Trí thông minh nhân tạo và cái “gốc” của báo chí
Cách mạng công nghiệp 4.0
Chưa bao giờ cụm từ cách mạng công nghiệp 4.0 lại được xuất hiện một cách dày đặc trên báo chí như thời gian qua. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều người chưa thật sự hiểu rõ và vẫn còn những điều sai lầm về nó. Cách mạng công nghiệp 4.0 có thể hiểu một cách đơn giản về một môi trường mà máy tính, tự động hóa và con người sẽ cùng nhau làm việc theo một cách hoàn toàn mới.
Rô-bốt hay máy móc nói chung được kết nối với hệ thống máy tính qua mạng Internet. Qua các cảm biến, hệ thống sử dụng thuật toán để điều khiển máy móc, cần rất ít hoặc thậm chí là không cần sự can thiệp nào từ con người tham gia quá trình sản xuất. Đây là lý do mà nhiều người gọi cách mạng công nghiệp 4.0 như là một “nhà máy thông minh”.
Và để có đủ dữ liệu phục vụ cho cuộc cách mạng này, máy móc phải cung cấp dữ liệu ngược lại về hệ thống trung tâm cũng như thu thập dữ liệu từ các nguồn bên ngoài thì quyết định được máy đưa ra mới chính xác, đây chính là khái niệm Internet of things (IoT). Những yếu tố cốt lõi của kỹ thuật số trong cách mạng công nghiệp 4.0 là trí tuệ nhân tạo (AI), vạn vật kết nối - Internet of Things (IoT) và dữ liệu lớn (Big Data).
Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 là xu hướng tự động hóa và trao đổi dữ liệu trên quy mô lớn trong các công nghệ chế tạo. Tuy nhiên, nó lại tác động đến báo chí theo một cách hoàn toàn khác, khi giờ đây mọi thông tin đều được kết nối, chia sẻ với nhau và báo chí đang phải đối mặt với nhiều thách thức.
Tác động đến báo chí
Trên thế giới, rô-bốt phóng viên được nhiều tập đoàn truyền thông, cơ quan báo chí các nước như Mỹ, Nhật Bản, Trung Quốc thực hiện qua hệ thống trí tuệ nhân tạo... Hãng Thông tấn AP (Mỹ) là cơ quan báo chí đầu tiên trên thế giới sử dụng hệ thống trí tuệ nhân tạo để viết tin, công việc trước đó hầu như chỉ độc quyền do con người đảm nhận. Tại Nhật Bản, hệ thống trí tuệ nhân tạo có thể một mặt lấy tin từ thị trường chứng khoán kết hợp với thông tin từ thông cáo báo chí để viết tin trong thời gian rất ngắn. Tại Trung Quốc, trí tuệ nhân tạo hoàn thành tin về một hội nghị ngay sau khi một diễn giả vừa thuyết trình xong. Điều này cho thấy, trí thông minh nhân tạo có thể tạo ra những tin tức tức thời làm thay công việc của những phóng viên.
Bên cạnh đó, quy trình tác nghiệp thu thập dữ liệu của phóng viên đã thay đổi, trong một số trường hợp, thông qua dữ liệu lớn, phóng viên không cần phải tự mình theo dõi, phân tích số liệu, chọn lọc thông tin để viết tin. Trí tuệ nhân tạo và phần mềm làm báo sẽ kết nối với nguồn cung cấp dữ liệu từ các cơ quan quản lý số liệu, sau đó qua phần mềm sẽ tạo ra một bản tin được lập trình cho từng loại hình báo chí tới công chúng, hay một tác phẩm báo chí đa phương tiện mà nếu là phóng viên sẽ mất nhiều thời gian để thực hiện điều đó.
Trước đây, một nhà báo giỏi không chỉ biết viết bài, chụp hình gửi về tòa soạn mà phải biết kết hợp nhiều công đoạn để sản phẩm xuất hiện trên trang báo hay mạng xã hội... giờ đây nhà báo phải đa nhiệm biết làm đủ mọi chức năng như có kiến thức cơ bản về lập trình, biết cách làm báo qua thiết bị di động, bằng các phương tiện truyền thông xã hội và làm báo chí dữ liệu.
Đối với công chúng, trí thông minh nhân tạo được sử dụng trong việc tạo ra liên kết thông qua dữ liệu lớn. Khi công chúng đặt mối quan tâm vào một trang web hay vấn đề sự kiện nào đó, Chatbots, chương trình tương tác với người dùng bằng ngôn ngữ, âm thanh hoặc dạng tin nhắn, mọi thông tin bài báo về sự kiện đó sẽ tự động cung cấp tới người đọc. Hay như khi một báo điện tử có đăng tin mới, lập tức tin sẽ được cập nhật tới người dùng. Đồng thời, cách mạng 4.0 tạo ra một lớp công chúng tương thích của thời kỳ truyền thông số. Công chúng có thể lựa chọn phương thức đọc báo riêng thay bằng tiếp cận với các tờ báo in, kênh phát thanh hay truyền hình thuần túy qua công nghệ thực tại ảo (VR), thực tại tăng cường (AV) và báo nhúng.
