Thực thi và đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng trên lĩnh vực văn học, nghệ thuật
Đảng lãnh đạo lĩnh vực văn học, nghệ thuật thông qua hệ thống tổ chức Đảng các cấp; thông qua việc phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chính trị - xã hội, nghề nghiệp. Nhà nước đã thể chế hóa chủ trương, đường lối về văn học, nghệ thuật của Đảng thành luật pháp, chính sách, chương trình, kế hoạch phát triển và tổ chức thực hiện theo pháp luật, bảo đảm các hoạt động văn học, nghệ thuật có hiệu lực, hiệu quả; lãnh đạo các cơ quan quản lý nhà nước trên lĩnh vực văn học, nghệ thuật. Các cách thức và phương pháp trên được tiến hành gắn với hai nguyên tắc cơ bản của Đảng trên lĩnh vực văn học, nghệ thuật là: vận động, thuyết phục để tập hợp đội ngũ và dựa vào tính khoa học, tính thực tiễn của vấn đề văn học, nghệ thuật để có những điều chỉnh phù hợp với quá trình phát triển đất nước.
1. Thực thi phương thức lãnh đạo của Đảng trên lĩnh vực văn học, nghệ thuật
Về việc đề ra và bổ sung, phát triển đường lối
Đảng ta coi đường lối, chủ trương về văn học, nghệ thuật là vấn đề quan trọng, việc đánh giá, tổng kết được tiến hành thường xuyên nhằm không ngừng bổ sung, hoàn thiện. Đường lối, quan điểm về văn học, nghệ thuật thời kỳ đổi mới được đánh dấu bằng Nghị quyết 05-NQ/TW của Bộ Chính trị khoá VI về đổi mới và nâng cao trình độ lãnh đạo, quản lý văn học, nghệ thuật và văn hoá, phát huy khả năng sáng tạo, đưa văn học, nghệ thuật và văn hoá phát triển lên một bước mới (1987) và được bổ sung tại Nghị quyết số 04-NQ/HNTW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VII về một số nhiệm vụ văn hóa, văn nghệ những năm trước mắt (1993); Nghị quyết số 03-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII về Xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc (1998), Nghị quyết số 23-NQ/TW của Bộ Chính trị khóa X về “Tiếp tục xây dựng và phát triển văn học, nghệ thuật trong thời kỳ mới” (2008), Nghị quyết số 33-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XI về “Xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước” (2014). Trong đó, hệ thống quan điểm có tính toàn diện của Đảng về văn học, nghệ thuật bao gồm:
Về vị trí, vai trò của văn học, nghệ thuật, Đảng xác định “văn học, nghệ thuật là lĩnh vực rất quan trọng, đặc biệt tinh tế của văn hoá; là nhu cầu thiết yếu, thể hiện khát vọng chân, thiện, mỹ của con người; là một trong những động lực to lớn trực tiếp góp phần xây dựng nền tảng tinh thần của xã hội và sự phát triển toàn diện của con người Việt Nam”(1).
Về mục tiêu văn học, nghệ thuật, Đảng yêu cầu tập trung mọi nguồn lực xây dựng nền văn học, nghệ thuật Việt Nam, xây dựng, phát triển đội ngũ văn nghệ sĩ Việt Nam một cách toàn diện cả về số lượng, chất lượng vớinhiều thế hệ gắn bó sâu sắc với nhân dân các dân tộc, với sự nghiệp đổi mới đấtnước do Đảng lãnh đạo.
Trong thực hiện nhiệm vụ chung về xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc,xây dựng và phát triển con người Việt Nam, Đảng yêu cầu: “Văn học, nghệ thuật Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và hội nhập quốc tế phải phát triển toàn diện và mạnh mẽ, thấm nhuần sâu sắc tinh thần nhân văn, dân chủ… vừa có tác dụng định hướng, vừa đáp ứng nhu cầu văn hoá - tinh thần ngày càng cao của nhân dân…Trên cơ sở giữ gìn, phát triển, phát huy những giá trị của văn học, nghệ thuật dân tộc, tiếp tục mở rộng hợp tác quốc tế, tiếp thu có chọn lọc các giá trị nhân văn, khoa học, tiến bộ của nước ngoài, đồng thời kiên quyết ngăn chặn, làm thất bại âm mưu, thủ đoạn áp đặt, xâm lăng văn hóa của các thế lực thù địch”(2).
Để thực hiện được mục tiêu trên, Đảng đề ra chủ trương, xác định rõ các giải pháp đổi mới, phát triển văn học, nghệ thuật, tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển mạnh mẽ, đa dạng của văn học.Giữ vững nền tảng mỹ học mácxít, tư tưởng Hồ Chí Minh, khuyến khích văn nghệ sĩ bám sát thực tiễn đất nước để sáng tạo nghệ thuật.
