Thực hiện công bằng xã hội theo tư tưởng Hồ Chí Minh hướng tới mục tiêu phát triển con người bền vững
Nhân loại ngày nay đang đặt ra mục tiêu phát triển con người bền vững, thực chất cũng chính là việc coi con người là trung tâm, là điểm khởi đầu đồng thời là cái đích của sự phát triển. Theo đó, con người phải được tạo điều kiện để mở rộng khả năng cống hiến, sống tốt hơn, lâu hơn, tránh được bệnh tật, nắm được kho tàng trí thức nhân loại, quan tâm tới sự phát triển của các thế hệ sau… Việc thực hiện CBXH chính là một trong những điều kiện quan trọng để đảm bảo mục tiêu phát triển con người bền vững. Sinh thời, Hồ Chí Minh luôn trăn trở về các vấn đề của con người, các công việc liên quan đến con người. Mang thân phận một người dân mất nước, chứng kiến những bất công trong xã hội, được trang bị lý luận tiên tiến, Hồ Chí Minh sớm nhận rõ vai trò của CBXH đối với sự phát triển con người. Người đã đấu tranh không mệt mỏi để xóa bỏ mọi áp bức bất công, giành lấy quyền được sống, được mưu cầu hạnh phúc, được phát triển cho con người. Hồ Chí Minh cũng đề ra những yêu cầu, định hướng chiến lược cho việc thực hiện công bằng trong xã hội mới, hướng tới mục tiêu đảm bảo sự phát triển ổn định, bền vững của con người.
Hồ Chí Minh quan niệm thực hiện CBXH là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu trong quá trình xây dựng xã hội mới, nó chính là mục tiêu, đồng thời, là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Nhiệm vụ này cần được thực hiện ngay khi đất nước còn đang trong hoàn cảnh khó khăn thiếu thốn, chưa có được sự thỏa mãn đầy đủ của các điều kiện vật chất. Quan điểm phát triển con người bền vững hiện nay cũng khẳng định sự giàu có không phải là điều kiện trước tiên để đạt được một số mục tiêu quan trọng của loài người, nó cũng không phải là sự đảm bảo cho xã hội phát triển ổn định. Yêu cầu về tri thức, văn hóa, cơ hội thể hiện năng lực, quyền biểu đạt ý kiến tham gia vào các công việc xã hội, mong muốn gìn giữ tương lai tốt đẹp cho thế hệ sau không thể đạt được khi chỉ có điều kiện kinh tế.
Theo Báo cáo Phát triển con người năm 1995 của UNDP, bốn thành tố đảm bảo cho sự phát triển bền vững con người được xác định gồm:
Thứ nhất, tăng cường năng lực và sức khỏe để con người có thể tham gia đầy đủ vào cuộc sống, tăng cường năng lực để con người có thể tiến hành các hoạt động có năng suất cao và sáng tạo.
Thứ hai, mọi người đều có cơ hội tiếp nhận phần chia sẻ công bằng nguồn lợi do tăng trưởng kinh tế mang lại, đó là sự bình đẳng về cơ hội.
Thứ ba, sự phát triển con người hiện tại phải đảm bảo không gây tác động tiêu cực đến các thế hệ tương lai.
Thứ tư, các thành viên của xã hội cần có sự tham gia vào sự phát triển, tham gia vào quyết định và xây dựng các qui trình tác động tới cuộc sống của họ.
Về thành tố thứ nhất, tăng cường năng lực và sức khỏe là yêu cầu quan trọng nhất để đảm bảo phát triển con người bền vững. Chỉ khi con người có năng lực và sức khỏe thì mới tận dụng được các cơ hội để lao động sáng tạo và cống hiến một cách hiệu quả.
