luận về thời cơ và tình thế cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin.
Vận dụng một cách sáng tạo tư tưởng liên minh công - nông của chủ nghĩa Mác - Lênin vào thực tiễn cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh coi công - nông là gốc của cách mạng, còn trí thức tiểu tư sản là bầu bạn của công - nông. Đối với mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam, dù trong đấu tranh giành độc lập dân tộc hay trong xây dựng và bảo vệ chủ nghĩa xã hội dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, liên minh công - nông - trí thức là nhân tố đóng vai trò quyết định. Sự sáng tạo, độc lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh còn thể hiện trong việc vận dụng quan điểm về vai trò quần chúng nhân dân của chủ nghĩa Mác - Lênin vào tình hình cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam, mà trọng tâm chính là khối đại đoàn kết toàn dân tộc; về vai trò của quần chúng nhân dân trong cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam.
Người khẳng định: “Quần chúng là những người sáng tạo, công nông là những người sáng tạo. Nhưng, quần chúng không phải chỉ sáng tạo ra những của cải vật chất cho xã hội. Quần chúng còn là người sáng tác nữa”(4). Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng một cách sáng tạo vấn đề dân tộc của chủ nghĩa Mác - Lênin vào cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở Việt Nam. Thông qua Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến ngày 19.12.1946 và Lời kêu gọi toàn quốc chống đế quốc Mỹ cứu nước (năm 1967), một lần nữa, Người khẳng định tinh thần độc lập dân tộc và bản chất nhân dân của cách mạng Việt Nam trong xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và tiến hành cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ, cứu nước ở miền Nam tiến tới thống nhất đất nước, với khẩu hiệu “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”. Đó chính là sự kế thừa và phát huy tinh thần độc lập dân tộc của dân tộc ta trong thời đại mới.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo lý luận về vấn đề xây dựng đảng cầm quyền của chủ nghĩa Mác - Lênin vào việc xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam: “Đảng ta là một đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”(5).
Người cũng đã vận dụng sáng tạo lý luận về nhà nước vô sản vào tình hình cách mạng Việt Nam, xây dựng nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Theo Người, “trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân. Trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân”(6). Tất cả quyền bính trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam, không phân biệt nòi giống, gái - trai, giàu - nghèo, giai cấp. Nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân không phải nhà nước “siêu giai cấp”, mà là nhà nước do Đảng Cộng sản - đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo, được tổ chức và hoạt động trong khuôn khổ của Hiến pháp và pháp luật, thể hiện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân.
Sự sáng tạo trong tư tưởng Hồ Chí Minh về quan hệ giữa dân tộc và giai cấp, giải phóng dân tộc và giải phóng giai cấp là một trong những nhân tố bảo đảm thành công của cách mạng Việt Nam. Đó cũng là một trong những đóng góp xuất sắc của Người vào lý luận cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin. Tư tưởng Hồ Chí Minh về quan hệ giữa dân tộc và giai cấp, giữa giải phóng dân tộc và giải phóng giai cấp là hoàn toàn đứng vững trên lập trường mác-xít. Người đã phát triển và vận dụng hết sức sáng tạo lý luận mác-xít vào cách mạng ở các nước thuộc địa, nhất là với cách mạng Việt Nam. Không phải ngẫu nhiên mà Người khẳng định: “Chủ nghĩa dân tộc là động lực lớn của đất nước”(7).
Theo đó, “thời đại của chúng ta là thời đại văn minh, thời đại cách mạng, mọi việc càng phải dựa vào lực lượng của tập thể, của xã hội; cá nhân càng không thể đứng riêng lẻ mà càng phải hòa mình trong tập thể, trong xã hội”(8); “chúng ta phải đoàn kết lại đánh đổ bọn đế quốc và bọn Việt gian đặng cứu giống nòi ra khỏi nước sôi lửa nóng”(9). Người nhấn mạnh, giải phóng dân tộc và độc lập dân tộc phải được giải quyết trên lập trường giai cấp vô sản. Nếu không giành được độc lập dân tộc thì không thể giải phóng giai cấp, không thể nói đến cuộc sống ấm no, hạnh phúc của nhân dân. Cách mạng giải phóng dân tộc phải phát triển thành cách mạng xã hội chủ nghĩa thì mới giành được thắng lợi hoàn toàn. Chỉ có kết hợp độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội, gắn cuộc đấu tranh của nước mình với trào lưu cách mạng của thế giới mới tạo ra được sức mạnh to lớn để bảo vệ độc lập dân tộc và phát triển tiến bộ xã hội.