Thực tế, cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 giúp tạo ra các ứng dụng thông minh làm công cụ cho những con người thông minh và những nhóm cộng đồng cần tin tức theo định dạng. Hiện nay, ngoài Facebook còn có hơn 30 mạng xã hội khác nhau, mỗi mạng xã hội lại có những tiêu chí, luật chơi khác nhau. Khi bàn về xu thế cần hiểu trên thế giới có những công nghệ gì, công nghệ đấy tương tác với báo chí ra sao. Cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 sẽ là sự bổ trợ cho những tòa soạn báo nắm bắt được cơ hội phát triển kể cả báo in cũng có những công nghệ dành riêng cho báo in, giúp báo in phát triển.
Cách dạng công nghiệp 4.0 đang tạo ra sự thay đổi trong đời sống xã hội, đặc biệt sự thay đổi mạnh mẽ của báo chí. Tuy nhiên, không nên chỉ mãi nghĩ tới “công nghệ” mà quên đi “nền tảng” cốt lõi của báo chí là những vấn đề thuộc về nguyên lí và triết lí trong việc đưa nội dung nào, bằng hình thức nào để đến với công chúng.
Cái “gốc” và đạo đức báo chí
Làm báo cần hiểu cái quan trọng nhất là nội dung, còn công nghệ sẽ giúp phóng viên, nhà báo giải phóng thời gian trong quá trình tác nghiệp và truyền tải nội dung bài báo đến công chúng một cách nhanh nhất và rộng nhất.
Rô-bốt có khả năng phân tích dữ liệu và sản xuất những tin tức tức thời một cách nhanh chóng, nhưng khi nói đến làm báo là nói đến nội dung, tổ chức sản xuất, cách tác động tới công chúng, chọn vấn đề gì để tiếp cận, dùng hình thức gì, công cụ nào để đưa ra được sản phẩm đó, tạo ra một hiệu ứng xã hội tốt nhất. Đối với những vấn đề thú hút sự quan tâm của công chúng, chỉ có những nhà báo có nghiệp vụ, bản lĩnh chính trị mới đưa ra những phân tích chuyên sâu góp phần định hướng dư luận xã hội. Vì phóng viên, nhà báo mới xác định được nhóm công chúng của mình là ai, từ đó chọn lựa đề tài, góc độ, chi tiết, vấn đề nào nên nói, vấn đề nào không nên nói, khai thác vấn đề theo góc độ nào,...
Công nghệ rất quan trọng là thứ không thể bỏ qua, nhưng kiến thức nền tảng báo chí, những thứ thuộc về cái “gốc” của người làm báo như luật pháp, đạo đức, phương thức, cách thức tiếp cận thì robot chưa thể đảm nhận được. Những giá trị của sự cống hiến, lý tưởng nghề nghiệp đều rất quan trọng. Để tồn tại trong cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, người làm báo cần luôn luyện rèn tư duy báo chí và đạo đức nghề nghiệp, từ đó sáng tạo nội dung trên nền tảng những hiểu biết căn bản về báo chí. Nếu bỏ qua nền tảng thì nhà báo chỉ có “ngọn” mà không có “gốc”.
Bên cạnh đó, nếu tiêu chuẩn của báo chí và truyền thông là đi tìm và phản ánh đúng sự thật, thì trong thời đại công nghệ 4.0 như hiện nay, việc chọn lựa thông tin trên mạng Internet để biết được đâu là sự thật là rất khó. Trong thời đại “mọi thứ đều nhanh” như hiện nay, tư duy của nhà báo không thể đi nhanh như công nghệ mà cần được trải nghiệm và rút kinh nghiệm về cái đúng và cái sai, nhất là khi tham gia mạng xã hội. Cách mạng công nghiệp 4.0 đã và đang tạo ra những cơ hội và cũng đặt ra nhiều thách thức đối với báo chí. Công nghệ đang thể hiện vai trò quan trọng trong quá trình tác nghiệp báo chí, nhưng không thể vì thế mà những người làm báo lại quá phụ thuộc vào công nghệ. Vì vậy, những người làm báo vẫn phải tiếp tục rèn luyện cả về kỹ năng nghiệp vụ và đạo đức nghề nghiệp xứng đáng là người “thư ký của thời đại”./.