Năng lực của con người được thúc đẩy phát triển thông qua giáo dục. Giáo dục sẽ quyết định tới sự tăng trưởng của kinh tế, phát triển văn hóa, thể hiện sự công bằng về cơ hội cho mỗi người. Hồ Chí Minh sớm nhận định vai trò quan trọng của giáo dục: “Trình độ văn hóa của nhân dân nâng cao sẽ giúp chúng ta đẩy mạnh công cuộc khôi phục kinh tế, phát triển dân chủ. Nâng cao trình độ văn hóa của nhân dân cũng là một việc cần thiết để xây dựng nước ta thành một nước hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh”(1). Đầu tư cho con người chính là đầu tư cho tương lai, con người có phát triển bền vững thì chúng ta mới có một mô hình tổng thể xã hội phát triển bền vững. Giáo dục không chỉ đào tạo ra nhân tài mà còn trang bị cho con người đạo lý làm người, tình cảm đồng loại,… Người luôn nhấn mạnh nước ta còn nghèo nhưng phải cố gắng đầu tư vào sự nghiệp đào tạo con người. Ta chắt chiu từng đồng xu nhưng không được bủn xỉn trong sự nghiệp giáo dục.
Theo Hồ Chí Minh, phải đảm bảo sự công bằng trong giáo dục để mọi người đều có cơ hội tiếp cận. Trong “Lời kêu gọi nhân dân” Người đã đề ra yêu cầu thực hành giáo dục toàn dân. Ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành là mong muốn bức thiết của Người. Nó xóa nhòa ranh giới giữa các giai cấp, tầng lớp, dân tộc, tôn giáo… Muốn phổ cập giáo dục, Người khẳng định cần phải đa dạng hóa các loại hình đào tạo, cần có sự hỗ trợ có tính toán, xem xét kỹ lưỡng của Nhà nước. Khi viết “Mười chính sách của Việt Minh”, Người chỉ rõ: “Thanh niên có trường học nhiều, chính phủ trợ cấp trò nghèo, bần nho”(2).
Phát triển thể chất con người cũng là cơ sở quan trọng để tăng cường năng lực tiếp thu kiến thức. Sức khỏe tốt, tuổi thọ cao cho thấy mức độ cải thiện chất lượng cuộc sống của con người. Bản thân Hồ Chí Minh luôn chú trọng tới việc rèn luyện thể lực và nhắc nhở nhân dân quan tâm tới sức khỏe: “Giữ gìn dân chủ, xây dựng nước nhà, gây đời sống mới, việc gì cũng cần có sức khỏe mới làm thành công… Tôi mong đồng bào ta ai cũng gắng tập thể dục. Tự tôi, ngày nào cũng tập”(3).
Những tình cảm của Hồ Chí Minh đối với con người Việt Nam càng sâu sắc thì Người càng đòi hỏi phải tạo ra những cơ hội công bằng, bình đẳng cho họ tự khẳng định mình, cơ hội để tiếp cận các nguồn lực do tăng trưởng kinh tế mang lại. Bác nhấn mạnh: “Tài to ta dùng làm việc to, tài nhỏ ta cất làm việc nhỏ. Ai có năng lực làm việc gì ta đặt ngay vào việc ấy”(4). Điều này liên quan đến việc xây dựng và thực thi các chính sách kinh tế và chính sách xã hội. Hồ Chí Minh cho rằng phải xử lý thật tốt mối quan hệ giữa chính sách kinh tế và chính sách xã hội, trong đó, điều cốt lõi nhất là quan tâm đến các nhu cầu tất yếu, cơ bản của người dân, đảm bảo cho họ được hưởng sự công bằng. Trong phiên họp của Bộ Chính trị bàn về kế hoạch 5 năm lần thứ nhất, Bác yêu cầu phải làm thế nào để giải quyết vấn đề ăn mặc của quần chúng được tốt hơn nữa, đừng để cho tình hình đời sống căng thẳng quá, nhà máy cũng cần có sớm, nhưng cần hơn cả là con người, là sự phấn khởi của quần chúng. Làm tất cả cho con người, làm cho quần chúng hiểu đúng chủ nghĩa xã hội hơn. Các chính sách của Đảng và chính phủ phải hết sức chăm nom đến đời sống nhân dân. Người vạch rõ: “Nếu dân đói, Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân rét là Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân dốt là Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân ốm, là Đảng và Chính phủ có lỗi”(5).