Từ khi ra đời đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam, do Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại sáng lập và rèn luyện, đã lãnh đạo cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Đó là thắng lợi của các cuộc kháng chiến oanh liệt để giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc, đánh thắng chủ nghĩa thực dân cũ và mới, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, thống nhất Tổ quốc, thực hiện công cuộc đổi mới, đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội, góp phần quan trọng vào cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập, dân chủ, tiến bộ xã hội và chủ nghĩa xã hội./.
____________________________________
(1) Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, Nxb. CTQG Sự thật, H., T.2, tr.289.
(2) Hồ Chí Minh (2011), Sđd, T.12, tr.30.
(3),(9) Hồ Chí Minh (2011), Sđd, T.3, tr.1, tr.230
(4),(8) Hồ Chí Minh (2011), Sđd, T.11, tr. 559, tr.600.
(5) Hồ Chí Minh (2011), Sđd, T.15, tr. 611 - 612.
(6) Hồ Chí Minh (2011), Sđd, T.10, tr. 453.
(7) Hồ Chí Minh (2011), Sđd, T.1, tr. 511.
Nguồn: Bài đăng trên Tạp chí Cộng sản điện tử ngày 3.9.2021
Bài liên quan
- Tác phẩm của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tiếp cận từ góc độ học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh
- Đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, nâng cao đạo đức cách mạng - điều kiện để xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong giai đoạn hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về “đẩy mạnh giáo dục đạo đức cách mạng”, tăng cường xây dựng văn hoá Đảng
- Trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên theo tư tưởng Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay
- Nét đặc sắc trong tư tưởng Hồ Chí Minh về nâng cao dân trí
Xem nhiều
- 1 Mạch Nguồn số 56: Dấu ấn về mùa thu lịch sử
- 2 Chuẩn cơ sở giáo dục đại học của Học viện Báo chí và Tuyên truyền: Đánh giá và giải pháp, kiến nghị
- 3 Giáo dục văn hoá doanh nghiệp cho người lao động trong các doanh nghiệp nhỏ và vừa - góc nhìn từ thực tiễn thành phố Hà Nội hiện nay
- 4 Toàn văn phát biểu của đồng chí Tổng Bí Thư, Chủ tịch nước tại Lễ kỷ niệm 75 năm Ngày truyền thống Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh và đón nhận Huân chương Lao động Hạng Nhất
- 5 Tổ chức hoạt động truyền thông tại một số công ty du lịch vừa và nhỏ tại Việt Nam: Những hạn chế, thách thức và giải pháp
- 6 Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh kỷ niệm 75 năm truyền thống và đón nhận Huân chương Lao động hạng Nhất
Liên kết
- Báo điện tử đảng cộng sản việt nam
- Báo nhân dân
- Báo Quân đội nhân dân
- Cổng thông tin điện tử Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Cổng thông tin điện tử Học viện Chính trị quốc gia hồ chí minh
- Tạp chí Cộng sản
- Tạp chí Giáo dục lý luận
- Tạp chí Giáo dục và Xã hội
- Tạp chí Khoa học xã hội và Nhân văn
- Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam
- Tạp chí Lý luận chính trị
- Tạp chí Nghiên cứu con người
- TẠP CHÍ Nghiên cứu dân tộc
- Tạp chí Người làm báo
- Tạp chí Nội chính
- Tạp chí Quản lý Nhà nước
- Tạp chí Tổ chức Nhà nước
- Tạp chí Tuyên giáo
- Tạp chí Xây Dựng Đảng
- Thư viện số Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Trang thông tin điện tử Hội đồng Lý luận Trung ương
Các cơ quan báo Đảng tham gia hiệu quả hơn bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng
Tổng Biên tập Báo Nhân Dân, Chủ tịch Hội Nhà báo Việt Nam Lê Quốc Minh cho rằng, phải có những giải pháp tổng thể, đồng bộ nhằm nâng cao hơn nữa chất lượng hoạt động của các cơ quan báo Đảng trong tình hình mới, đảm bảo các cơ quan báo Đảng tham gia ngày càng hiệu quả hơn vào công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong bối cảnh hiện nay.