Trên phương diện lãnh đạo, Đảng nhấn mạnh yêu cầu đổi mới và nâng cao năng lực, trình độ lãnh đạo của Đảng đối với văn học, nghệ thuật, trong đó yêu cầu chú ý làm rõ, nâng cao nhận thức về vai trò, vị trí, đặc trưng của văn học, nghệ thuật cho cán bộ, đảng viên, đặc biệt là cán bộ lãnh đạo, quan lý trong hệ thống chính trị, cán bộ trực tiếp chỉ đạo, quản lý lĩnh vực nàyđể tạo sự đồng thuận và thống nhất trong hành động ở các cấp.
Yêu cầu xây dựng và đưa vào chương trình đào tạo cán bộ thuộc các trường Đảng nội dung về văn học, nghệ thuật; đưa nhiệm vụ xây dựng và phát triển văn hoá, văn học, nghệ thuật vào quy hoạch, kế hoạch phát triển, chương trình hành động của từng cấp uỷ, chính quyền, từng ngành.
Đồng thời, việc xây dựng cơ chế lãnh đạo, quản lý văn học, nghệ thuật phải bảo đảm tính khoa học và định hướng chính trị; khắc phục những hiện tượng mất dân chủ hoặc can thiệp thô bạo đối với hoạt động văn học, nghệ thuật;cũng như không thả nổi, mà phải phê phán những gì trái ngược giá trị tốt đẹp của dân tộc.
Củng cố tổ chức, đổi mới hoạt động của các Hội văn học, nghệ thuật ở Trung ương và các địa phương nhằm nâng cao khả năng tập hợp, động viên phát huy tiềm năng sáng tạo và phát triển đội ngũ văn nghệ sĩ; nâng cao hiệu quả lãnh đạo của đảng đoàn các hội, quan tâm bồi dưỡng, kết nạp vào Đoàn, vào Đảng những văn nghệ sĩ trẻ tuổi.
Hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, cơ chế, chính sách về văn hóa, về quyền tác giả và các quyền liên quan phù hợp với tính đặc thù,chuẩn mực quốc tế và thực tiễn Việt Nam. Bảo đảm để vǎn học nghệ thuật phát triển đúng định hướng chính trị, tư tưởng của Đảng, vừa bảo đảm quyền tự do, dân chủ cá nhân trong sáng tạo trên cơ sở phát huy tính tự giác cao,với mục đích đúng đắn.
Bám sát tình hình thực tế từng giai đoạn, các quan điểm chỉ đạo về văn học, nghệ thuật của Đảng được bổsung ở nhiều văn kiện, bảo đảm phù hợp với tình hình cũng như từng địa bàn, đơn vị, như:Thông báo Kết luận 213-TB/TW ngày 02.01.2009 của Ban Bí thư về “Đấu tranh chống quan điểm sai trái trong văn học, nghệ thuật”; Chỉ thị 46-CT/TW về “Chống sự xâm nhập của các sản phẩm văn hóa độc hại gây hủy hoại đạo đức xã hội”; Thông báo Kết luận số 94-TB/TW ngày 30.12.2002 và Chỉ thị số 34-CT/TW ngày 17.4.2009 của Ban Bí thư về “Tăng cường cuộc đấu tranh chống âm mưu, hoạt động “diễn biến hòa bình” trên lĩnh vực tư tưởng, văn hóa”.
Văn học, nghệ thuật là lĩnh vực đặc thù, các thế lực cơ hội, phản động, thù địch đã và đang triệt để lợi dụng để thực hiện mưu đồ chính trị, đi ngược lại lợi ích của đất nước và nhân dân ta. Trướcthực tế phứctạp này, Đảng đã chỉ đạo sát sao công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh ngăn chặn,phản bác các quan điểm sai trái thù địch trên lĩnh vực văn học, nghệ thuật theo tinh thầnNghị quyết số 35-NQ/TW ngày 22.10.2018 của Bộ Chính trị khóa XII về "Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh, phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới".
Quan điểm mới nhất được Đảng bổ sung tại dự thảo các văn kiện trình Đại hội XIII yêu cầu tập trung nâng cao chất lượng, hiệu quả của các loại hình văn hoá, văn nghệ: “Chú trọng nâng cao giá trị tư tưởng, nghệ thuật, đồng thời bảo đảm tự do, dân chủ trong sáng tạo văn học, nghệ thuật; khuyến khích những tìm tòi mới làm phong phú thêm bản sắc văn hoá Việt Nam; hạn chế các lệch lạc, các sản phẩm chạy theo thị hiếu tầm thường. Quan tâm, tạo điều kiện phát triển văn hoá, văn nghệ của các dân tộc thiểu số. Tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của các hội văn học, nghệ thuật, tập hợp đông đảo văn nghệ sĩ tham gia tổ chức hội; khuyến khích tự do sáng tạo, thực thi quyền tác giả”(3).