Trong lĩnh vực kinh tế, phải tạo cơ hội cho mọi người tiếp cận nguồn vốn, kỹ thuật và công nghệ,… Bên cạnh đó, Nhà nước phải tích cực thông qua các chính sách đầu tư, phân bổ nguồn lực, hỗ trợ phát triển cho những vùng kinh tế kém lợi thế hơn. Để mở rộng cơ hội, Hồ Chí Minh thừa nhận và tôn trọng các loại hình sở hữu và các thành phần kinh tế nhằm khai thác mọi tiềm năng và phát huy tính chủ động sáng tạo của các chủ thể kinh tế trong thời kỳ quá độ: “Trong chế độ dân chủ mới, có năm loại kinh tế khác nhau: kinh tế quốc doanh; các hợp tác xã; kinh tế của cá nhân, nông dân và thủ công; tư bản tư nhân; tư bản nhà nước”(6). Nhà nước điều tiết thu nhập qua các chính sách thuế nhằm thu hẹp khoảng cách giàu nghèo, khắc phục những bất công tự nhiên.
Hệ thống chính sách xã hội cần được hoạch định sát với thực tiễn và triển khai một cách có hiệu quả: “Chúng ta phải ra sức thực hiện những cải cách xã hội để nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện dân chủ thực sự”(7). Các chính sách xã hội phải hướng tới tạo cơ hội cho người nghèo, thương binh liệt sỹ: “Chúng ta phải hết sức chăm lo đến đời sống của nhân dân, nhất là đời sống của các cháu, của gia đình thương binh, liệt sỹ, đời sống của nhân dân ở những vùng địch bắn phá nhiều… những gia đình thu nhập thấp và đông con…”(8). Những trăn trở về các chính sách xã hội luôn thường trực trong suy nghĩ của Hồ Chí Minh, đến những năm tháng cuối cùng của cuộc đời, Người tiếp tục hoạch định tỉ mỉ những việc Đảng và Nhà nước cần quan tâm đối với từng đối tượng cụ thể trong xã hội trong bản Di chúc.
Như vậy, hệ thống chính sách của Nhà nước sẽ tạo điều kiện cho mọi thành viên trong xã hội có cơ hội phát triển, bảo đảm cho các thành viên được tham gia vào cơ chế thị trường, cạnh tranh lành mạnh, khắc phục những bất công tự nhiên và bất công do lịch sử để lại. Chỉ khi cuộc sống của người dân ở các vùng kém phát triển được cải thiện, sự chênh lệch giàu nghèo giữa thành thị và nông thôn, giữa miền núi và miền xuôi dần dần được thu hẹp thì CBXH mới được thực thi trong hiện thực. Đó cũng chính là gốc rễ bền vững của CBXH, đảm bảo cho tương lai lâu bền của sự phát triển con người.
Muốn phát triển con người bền vững thì không chỉ cần chú ý đến hiện tại mà quan trọng hơn là sự phát triển của các thế hệ tương lai. Tất cả các quyết sách dù liên quan trực tiếp hay gián tiếp đến con người (vấn đề nguồn nhân lực, môi trường, tài nguyên thiên nhiên…) đều phải tuân thủ nguyên tắc này mới đảm bảo sự phát triển bền vững con người. Với tầm nhìn dài hạn, Hồ Chí Minh khẳng định những việc làm của chúng ta phải tính toán được lợi ích của các thế hệ tương lai, có định hướng, chiến lược rõ ràng. Người viết: “Ta xây dựng con người cũng phải có ý định rõ ràng như nhà kiến trúc. Định xây dựng ngôi nhà như thế nào rồi mới dùng gạch, vữa, vôi cát, tre nứa… mà xây nên”(9). Đây là cách nhìn nhận vấn đề tổng thể, rõ ràng và dài hạn. Hay Người vẫn thường nói: Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây. Vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người.