Tác phẩm của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tiếp cận từ góc độ học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh
Tác phẩm của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tiếp cận từ góc độ học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh
Cuốn sách "Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam" của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng là công trình lý luận kết tinh trí tuệ của Đảng và nhân dân Việt Nam; là sự quán triệt, thể hiện và khẳng định nội dung, giá trị tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Cuốn sách cũng đồng thời hàm chứa những chỉ dẫn sâu sắc, quý báu đối với việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh.
Đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, nâng cao đạo đức cách mạng - điều kiện để xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong giai đoạn hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh
Đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, nâng cao đạo đức cách mạng - điều kiện để xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong giai đoạn hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh
Là người sáng lập và lãnh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Theo Người, xây dựng, chỉnh đốn Đảng không tách rời cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân. Đây là cuộc đấu tranh không kém phần cam go, quyết liệt, lâu dài và gian khổ để xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, hoàn thành sứ mệnh lịch sử vẻ vang của mình.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về “đẩy mạnh giáo dục đạo đức cách mạng”, tăng cường xây dựng văn hoá Đảng
Tư tưởng Hồ Chí Minh về “đẩy mạnh giáo dục đạo đức cách mạng”, tăng cường xây dựng văn hoá Đảng
Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập, tổ chức, xây dựng và rèn luyện đã lãnh đạo nhân dân Việt Nam tiến hành cách mạng giành độc lập, thống nhất nước nhà xây dựng chủ nghĩa xã hội. Nhấn mạnh đến sự lớn mạnh của Đảng, trong bài phát biểu kỷ niệm 30 năm ngày thành lập Đảng năm 1960, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khái quát và khẳng định “Đảng ta là đạo đức, là văn minh”(1). Điều này có ý nghĩa khẳng định, rằng những thắng lợi to lớn của cách mạng Việt Nam giành được trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất nước nhà và xây dựng chủ nghĩa xã hội, trong đó, với những thành tựu to lớn của công cuộc đổi mới đất nước 35 năm qua, cũng chính là thành tựu to lớn có được từ việc luôn củng cố và xây dựng một Đảng trong sạch, vững mạnh toàn diện trên cơ sở của việc không ngừng “đẩy mạnh giáo dục đạo đức cách mạng (2) nền tảng của xây dựng văn hoá Đảng, tạo nên sức mạnh nội sinh cho năng lực lãnh đạo và cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam trong suốt chặng đường hơn 90 năm kể từ khi thành lập đến nay.
Trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên theo tư tưởng Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay
Trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên theo tư tưởng Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay
Xuất phát từ vai trò, vị thế, sứ mệnh lãnh đạo giai cấp và dân tộc của Đảng Cộng sản Việt Nam, tiên phong là “thuộc tính” hàng đầu của người đảng viên chân chính. Yêu cầu phát triển của cách mạng nước ta hiện nay đòi hỏi sự nêu gương, tiên phong của mỗi đảng viên phải trở thành ý thức tự giác cao độ. Trên cơ sở phân tích quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về trách nhiệm nêu gương và thực trạng vấn đề nêu gương của cán bộ, đảng viên hiện nay, tác giả đề xuất nội dung và giải pháp thực hiện nhằm đưa phương thức nêu gương trở thành văn hóa của Đảng, để Đảng mãi mãi đồng hành và xứng đáng là lực lượng tiên phong lãnh đạo toàn dân tộc.
Bình luận