Sự đổi mới tư duy lãnh đạo văn học, nghệ thuật của Đảng từ năm 1986 tới nay đã đáp ứng sự vận động tất yếu của thực tiễn đời sống, tạo sự chuyển hướng chiến lược, xác lập môi trường sáng tạo mới gắn vớikhông gian dân chủvà sự thức tỉnh ý thức cá nhân trên tinh thần nhân bản. Cơ chế mở khiến cho văn học, nghệ thuật nước ta đã có sự tiếp thu các tư tưởng triết học - mỹ học thế giới.
Trong bốicảnh mới, không chỉ văn học, các lĩnh vực nghệthuật như mỹ thuật, điện ảnh, nhiếp ảnh, âm nhạc, kiến trúc… cũng có nhiều tìm tòi mới, đổi mới. Bức tranh văn học, nghệ thuật với 3 khuynh hướng chủ đạo là kế thừa, phát triển truyền thống; cách tân hình thức và khuynh hướng thị trường với nhiều mức độ khác nhau. Không chỉ lên tiếng cảnh báo mặt trái của cơ chế thị trường với lối sống vị kỷ, nhiều tác phẩm nghệ thuật đề cao đạo đức xã hội, trách nhiệm công dân cũng như quyền sống và quyền hạnh phúc của con người. Các vấn đề xã hội và lịch sử được cảm thụ theo cách mới, sâu sắc và thuyết phục hơn. Việc quan tâm thể hiện chức năng giải trí của văn học, nghệ thuật trong điều kiện tự do sáng tạo cũng đã góp phần làm phong phú và đa dạng về nội dung, phong cách, phương thức biểu hiện của văn học, nghệ thuật.
Có thể nói, Đảng đã thực hiện nguyên tắc dựa vào tính khoa học, tính thực tiễn của vấn đề văn học, nghệ thuật để điều chỉnh và đề ra đường lối phù hợp với quá trình phát triển đất nước.
Về thành lập bộ máy các cơ quan tham mưu, chỉ đạo, quản lý ở các cấp
Trong triển khai công tác, Đảng đều có sự phân công trách nhiệm chỉ đạo và phối hợp giữa các cơ quan chủ trì và các bên liên quan, lập các Ban chỉ đạo triển khai các nội dung về văn học, nghệ thuật. Cơ quan tham mưu của Đảng trên lĩnh vực tư tưởng - văn hóa (Ban Tuyên giáo Trung ương) luôn luôn giữ vai trò nòng cốt, có nhiệm vụ liên kết, phối hợp chặt chẽ các lực lượng tham mưu giúp Đảng chỉ đạo, kiểm tra hoạt động văn hóa, văn nghệ.
Triển khai những nội dung quan trọng về văn học, nghệ thuật trong đường lối của Đảng tại Nghị quyết số 23 - NQ/TW của Bộ Chính trị khoá X, Bộ Chính trị đã giao các tỉnh uỷ, thành uỷ, các ban đảng, ban cán sự đảng, đảng đoàn, đảng uỷ trực thuộc Trung ương tổ chức nghiên cứu, học tập Nghị quyết, xây dựng chương trình hành động thực hiện Nghị quyết một cách thiết thực, có hiệu quả. Các cơ quan chủ trì triển khai các hoạt động thực hiện Nghị quyết theo phân công bao gồm: Ban Tuyên giáo Trung ương, Ban cán sự đảng Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch, Ban cán sự đảng Bộ Tài chính và Hội đồng Lý luận phê bình văn học, nghệ thuật Trung ương; Các cơ quan phối hợp chính bao gồm: Văn phòng Trung ương Đảng, Ban Tổ chức Trung ương, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Bộ Nội vụ, Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Ban cán sự đảng Bộ Giáo dục và Đào tạo, Đảng đoàn Uỷ ban toàn quốc Liên hiệp các Hội văn học, nghệ thuật Việt Nam.