Hồ Chí Minh nhận định con người chính là chủ thể tích cực cải tạo tự nhiên, xây dựng xã hội mới. Quá trình cải tạo ấy gắn chặt chẽ với gìn giữ, bảo vệ tự nhiên. Hồ Chí Minh viết: “Việt Nam ta có hai tiếng Tổ quốc, ta cũng gọi Tổ quốc là đất nước, có đất và có nước, thì mới thành Tổ quốc. Có đất lại có nước thì dân giàu, nước mạnh”(10). Người nhắc nhở chúng ta phải ra sức bảo vệ nguồn tài nguyên quí giá, thế hệ trước thỏa mãn nhu cầu của mình phải chuẩn bị tốt cho thế hệ sau phát triển. Gìn giữ môi trường sống, không khai thác cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên là yêu cầu cần thiết để thế hệ sau không bị sự phát triển hiện tại làm tổn hại. Hồ Chí Minh cũng luôn coi trọng nhiệm vụ đào tạo thế hệ kế cận, đảm bảo sự kế thừa, tiếp nối chính là cơ sở cho sự phát triển con người bền vững. Người chỉ ra: “Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc quan trọng và cần thiết”(11).
Để có được sự đồng thuận thực hiện mục tiêu xây dựng một xã hội tốt đẹp không chỉ trong hiện tại mà còn cho nhiều thế hệ tương lai, hay nói khác đi, sự phát triển này phải bền vững thì phải tạo được niềm tin, động lực cho con người phấn đấu. Điều này có nghĩa là việc đảm bảo CBXH là vô cùng cần thiết. CBXH chính là nền tảng cho sự ổn định của xã hội và là động lực thúc đẩy con người hành động vì sự phát triển xã hội. Hồ Chí Minh đã căn dặn ngay trong những năm tháng khi cuộc sống còn hết sức thiếu thốn, gian khổ trong chiến tranh “Không sợ thiếu chỉ sợ không công bằng. Không sợ nghèo chỉ sợ lòng dân không yên”(12).
Việc các thành viên của xã hội cần phải tham gia vào sự phát triển cũng được Hồ Chí Minh quan tâm nhấn mạnh. Theo Hồ Chí Minh, con người không thể mưu cầu hạnh phúc bằng việc thụ động ngồi chờ đợi mà phải bắt tay vào cải tạo hiện thực để giành lấy thành quả. Thông qua hoạt động thực tiễn, con người cải tạo thế giới, hoàn thiện bản thân, thực hiện mục tiêu của mình. Người khẳng định: “Chỉ có thực hành mới là mực thước đúng nhất cho sự hiểu biết của con người về thế giới”(13). Nhà nước có nhiệm vụ “phát triển quyền dân chủ và sinh hoạt chính trị của toàn dân, để phát huy quyền tích cực và sáng tạo của nhân dân, làm cho mọi công dân Việt Nam thực sự tham gia giải quyết công việc nhà nước”(14). Người luôn yêu cầu nhân dân phải phát huy quyền lực của mình thông qua việc kiểm tra, giám sát các hoạt động của cơ quan, tổ chức và cán bộ mà họ bầu ra: “Chính phủ ta là chính phủ của dân chỉ có mục đích là ra sức phục vụ lợi ích của nhân dân. Chính phủ rất mong đồng bào giúp đỡ, đôn đốc, kiểm soát và phê bình để làm tròn nhiệm vụ của mình là người đầy tớ trung thành tận tụy của nhân dân”(15). Công dân phải luôn ý thức được họ có quyền làm chủ nước nhà thì cũng phải có nghĩa vụ đối với nước nhà: “Nhân dân lao động là những người chủ tập thể của tất cả những của cải vật chất và văn hóa, đều bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ”(16). Việc thực thi nghĩa vụ của công dân chính là phải nhiệt tình tham gia vào mọi vấn đề đang đặt ra vì sự phát triển hiện tại và tương lai.
Tóm lại, nền tảng cơ bản nhất của phát triển con người bền vững là phải phát triển năng lực của con người, tạo ra sự bình đẳng trong cơ hội tiếp cận nguồn lực do tăng trưởng kinh tế mang lại. Bên cạnh đó, làm thế nào để sự phát triển con người hiện tại không phương hại đến con người trong tương lai, tăng cường mức độ tham gia của người dân vào các hoạt động xã hội cũng là một yêu cầu quan trọng, đồng thời, là thách thức cho sự phát triển con người bền vững. Việc hoạch định chiến lược cho con người để đảm bảo đáp ứng đầy đủ các thành tố của sự phát triển con người bền vững đòi hỏi sự đồng tâm hiệp lực của các lực lượng xã hội và dựa trên triết lý nhân văn khi đưa ra các quyết sách.