_________________________
Bài đăng trên Tạp chí Người Làm Báo điện tử ngày 28.5.2018
Nam Dương - Thành Nam
Bài viết được thực hiện trong khuôn khổ đề tài KHCNTB.14X/13-18 do Đại học Quốc gia Hà Nội tài trợ
Nguồn: http://nguoilambao.vn
Bài liên quan
- Tác động của truyền thông thương hiệu đến giá trị cảm nhận và sự gắn bó của sinh viên tại các trường đại học kỹ thuật ở Hà Nội
- Giải pháp tăng cường định hướng hành vi tiếp nhận thông tin báo chí trên nền tảng facebook của sinh viên hệ 9+
- Quản trị hoạt động truyền thông thương hiệu bệnh viện công trong bối cảnh chuyển đổi số
- Tác động của truyền thông CSR đến niềm tin thương hiệu và ý định mua của người tiêu dùng hiện nay
- Truyền thông về an ninh mạng tại hệ thống ngân hàng ở Việt Nam trong môi trường chuyển đổi số hiện nay
Xem nhiều
-
1
Xây dựng khung đạo đức và quản trị trí tuệ nhân tạo (AI) trong truyền thông chính sách tại Việt Nam
-
2
Nâng cao năng lực số cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý cấp xã trong mô hình chính quyền địa phương hai cấp ở Việt Nam hiện nay
-
3
Xử lý khủng hoảng của doanh nghiệp sản xuất và phân phối thực phẩm chế biến sẵn tại Việt Nam
-
4
Các xu hướng sáng tạo nội dung truyền thông marketing hiện nay
-
5
Nâng cao chất lượng hoạt động của Đảng ủy phường Yên Bái, tỉnh Lào Cai hiện nay
-
6
Giới thiệu Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông số tháng 10 năm 2025
Liên kết
- Báo điện tử đảng cộng sản việt nam
- Báo nhân dân
- Báo Quân đội nhân dân
- Cổng thông tin điện tử Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Cổng thông tin điện tử Học viện Chính trị quốc gia hồ chí minh
- Tạp chí Cộng sản
- Tạp chí Giáo dục lý luận
- Tạp chí Giáo dục và Xã hội
- Tạp chí Khoa học xã hội và Nhân văn
- Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam
- Tạp chí Lý luận chính trị
- Tạp chí Nghiên cứu con người
- TẠP CHÍ Nghiên cứu dân tộc
- Tạp chí Người làm báo
- Tạp chí Nội chính
- Tạp chí Quản lý Nhà nước
- Tạp chí Tổ chức Nhà nước
- Tạp chí Tuyên giáo
- Tạp chí Xây Dựng Đảng
- Thư viện số Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Trang thông tin điện tử Hội đồng Lý luận Trung ương
Tăng cường sự lãnh đạo của Thành ủy Hải Phòng trong phát triển dịch vụ logistics hiện nay
Phát triển dịch vụ logistics có vai trò quan trọng trong thúc đẩy lưu thông hàng hóa, giảm chi phí, nâng cao năng lực cạnh tranh, hỗ trợ sản xuất, xuất nhập khẩu và phát triển kinh tế bền vững. Dưới sự lãnh đạo của Thành ủy Hải Phòng, công tác này đã đạt được một số kết quả ấn tượng, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội địa phương, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân. Bài viết phác hoạ thực trạng Thành ủy Hải Phòng lãnh đạo phát triển dịch vụ logistics hiện nay, chỉ rõ một số hạn chế, bất cập; từ đó, đề xuất giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác này thời gian tới.
Tác động của truyền thông thương hiệu đến giá trị cảm nhận và sự gắn bó của sinh viên tại các trường đại học kỹ thuật ở Hà Nội
Tác động của truyền thông thương hiệu đến giá trị cảm nhận và sự gắn bó của sinh viên tại các trường đại học kỹ thuật ở Hà Nội
Trong bối cảnh tự chủ đại học và cạnh tranh tuyển sinh, truyền thông thương hiệu của cơ sở đào tạo không chỉ là quảng bá mà còn là cơ chế kiến tạo trải nghiệm nhất quán cho người học. Bài viết sử dụng khung CBBE (giá trị thương hiệu dựa trên khách hàng) và tiếp cận IMC (truyền thông tích hợp) để mô tả hệ điểm chạm và thảo luận hàm ý tác động tới giá trị cảm nhận và sự gắn bó của sinh viên tại khối trường kỹ thuật ở Hà Nội. Đóng góp thực tiễn của nghiên cứu là cung cấp căn cứ để các trường kỹ thuật nâng chất lượng truyền thông, mở rộng tiếp cận và bồi dưỡng gắn bó bền vững của sinh viên.