Ban Bí thư đã thành lập Ban Chỉ đạo triển khai một số đề án thực hiện Nghị quyết 23 của Bộ chính trị về văn học nghệ thuật, phân công các cơ quan chủ trì xây dựng các đề án,tập trung vào các nội dung: Đưa vấn đề tổ chức và hoạt động của các hội văn học, nghệ thuật vào thành một phần của Nghị định số 88/2003/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung hoặc xây dựng nghị định riêng về các Hội văn học, nghệ thuật; Rà soát, đề xuất xây dựng các chính sách đối với hoạt động văn học, nghệ thuật; Xây dựng kế hoạch nâng cấp, xây mới các công trình văn hoá; Xây dựng thông tư hướng dẫn Luật Sở hữu trí tuệ đối với hoạt động văn học, nghệ thuật; Xây dựng các đề án về Đổi mới, nâng cao chất lượng đào tạo của các trường văn hoá, nghệ thuật; Xây dựng chương trình, nội dung đào tạo về văn học, nghệ thuật trong hệ thống các trường chính trị - hành chính; Tiêu chuẩn, cơ chế lựa chọn, bố trí cán bộ lãnh đạo, quản lý lĩnh vực văn học, nghệ thuật trong thời kỳ mới.
Hội đồng Lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật Trung ương,với chức năng tham mưu cho Đảng về văn học, nghệ thuật,cũng đã đề xuất đề án Xây dựng hệ thống lý luận văn nghệ Việt Nam, chủ trì nghiên cứu các đề tài khoa học cấp Ban Đảng về vấn đề lý luận, phê bình; tổ chức các cuộc hội thảo khoa học quốc gia nhằm làm rõ một số vấn đề lớn về lý luận và thực tiễn trong đời sống văn học, nghệ thuật như: Mối quan hệ giữa văn nghệ với chính trị, giữa hiện thực và nghệ thuật; Tính chủ thể của văn nghệ sĩ, trách nhiệm nghệ sĩ và trách nhiệm công dân; hệ thông chuẩn mực các giá trị văn học, nghệ thuật và hệ thống lý luận mỹ học… góp phần khắc phục lối phê bình võ đoán, quy chụp chính trị hoặc trì trệ, bảo thủ; tham gia tích cực, có hiệu quả trong phòng chống xu hướng cực đoan, đối lập văn nghệ với chính trị, phủ nhận thành tựu văn nghệ cách mạng, phủ nhận sự thật lịch sử, tuyệt đối hóa hình thức nghệ thuật, góp phần định hướng sáng tác và lý luận công chúng.
Hàng năm, Hội đồng Lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật Trung ương đã tổ chức nhiều lớp tập huấn có chất lượng dành cho đội ngũ cán bộ quản lý, văn nghệ sĩ, những người trực tiếp làm công tác lý luận phê bình văn học, nghệ thuật với hàng nghìn lượt học viên tham gia; tổ chức hội nghị những người viết lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật trẻ. Các hội văn học nghê thuật ở Trung ương và địa phương tổ chức nhiều hội nghị, lớp tập huấn bồi dưỡng nghiệp vụ dành cho đội ngũ văn nghệ sĩ.
Nguyên tắc vận động, thuyết phục,tập hợp đội ngũ trong thực hiện đường lối đổi mới văn học, nghệ thuật của Đảng đã phát huy hiệu quả rõ rệt. Hệ thống cơ quan văn học nghệ thuật bao gồm Liên hiệp các Hội văn học, nghệ thuật và 10 Hội chuyên ngành ở Trung ương; 63 Liên hiệp hội và Hội Văn học, nghệ thuật ở các địa phương trên toàn quốc, đã tập hợphàng hàng vạn văn nghệ sĩ, trí thức tham gia trên lĩnh vực văn học, nghệ thuật.
Từ năm 2008 đến nay,các Hội văn học, nghệ thuật chuyên ngành ở Trung ương đã kết nạp được hơn 3.800 hội viên mới, đưa tổng số hội viên của các hội văn học, nghệ thuật chuyên ngành ở Trung ương là 19.000 hội viên; hội văn học, nghệ thuật ở các tỉnh, thành phố gần 23.000 hội viên.
Việc đổi mới hình thức kết nạp hội viên mới được quan tâm, phù hợp với xu thế phát triển mới như kết nạp thêm hội viên danh dự, hội viên liên kết, hội viên cơ sở… (4). Các văn nghệ sĩ có năng lực, trách nhiệm, các hội văn học, nghệ thuật đã có những kiến giải, làm rõ nhiều vấn đề về văn hóa nghệ thuật.
Hoạt động đấu tranh chống quan điểm sai trái trong văn học, nghệ thuật do Hội đồng Lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật Trung ương làm cơ quan thường trực đã tập hợp và tổ chức lực lượng đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái trong lĩnh vực văn học, nghệ thuật. Hiện nay, nội dung này vẫn tiếp tục được triển khai mạnh mẽ.
Như vậy, việc thực hiện công tác văn học, nghệ thuật đã trở thành phương châm, kế hoạch, hành động thường xuyên của cấp uỷ các ban, bộ ngành liên quan, cấp uỷ các cấp, của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức nghề nghiệp. Đảng đã phát huy vai trò của cả hệ thống chính trị trong thực hiện các định hướng văn học, nghệ thuật.
