Xây dựng hệ thống an sinh xã hội, bảo đảm cho lao động nông thôn di cư hòa nhập xã hội thành thị, chuyển đổi nghề nghiệp ổn định và bền vững
Quan điểm, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về an sinh xã hội cho lao động di cư
An sinh xã hội là hệ thống các yếu tố bảo đảm cho người dân có được thu nhập ở mức tối thiểu và có cơ hội tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản, thiết yếu, như giáo dục, y tế, nhà ở, nước sạch, thông tin,... thông qua các chính sách và chương trình do Nhà nước và các lực lượng xã hội thực hiện.
Ngay từ khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa mới ra đời, Hiến pháp năm 1946 đã quy định rõ: “Tất cả các công dân đều bình đẳng trước pháp luật và có quyền công bằng trong tất cả các lĩnh vực - chính trị, kinh tế, văn hóa và xã hội”(1); các Hiến pháp tiếp theo tiếp tục quy định cụ thể hơn các quyền dành cho công dân Việt Nam, bao gồm quyền tự do di chuyển và cư trú, quyền tiếp cận với các dịch vụ chăm sóc sức khỏe, quyền được đi học và có kiến thức, quyền được đi làm, quyền được sở hữu nhà ở, tài sản hợp pháp và quyền được tiếp cận với các dịch vụ kinh tế - xã hội một cách công bằng… Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa XII về hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa nêu rõ: “Hoàn thiện cơ chế, chính sách để phát triển đồng bộ, liên thông thị trường lao động cả về quy mô, chất lượng lao động và cơ cấu ngành nghề. Có cơ chế, chính sách để định hướng dịch chuyển lao động, phân bố hợp lý lao động theo vùng; lao động di cư và gia đình được tiếp cận bình đẳng các dịch vụ xã hội”(2). Trong quá trình phát triển đất nước, Đảng và Nhà nước ta luôn chú ý tới mục tiêu tạo sự bình đẳng cho các đối tượng lao động, trong đó có lao động di cư - là nhóm dễ bị tổn thương và gặp nhiều khó khăn trong việc tiếp cận các chính sách an sinh xã hội. Trên quan điểm đó, xây dựng hệ thống an sinh xã hội đa dạng, toàn diện, từng bước mở rộng diện bao phủ tới đối tượng lao động di cư tập trung vào 4 nội dung chính như sau:
Một là, tăng cường cơ hội có việc làm, bảo đảm thu nhập tối thiểu và giảm nghèo bền vững cho lao động di cư thông qua các hoạt động hỗ trợ tín dụng, kết nối thông tin với thị trường lao động và chuyển đổi nghề nghiệp.
Hai là, mở rộng cơ hội cho lao động di cư tham gia hệ thống chính sách bảo hiểm (bảo hiểm y tế, xã hội, thất nghiệp) để chủ động đối phó khi thu nhập bị suy giảm hoặc bị mất hẳn việc làm do các rủi ro (thiên tai, dịch bệnh, ốm đau, tai nạn lao động…).
Ba là, hỗ trợ thường xuyên đối với lao động di cư có hoàn cảnh đặc thù và hỗ trợ đột xuất khi họ gặp các rủi ro không lường trước hoặc vượt quá khả năng kiểm soát (dịch bệnh, thiên tai, bệnh hiểm nghèo,...) thông qua các khoản tiền mặt và hiện vật do ngân sách nhà nước bảo đảm.