Đối với Hồ Chí Minh, con người luôn là trung tâm của sự phát triển. Thực hiện CBXH cũng chính là nhằm mục đích đảm bảo cho sự phát triển con người bền vững. Qua phân tích mối quan hệ này, chúng ta không chỉ thấy được khát vọng giải phóng con người, đem lại tự do, công bằng, hạnh phúc cho con người của Hồ Chí Minh, mà còn thấy được tầm nhìn xa trông rộng của Người khi hoạch định chiến lược phát triển con người mà ngày nay Đảng, Nhà nước và Nhân dân ta vẫn đang tiếp tục thực hiện vì sự phát triển con người bền vững./.
_____________________________________
(1) Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, Nxb. CTQG, T.10, tr. 458-459.
(2) Hồ Chí Minh (2011), Sđd, T.3, tr. 458-459.
(3), (4) Hồ Chí Minh (2011), Sđd, T.4, tr. 241, 43.
(5), (7), (15) Hồ Chí Minh (2011), Sđd, T.9, tr. 518, 3, 81.
(6) Hồ Chí Minh (2011), Sđd, T.8, tr. 293.
(8) Hồ Chí Minh (2011), Sđd, T.14, tr. 294
(9), (11), (12) Hồ Chí Minh (2011), Sđd, T.15, tr. 665, 612, 224.
(10), (14) Hồ Chí Minh (2011), Sđd, T.12, tr. 283, 374.
(16) Hồ Chí Minh (2011), Sđd, T. 13, tr. 66.
Nguồn: Bài đăng trên Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông số tháng 2.2021
Bài liên quan
- Hệ thống chính trị Việt Nam truyền thống và hiện đại từ góc nhìn đổi mới
- Tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả
- Giữ gìn và bảo vệ giá trị văn hóa truyền thống các dân tộc ít người, góp phần củng cố, phát triển khối đại đoàn kết toàn dân tộc
- Xu hướng hòa bình, hợp tác, phát triển trên thế giới và vai trò của Việt Nam hiện nay
- Phát huy vai trò của ngành công nghiệp xuất bản trong việc gìn giữ bản sắc văn hóa dân tộc
Xem nhiều
- 1 Video Tư liệu: Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông 30 năm xây dựng và phát triển
- 2 Sử dụng công nghệ trí tuệ nhân tạo trong sản xuất chương trình truyền hình
- 3 Giữ gìn và bảo vệ giá trị văn hóa truyền thống các dân tộc ít người, góp phần củng cố, phát triển khối đại đoàn kết toàn dân tộc
- 4 Phát triển nguồn nhân lực ở tỉnh Bến Tre: Thực trạng và giải pháp
- 5 Sử dụng ChatGPT trong việc cải thiện kỹ năng viết cho sinh viên học tiếng Anh
- 6 Lễ kỷ niệm và Hội thảo khoa học “30 năm - Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông”
Liên kết
- Báo điện tử đảng cộng sản việt nam
- Báo nhân dân
- Báo Quân đội nhân dân
- Cổng thông tin điện tử Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Cổng thông tin điện tử Học viện Chính trị quốc gia hồ chí minh
- Tạp chí Cộng sản
- Tạp chí Giáo dục lý luận
- Tạp chí Giáo dục và Xã hội
- Tạp chí Khoa học xã hội và Nhân văn
- Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam
- Tạp chí Lý luận chính trị
- Tạp chí Nghiên cứu con người
- TẠP CHÍ Nghiên cứu dân tộc
- Tạp chí Người làm báo
- Tạp chí Nội chính
- Tạp chí Quản lý Nhà nước
- Tạp chí Tổ chức Nhà nước
- Tạp chí Tuyên giáo
- Tạp chí Xây Dựng Đảng
- Thư viện số Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Trang thông tin điện tử Hội đồng Lý luận Trung ương
Uy tín giả- tác hại thật - Bài 3: Ngăn chặn, đẩy lùi uy tín giả
Uy tín giả là một biến thể nguy hại của chủ nghĩa cá nhân, trái ngược với những yêu cầu về phẩm chất đích thực và đạo đức cách mạng. Vì vậy, ngăn chặn, đẩy lùi uy tín giả là loại bỏ những thói hư tật xấu đang ngấm ngầm làm tha hóa cán bộ, đảng viên. Chống uy tín giả cũng là chống chủ nghĩa cá nhân, củng cố uy tín đích thực của người cán bộ, đảng viên, người lãnh đạo.