Việc tạo hành lang pháp lý và thực thi các chính sách
Nhà nước thể chế hóa chủ trương, đường lối về văn học, nghệ thuật thành hệ thống luật pháp, chính sách bảo đảm tính hợp pháp, hiệu lực, hiệu quả của các vấn đề thuộc lĩnh vực văn học, nghệ thuật. Các luật liên quan trực tiếp tới văn học, nghệ thuật (Luật Điện ảnh; Luật Di sản văn hóa, Luật Sở hữu trí tuệ, Luật Báo chí, Luật Xuất bản...); Các văn bản hướng dẫn quy định chế độ phụ cấp ưu đãi nghề nghiệp và chế độ bồi dưỡng đối với người làm việc trong lĩnh vực nghệ thuật biểu diễn, chế độ nhuận bút; các thông tư quy định mã số và tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp viên chức chuyên ngành nghệ thuật biểu diễn và điện ảnh… được sửa đổi, bổ sung,đáp ứng yêu cầu của thực tiễn,theo chỉ đạo tại Nghị quyết 23 của Bộ Chính trị khoá X.
Để hoạt động sáng tạo văn học, nghệ thuật phát triển, các cấp ủy đảng, chính quyền đã quan tâm, cổ vũ, khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi thông qua việc thực hiện các cơ chế, chính sách đặc thù hoặc hỗ trợ theo điều kiện phù hợp cho các hoạt động văn học, nghệ thuật, như mở trại sáng tác, đi thực tế; phát hiện, đào tạo, bồi dưỡng các tài năng văn học, nghệ thuật… Chính phủ đã phê duyệt các Đề án “Tiếp tục hỗ trợ hoạt động sáng tạo tác phẩm, công trình văn học, nghệ thuật, báo chí ở Trung ương và các hội văn học, nghệ thuật địa phương; hỗ trợ tác phẩm báo chí chất lượng cao ở các hội nhà báo địa phương”. Trong các giai đoạn 2006 - 2010, 2011 - 2015, 2016 - 2020 mức chi đạt trên 400 tỷ đồng cho mỗi giai đoạn. Ngoài ra, một số dự án, cuộc vận động sáng tác do các hội văn học, nghệ thuật chuyên ngành đề xuất cũng được Chính phủ phê duyệt và cấp kinh phí(5),
Công tác xét tặng giải thưởng các tác phẩm văn học, nghệ thuật, tôn vinh, khuyến khích văn nghệ sĩ có nhiều cống hiến được quan tâm. Từ năm 2009 đến năm 2018, Nhà nước đã trao tặng 35 Giải thưởng Hồ Chí Minh, 381 Giải thưởng Nhà nước về văn học, nghệ thuật; xét tặng danh hiệu Nghệ sĩ Nhân dân cho 216 nghệ sĩ, danh hiệu Nghệ sĩ Ưu tú cho 1.072 nghệ sĩ tài năng, danh hiệu Nghệ nhân Nhân dân cho 17 cá nhân và Nghệ nhân Ưu tú cho 782 cá nhân thuộc 06 lĩnh vực di sản văn hóa phi vật thể(6).
Việc tăng cường nguồn lực và phương tiện cho hoạt động văn học, nghệ thuật được chú trọng. Hiện các tỉnh thành phố trực thuộc Trung ương đều đầu tư xây dựng các công trình văn hóa; triển khai sắp xếp, kiện toàn tổ chức các đơn vị nghệ thuật biểu diễn công lập theo hướng tinh gọn, chuyên nghiệp, hiệu quả. Bên cạnh đó, việc lập quỹ tài trợ sáng tạo văn học, nghệ thuật, ban hành và thực thi các Quy chế Giải thưởng văn học, nghệ thuật đã khẳng định những thành quả lao động sáng tạo và động viên kịp thời các văn nghệ sĩ.
Một số hạn chế
Công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận về văn học, nghệ thuật chưa thực sự theo kịp những biến đổi quá nhanh trong đời sống văn học, nghệ thuật.Các đề án thực hiện Nghị quyết 23 đãđược triển khai nhưng việc xây dựng hệ thống văn bản pháp quy về văn học, nghệ thuật còn chưa hoàn tất, nhiều nội dung còn phải áp luật khác, dẫn đến những khó khăn trên thực tế do tính đặc thù của hoạt động nghệ thuật. Một số chính sách đầu tư kinh phí cho lĩnh vực văn học, nghệ thuật, chế độ đãi ngộ cho văn nghệ sĩ còn thấp, chưa tương xứng với yêu cầu, nhiệm vụ.