Bốn là, tăng tiếp cận của lao động di cư với hệ thống dịch vụ xã hội cơ bản, như giáo dục, y tế, nhà ở, nước sạch, vệ sinh môi trường, thông tin…
Xác định rõ vai trò, vị trí của lao động di cư đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của khu vực thành thị, Nhà nước đã ban hành nhiều chính sách liên quan tới việc làm, như: Chính sách đào tạo nghề cho lao động nông thôn; chính sách hỗ trợ tạo việc làm từ Quỹ quốc gia về việc làm và các nguồn tín dụng khác; chính sách hỗ trợ phát triển tổ chức dịch vụ việc làm (thông qua trung tâm dịch vụ việc làm và doanh nghiệp hoạt động dịch vụ việc làm); các chính sách bảo hiểm xã hội tự nguyện; các chính sách về an toàn, vệ sinh lao động… Ngoài ra, Chính phủ triển khai thực hiện nhiều chương trình, dự án lớn trên phạm vi cả nước, như Chương trình mục tiêu Giáo dục nghề nghiệp - Việc làm và An toàn lao động giai đoạn 2016 - 2020; Chương trình Mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2016 - 2020…
Bên cạnh đó, Việt Nam đã có những cam kết với cộng đồng quốc tế trong việc bảo vệ lao động di cư trong nước thông qua việc ký và phê chuẩn một số công ước và tuyên ngôn quốc tế, như Tuyên ngôn nhân quyền quốc tế, Công ước quốc tế về những quyền dân sự và chính trị, Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa… Ví dụ, Điều 12 của Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị (theo Nghị quyết số 2200, ngày 16.12.1966, của Đại hội đồng Liên hợp quốc, có hiệu lực từ ngày 23.3.1976) quy định: “Bất cứ ai cư trú hợp pháp trên lãnh thổ của một quốc gia đều có quyền tự do đi lại và tự do lựa chọn nơi cư trú trong phạm vi lãnh thổ quốc gia đó”. Các quyền quy định trong các công ước bao gồm quyền được hưởng các điều kiện làm việc xứng đáng và thuận tiện, quyền có các điều kiện sống đầy đủ cho mỗi người và gia đình của mình, quyền được chăm sóc sức khỏe thể chất và tinh thần tốt nhất theo chuẩn có thể đạt được, quyền tiếp cận giáo dục và tham gia vào đời sống văn hóa, quyền dành cho trẻ em, phụ nữ và bảo đảm công bằng giới… Năm 2015, Việt Nam cam kết nỗ lực đạt được các Mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ của Liên hợp quốc, trong đó tất cả các mục tiêu đều có liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp tới các quá trình di cư, những trải nghiệm của người di cư và gia đình của họ; trên cơ sở đó xây dựng các mục tiêu cụ thể phù hợp với bối cảnh riêng và các mục tiêu phát triển của Việt Nam, như giảm sự yếu thế, giảm sự mất công bằng giữa các dân tộc và bảo đảm sự phát triển kết cấu hạ tầng cho nhóm lao động di cư nghèo…
Ðể đáp ứng những dịch vụ an sinh xã hội thiết yếu và bảo vệ quyền lợi cho lao động di cư, Chính phủ đã đưa nhóm lao động này vào đối tượng điều chỉnh của một số đạo luật, như Luật Bảo hiểm xã hội, Luật Việc làm, Bộ luật Lao động, Luật Bảo hiểm y tế... Đặc biệt, Chiến lược An sinh xã hội giai đoạn 2012 - 2020 đã xác định lao động di cư là một trong các nhóm yếu thế cần được hỗ trợ như là một nhóm đối tượng khó khăn thuộc diện nghèo đa chiều. Các quy định, chính sách đã đem lại những cải thiện đáng kể trong việc hỗ trợ lao động di cư tìm kiếm việc làm và thụ hưởng các dịch vụ an sinh xã hội tại nơi nhập cư.