Hệ thống chính trị Việt Nam truyền thống và hiện đại từ góc nhìn đổi mới
Hệ thống chính trị Việt Nam truyền thống và hiện đại từ góc nhìn đổi mới
Nhìn toàn bộ tiến trình lịch sử chính trị của dân tộc, “Hệ thống chính trị” nước ta dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là một thiết chế chính trị mạnh, mô hình này phù hợp với hoàn cảnh Việt Nam và đúng với quy luật vận động của lịch sử. Và, cũng từ thực tế lịch sử, có thể thấy sức mạnh thực sự của Hệ thống chính trị mà chúng ta đang có chủ yếu không phải do tính chất nhất nguyên mà là do uy tín của Đảng, Nhà nước và lãnh tụ Hồ Chí Minh. Sức sống của hệ thống chính trị là sự phù hợp, thống nhất giữa mục đích của Đảng với nguyện vọng của nhân dân, với nhu cầu phát triển của đất nước. Hệ thống chính trị Việt Nam đương đại, trên cơ sở kết tinh các giá trị thiết chế truyền thống gắn với hiện đại không ngừng đổi mới phát triển khẳng định sức mạnh của Hệ thống tổ chức quyền lực Chính trị Việt Nam có vai trò quyết định thành công xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN.
Tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả
Tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả
Xây dựng tổ chức bộ máy hiệu lực, hiệu quả là công việc khó khăn, phức tạp, đòi hỏi sự đoàn kết, thống nhất, dũng cảm, sự hy sinh của từng cán bộ, đảng viên cùng với quyết tâm rất cao của toàn Đảng, cả hệ thống chính trị, trước hết là người đứng đầu cấp ủy, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và đoàn thể các cấp. Tạp chí Cộng sản trân trọng giới thiệu bài viết của đồng chí Tổng Bí thư Tô Lâm về xây dựng hệ thống chính trị với tiêu đề: “Tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả”:
Giữ gìn và bảo vệ giá trị văn hóa truyền thống các dân tộc ít người, góp phần củng cố, phát triển khối đại đoàn kết toàn dân tộc
Giữ gìn và bảo vệ giá trị văn hóa truyền thống các dân tộc ít người, góp phần củng cố, phát triển khối đại đoàn kết toàn dân tộc
Với cộng đồng 54 dân tộc anh em, Việt Nam là quốc gia có nền văn hóa đa dạng, phong phú, có những nét riêng, trở thành tài sản quý giá làm nên bản sắc văn hóa Việt Nam độc đáo, đặc sắc. Giữ gìn và bảo vệ các giá trị di sản văn hóa truyền thống chính là góp phần củng cố phát triển khối đại đoàn kết dân tộc - một sức mạnh nội sinh to lớn và vĩ đại, làm nên mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam, dưới lá cờ vẻ vang của Đảng.
Xu hướng hòa bình, hợp tác, phát triển trên thế giới và vai trò của Việt Nam hiện nay
Xu hướng hòa bình, hợp tác, phát triển trên thế giới và vai trò của Việt Nam hiện nay
Trong bối cảnh hiện nay sự cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn, chạy đua vũ trang, các cuộc xung đột tôn giáo, sắc tộc vẫn diễn ra ở nhiều nơi, đặc biệt là cuộc xung đột quân sự giữa Nga và Ukraina ở Đông Âu, giữa Israel và Palestine vùng các tổ chức hồi giáo ở Trung Đông diễn biến ngày càng căng thẳng đe dọa tới hòa bình, an ninh khu vực và thế giới. Tuy vậy, hòa bình, hợp tác và phát triển vẫn là mục tiêu hướng tới của các nước, là xu hướng chính trị -xã hội tất yếu của nhân loại, từ đó đặt ra vai trò, trách nhiệm của các quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam.
Bình luận