Một số cấp ủy, chính quyền, đoàn thể, nhất là ở cơ sở chưa nhận thức đúng về vị trí, vai trò và tầm quan trọng của văn học, nghệ thuật đối với sự phát triển kinh tế - xã hội;còn coi hoạt động văn học, nghệ thuậtlà thứ yếu, dẫn tới việc chi ngân sách và huy động các nguồn lực cho hoạt động văn học, nghệ thuật rấtkhó khăn.
Hoạt động thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm chưa đủ sức răn đe, nhất là trong quản lý hoạt động biểu diễn nghệ thuật.Còn có biểu hiện hữu khuynh, né tránh trong điều hành, xử lý các biểu hiện sai trái trong văn học, nghệ thuật hoặc xử lý không phù hợp trong một số vụ việc cụ thể, gây bức xúc trong giới văn nghệ sĩ và xã hội. Hoạt động của các hội văn học, nghệ thuật địa phương phần lớn phụ thuộc vào sự quan tâm của cấp ủy, chính quyền địa phương. Năng lực lãnh đạo, quản lý văn hóa của cấp uỷ, chính quyền ở nhiều nơi chưa đáp ứng yêu cầu nên lúng túng, bị động trong nhận biết, ngăn chặn, chống hoạt động “diễn biến hòa bình” và sự xâm nhập, tác động tiêu cực của sản phẩm văn hóa độc hại.
2. Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng trên lĩnh vực văn học, nghệ thuật
Trong điều kiện khoa học - công nghệ phát triển,văn học, nghệ thuật nướ cta xuất hiện nhiều loại hình mới theo cơ chế kết nối,gắn với nền tảng đa phương tiện, kĩ thuật số. Việc nhận - phát thông tin trong môi trường ảo và lan truyền với tốc độ chóng mặt cũng làm thay đổi nhu cầu, thị hiếu thẩm mỹ của con người, làm gia tăng mức độ nguy hiểm của “diễn biến hòa bình” đối với an ninh quốc gia, tạo ra những thách thức lớn đối với ổn định chính trị. Để đổi mới công tác lãnh đạo, quản lý văn học, nghệ thuật, cần quan tâm một số điểm sau:
Cần xử lý kiên quyết đối với các sản phẩm, các chủ thể liên quan đến sản phẩm văn học chống phá sự nghiệp đổi mới đất nước dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhằm khẳng định mạnh mẽ quyết tâm chính trị của Đảng trên lĩnh vực văn học, nghệ thuật. Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Tăng cường công tác kiểm tra, đánh giá thực tiễn triển khai các nội dung về văn học nghệ thuật trong hệ thống chính trị. Làm rõ trách nhiệm lãnh đạo và quản lý các cấp, chấnchỉnh cấp uỷ, chính quyền địa phương chưa thực sự quan tâm công tác văn học, nghệ thuật.
Tuyên truyền, vận động, giáo dục thường xuyên, liên tục bằng nhiều hình thức, cách làm, phù hợp với từng đối tượng, đặc biệt là thế hệ trẻ nhằm giảm sự ngộ nhận, mơ hồ chính trị, mất cảnh giác trước âm mưu “Diễn biến hòa bình”, tạo sự chuyển biến tích cực trong nhận thức của các chủ thể lãnh đạo quản lý, chủ thể sáng tạo cũng như chủ thể thụ hưởng văn học, nghệ thuật.
Đổi mới phương thức lãnh đạo, khắc phục sự giáo điều, máy móc. Hiểurõ đặc thù loại hình nghệ thuật và dựa vào thực tiễn văn học, nghệ thuật, những phân tích, đánh giá cần đạt tới sự thấu đáo, khoa học trên quan điểm tôn trọng sự đối thoại, phản biện xã hội tích cực từ phía văn nghệ sĩ, tránh đối đầu, tăng tính thuyết phục để thu hút các chủ thể có quan điểm khác, không để các lực lượng đối lập có cơ hội lôi kéo, đẩy họ vào những việc làm đi ngược lại lợi ích quốc gia, dân tộc.
Thực thi dân chủ, tôn trọng tự do sáng tạo thực chất, phát huy tính tích cực xã hội, trách nhiệm công dân, kỷ cương, kỷ luật, sự tự giác của văn nghệ sĩ, của cộng đồng chủ thể thụ hưởng văn học, nghệ thuật. Coi trọng sự nói thẳng, làm thật, làm tốt cơ chế phối hợp đồng bộ, đồng thời phân định rõ quyền hạn giữa ban, ngành, đoàn thể và các tổ chức xã hội trong thực hiện nhiệm vụ xây dựng và phát triển văn hóa, nghệ thuật. Điều chỉnh và hoàn thiện cơ chế, chính sách, tăng chi phù hợp với tính đặc thù của văn hóa, nghệ thuậtvà có biện pháp kiểm soát bảo đảm hiệu quả kinh phí.