Giải pháp tăng cường định hướng hành vi tiếp nhận thông tin báo chí trên nền tảng facebook của sinh viên hệ 9+
Giải pháp tăng cường định hướng hành vi tiếp nhận thông tin báo chí trên nền tảng facebook của sinh viên hệ 9+
Trong bối cảnh chuyển đổi số quốc gia, Facebook không chỉ là không gian giao tiếp mà còn là kênh tiếp nhận và lan tỏa thông tin báo chí quan trọng. Việc nghiên cứu hành vi tiếp nhận thông tin báo chí trên nền tảng này của sinh viên hệ 9+ - nhóm học sinh tốt nghiệp Trung học cơ sở, đang theo học tại các cơ sở giáo dục nghề nghiệp, là lực lượng lao động trẻ đang trưởng thành trong môi trường số có ý nghĩa thiết thực: giúp sinh viên nâng cao năng lực chọn lọc, phân tích và phản biện thông tin, hình thành thói quen sử dụng mạng xã hội có trách nhiệm; đồng thời, giúp các cơ quan báo chí hiểu rõ hơn về nhu cầu, thói quen và xu hướng truyền thông của nhóm công chúng trẻ, từ đó, đổi mới nội dung và phương thức truyền thông số, góp phần xây dựng hệ sinh thái thông tin mạnh trong kỷ nguyên số. Bài viết đồng thời đề xuất một số giải pháp nhằm tăng cường định hướng hành vi tiếp nhận thông tin báo chí trên nền tảng Facebook của sinh viên hệ 9+ hiện nay.
Quản trị hoạt động truyền thông thương hiệu bệnh viện công trong bối cảnh chuyển đổi số
Quản trị hoạt động truyền thông thương hiệu bệnh viện công trong bối cảnh chuyển đổi số
Trong bối cảnh chuyển đổi số mạnh mẽ, các bệnh viện công (BVC) tại Việt Nam phải đối mặt với những thách thức đặc thù trong quản trị hoạt động truyền thông thương hiệu (TTTH). Hoạt động này không chỉ nhằm mục đích quảng bá mà còn là công cụ chiến lược để xây dựng niềm tin xã hội và thực thi sứ mệnh y tế cộng đồng. Sử dụng Bệnh viện Nhi Trung ương (BVNTW) làm trường hợp nghiên cứu điển hình, bài viết phân tích thực trạng quản trị hoạt động TTTH trên các phương tiện truyền thông số thông qua khảo sát thực tiễn và phỏng vấn chuyên sâu. Kết quả nghiên cứu cho thấy, BVNTW đạt được sự cam kết chiến lược mạnh mẽ từ ban lãnh đạo và độ tin cậy cao từ công chúng. Tuy nhiên, nghiên cứu cũng chỉ ra những mâu thuẫn mang tính hệ thống. Trên cơ sở đó, bài viết đề xuất một hệ thống giải pháp chiến lược, bao gồm việc xây dựng khung đo lường hiệu suất đa tầng, tối ưu hóa quy trình theo mức độ rủi ro và quản trị trải nghiệm thương hiệu đồng bộ, nhằm nâng cao hiệu quả quản trị TTTH tại các bệnh viện công.
Tác động của truyền thông CSR đến niềm tin thương hiệu và ý định mua của người tiêu dùng hiện nay
Tác động của truyền thông CSR đến niềm tin thương hiệu và ý định mua của người tiêu dùng hiện nay
Bài viết khái quát tác động của truyền thông về trách nhiệm xã hội doanh nghiệp (CSR) đối với niềm tin thương hiệu và ý định mua của người tiêu dùng trong bối cảnh truyền thông số. Dựa trên các khung lý thuyết nền tảng như Lý thuyết trao đổi xã hội (SET), mô hình Kích thích - Tổ chức - Đáp ứng (S - O - R) và Thuyết hành vi có kế hoạch (TPB), bài viết khẳng định, truyền thông CSR, đặc biệt qua báo chí điện tử và nền tảng mạng xã hội, có ảnh hưởng tích cực đến nhận thức, thái độ và hành vi tiêu dùng. Truyền thông CSR nhất quán, minh bạch không chỉ trực tiếp tác động đến ý định mua mà còn gián tiếp thông qua việc củng cố niềm tin thương hiệu, biến trung gian có tính quyết định trong quá trình hình thành hành vi tiêu dùng. Niềm tin thương hiệu được xem như một dạng vốn tâm lý và vốn biểu tượng của doanh nghiệp, giúp giảm thiểu rủi ro cảm nhận, tăng cam kết và duy trì lòng trung thành khách hàng. Dù còn có sự khác biệt trong nhận định của các nhà nghiên cứu nhưng phần lớn đều khẳng định vai trò chiến lược của truyền thông CSR trong việc kiến tạo lợi thế cạnh tranh, nâng cao giá trị thương hiệu và hướng tới phát triển bền vững.
llcttt1994dientu@gmail.com
024.38348033
Bình luận