Những đổi mới nêu trên vừa bảo đảm để văn hóa, văn học - nghệ thuật, phát triển đúng định hướng chính trị, tư tưởng của Đảng, vừa bảo đảm quyền tự do, dân chủ cá nhân trong sáng tạo,trên cơ sở phát huy tính tự giác cao với mục đích đúng đắn; khắc phục tình trạng buông lỏng sự lãnh đạo hoặc mất dân chủ, hạn chế tự do sáng tạo trong sáng tạo nghệ thuật, đồng thời xây dựng đội ngũ văn nghệ sỹ vừa có kế thừa, trẻ hóa, có bản lĩnh chính trị vững vàng, có phẩm chất đạo đức, lối sống để đảm nhận chức năng sáng tạo trên.
________________________
Bài đăng trên Tạp chí Lý luận chính trị điện tử ngày 21.11.2020
(1), (2) Đảng Cộng sản Việt Nam: Nghị quyết số 23-NQ/TW ngày 16/6/2008 của Bộ Chính trị về tiếp tục xây dựng và phát triển văn học, nghệ thuật trong thời kỳ mới.
(3) Đảng Cộng sản Việt Nam: Dự thảo Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng.
(4) Liên hiệp các Hội Văn học, nghệ thuật Việt Nam: Báo cáo kết quả 10 năm thực hiện Nghị quyết 23-NQ/TW của Bộ Chính trị về “Tiếp tục xây dựng và phát triển văn học, nghệ thuật trong thời kỳ mới”.
(5), (6) Ban Tuyên giáo Trung ương: Số 247-BC/BTGTW, Báo cáo tổng kết 10 năm thực hiện Nghị quyết 23-NQ/TW của Bộ Chính trị (khóa X) về “Tiếp tục xây dựng và phát triểnvăn học, nghệ thuật trong thời kỳ mới”
TS Nguyễn Thị Tuyến
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
Nguồn: http://lyluanchinhtri.vn/
Bài liên quan
- Hệ thống chính trị Việt Nam truyền thống và hiện đại từ góc nhìn đổi mới
- Tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả
- Giữ gìn và bảo vệ giá trị văn hóa truyền thống các dân tộc ít người, góp phần củng cố, phát triển khối đại đoàn kết toàn dân tộc
- Xu hướng hòa bình, hợp tác, phát triển trên thế giới và vai trò của Việt Nam hiện nay
- Phát huy vai trò của ngành công nghiệp xuất bản trong việc gìn giữ bản sắc văn hóa dân tộc
Xem nhiều
- 1 Giữ gìn và bảo vệ giá trị văn hóa truyền thống các dân tộc ít người, góp phần củng cố, phát triển khối đại đoàn kết toàn dân tộc
- 2 Sử dụng ChatGPT trong việc cải thiện kỹ năng viết cho sinh viên học tiếng Anh
- 3 Phát triển nguồn nhân lực ở tỉnh Bến Tre: Thực trạng và giải pháp
- 4 Nội dung chuyên đề của Tổng Bí thư Tô Lâm về kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc
- 5 Công tác dân tộc qua những bài học cụ thể của Chủ tịch Hồ Chí Minh từ ngày đầu thành lập nước
- 6 Những thách thức về bảo vệ nền tảng tư tưởng trên các phương tiện truyền thông xã hội
Liên kết
- Báo điện tử đảng cộng sản việt nam
- Báo nhân dân
- Báo Quân đội nhân dân
- Cổng thông tin điện tử Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Cổng thông tin điện tử Học viện Chính trị quốc gia hồ chí minh
- Tạp chí Cộng sản
- Tạp chí Giáo dục lý luận
- Tạp chí Giáo dục và Xã hội
- Tạp chí Khoa học xã hội và Nhân văn
- Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam
- Tạp chí Lý luận chính trị
- Tạp chí Nghiên cứu con người
- TẠP CHÍ Nghiên cứu dân tộc
- Tạp chí Người làm báo
- Tạp chí Nội chính
- Tạp chí Quản lý Nhà nước
- Tạp chí Tổ chức Nhà nước
- Tạp chí Tuyên giáo
- Tạp chí Xây Dựng Đảng
- Thư viện số Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Trang thông tin điện tử Hội đồng Lý luận Trung ương
Ảnh hưởng của truyền thông xã hội đến hoạt động báo chí
Bài viết nghiên cứu về tác động của truyền thông xã hội đối với hoạt động báo chí hiện nay, tập trung vào sự thay đổi trong hoạt động sản xuất, phân phối tin tức và cấu trúc nội dung báo chí. Truyền thông xã hội đã trở thành một nguồn tin phong phú, đa chiều và nhanh chóng, làm thay đổi đáng kể cách thức thu thập và truyền tải thông tin. Tuy nhiên, tính xác thực của nguồn tin mạng xã hội vẫn là một thách thức, đòi hỏi báo chí phải chú trọng vào việc kiểm chứng và phản hồi thông tin một cách chính xác. Trên tinh thần đó, bài viết đề xuất báo chí cần phát triển nội dung chất lượng cao, tăng cường kỹ năng công nghệ số của phóng viên và xây dựng các nền tảng số riêng để giảm sự phụ thuộc vào truyền thông xã hội, đảm bảo tính chính xác và đáng tin cậy trong kỷ nguyên số.
Hệ thống chính trị Việt Nam truyền thống và hiện đại từ góc nhìn đổi mới
Hệ thống chính trị Việt Nam truyền thống và hiện đại từ góc nhìn đổi mới
Nhìn toàn bộ tiến trình lịch sử chính trị của dân tộc, “Hệ thống chính trị” nước ta dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là một thiết chế chính trị mạnh, mô hình này phù hợp với hoàn cảnh Việt Nam và đúng với quy luật vận động của lịch sử. Và, cũng từ thực tế lịch sử, có thể thấy sức mạnh thực sự của Hệ thống chính trị mà chúng ta đang có chủ yếu không phải do tính chất nhất nguyên mà là do uy tín của Đảng, Nhà nước và lãnh tụ Hồ Chí Minh. Sức sống của hệ thống chính trị là sự phù hợp, thống nhất giữa mục đích của Đảng với nguyện vọng của nhân dân, với nhu cầu phát triển của đất nước. Hệ thống chính trị Việt Nam đương đại, trên cơ sở kết tinh các giá trị thiết chế truyền thống gắn với hiện đại không ngừng đổi mới phát triển khẳng định sức mạnh của Hệ thống tổ chức quyền lực Chính trị Việt Nam có vai trò quyết định thành công xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN.
Tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả
Tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả
Xây dựng tổ chức bộ máy hiệu lực, hiệu quả là công việc khó khăn, phức tạp, đòi hỏi sự đoàn kết, thống nhất, dũng cảm, sự hy sinh của từng cán bộ, đảng viên cùng với quyết tâm rất cao của toàn Đảng, cả hệ thống chính trị, trước hết là người đứng đầu cấp ủy, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và đoàn thể các cấp. Tạp chí Cộng sản trân trọng giới thiệu bài viết của đồng chí Tổng Bí thư Tô Lâm về xây dựng hệ thống chính trị với tiêu đề: “Tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả”:
Giữ gìn và bảo vệ giá trị văn hóa truyền thống các dân tộc ít người, góp phần củng cố, phát triển khối đại đoàn kết toàn dân tộc
Giữ gìn và bảo vệ giá trị văn hóa truyền thống các dân tộc ít người, góp phần củng cố, phát triển khối đại đoàn kết toàn dân tộc
Với cộng đồng 54 dân tộc anh em, Việt Nam là quốc gia có nền văn hóa đa dạng, phong phú, có những nét riêng, trở thành tài sản quý giá làm nên bản sắc văn hóa Việt Nam độc đáo, đặc sắc. Giữ gìn và bảo vệ các giá trị di sản văn hóa truyền thống chính là góp phần củng cố phát triển khối đại đoàn kết dân tộc - một sức mạnh nội sinh to lớn và vĩ đại, làm nên mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam, dưới lá cờ vẻ vang của Đảng.
Xu hướng hòa bình, hợp tác, phát triển trên thế giới và vai trò của Việt Nam hiện nay
Xu hướng hòa bình, hợp tác, phát triển trên thế giới và vai trò của Việt Nam hiện nay
Trong bối cảnh hiện nay sự cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn, chạy đua vũ trang, các cuộc xung đột tôn giáo, sắc tộc vẫn diễn ra ở nhiều nơi, đặc biệt là cuộc xung đột quân sự giữa Nga và Ukraina ở Đông Âu, giữa Israel và Palestine vùng các tổ chức hồi giáo ở Trung Đông diễn biến ngày càng căng thẳng đe dọa tới hòa bình, an ninh khu vực và thế giới. Tuy vậy, hòa bình, hợp tác và phát triển vẫn là mục tiêu hướng tới của các nước, là xu hướng chính trị -xã hội tất yếu của nhân loại, từ đó đặt ra vai trò, trách nhiệm của các quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam.
Bình luận