Một số vấn đề đặt ra đối với lao động di cư từ nông thôn ra thành thị hiện nay
Công tác quản lý lao động di cư còn nhiều bất cập
Theo Báo cáo của Tổng cục Thống kê, lao động di cư hiện nay chiếm tỷ lệ khoảng 70% lực lượng lao động tại các thành phố lớn và các khu công nghiệp, với “đặc trưng” là thu nhập bấp bênh (khoảng 4,4 triệu/người/tháng, bằng 2/3 tiền lương của lao động chính thức), điều kiện làm việc còn nhiều thiếu thốn, khó có điều kiện tiếp cận các chính sách an sinh xã hội. Đây là lực lượng đóng góp quan trọng vào phát triển kinh tế - xã hội đất nước nhưng cũng lại là nhóm chịu nhiều tổn thương, rủi ro, điều đó có thể thấy rõ qua đại dịch COVID-19 vừa qua. Cũng theo công bố của Tổng cục Thống kê, tính đến hết tháng 6.2020, có tới 30,8 triệu người từ 15 tuổi trở lên bị ảnh hưởng tiêu cực bởi dịch COVID-19 (bị mất việc, giảm giờ làm, giảm thu nhập…). Thời điểm trước khi có dịch COVID-19, mỗi tháng có khoảng 80.000 - 90.000 người tham gia vào thị trường lao động, tuy nhiên, từ thời điểm tháng 4 đến tháng 5 năm 2020, thị trường lao động mất khoảng 60.000 việc làm mỗi tháng bởi doanh nghiệp bị gián đoạn chuỗi cung ứng nguyên, phụ liệu, hàng hóa sản xuất ra không tiêu thụ được, lao động bị ngưng việc, mất việc. Tính đến hết tháng 7.2020, số doanh nghiệp ngừng kinh doanh tăng 41,5% so với cùng kỳ năm 2019. Triển khai Nghị quyết số 42/NQ-CP, ngày 9.4.2020, của Chính phủ, “Về các biện pháp hỗ trợ người dân gặp khó khăn do đại dịch COVID-19”, và Quyết định số 15/2020/QĐ-TTg, ngày 24.4.2020, của Thủ tướng Chính phủ, “Quy định về việc thực hiện các chính sách hỗ trợ người dân gặp khó khăn do đại dịch COVID-19”, gói hỗ trợ an sinh xã hội 62.000 tỷ đồng đợt một đã được triển khai, tuy nhiên để đến được với những người dân nghèo, trong đó có đối tượng lao động di cư lại không hoàn toàn suôn sẻ do bị hạn chế khá nhiều về công tác thống kê và những thủ tục hành chính.
Một trong những bất cập lớn hiện nay là liên quan tới vấn đề hộ khẩu. Lao động di cư phải trình hộ khẩu cho các thủ tục hành chính khi đăng ký sở hữu quyền sử dụng đất, đăng ký xe, vay vốn ngân hàng, tiếp cận với chăm sóc y tế có bảo hiểm, thanh toán tiền điện, nước… hoặc các chương trình mục tiêu xóa đói, giảm nghèo. Đặc biệt, việc nhập học cho con cái tại nơi nhập cư khá khó khăn. Không ít gia đình nhập cư phải chấp nhận trả tiền học phí cao hơn cho con học ở những trường tư. Trong điều kiện thu nhập hết sức ít ỏi, nhiều gia đình phải để con ở lại quê cùng người thân.
Về vấn đề nhà ở, kết quả khảo sát tại 15 tỉnh, thành phố lớn như Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Đà Nẵng… cho thấy, lao động di cư ra thành thị và các khu công nghiệp chủ yếu đi thuê nhà, chiếm tới 86,3%. Tỷ lệ lao động di cư hiện đang sở hữu nhà rất thấp, chỉ chiếm 2,9% và khoảng 10,8% lao động di cư đi ở nhờ nhà của người thân, họ hàng. Diện tích nhà ở và tiện nghi sinh hoạt hết sức hạn chế. Một khó khăn nữa trong sinh hoạt của lao động di cư là phải chi trả tiền điện, nước theo cách tính của chủ nhà nơi họ thuê trọ, thường phải chịu mức giá cao trong cách tính giá điện bậc thang. Mặc dù Nhà nước cũng có chính sách hỗ trợ cho người lao động để hưởng giá bán điện theo giá bậc thang, song trên thực tế, không có nhiều người lao động di cư được hưởng lợi từ chính sách trên; phần lớn các chủ nhà trọ tự áp đặt giá điện với mức cao gấp 2 - 3 lần so với mức giá điện theo quy định. Vấn đề nhà ở cho lao động di cư là một vấn đề nan giải, gây áp lực lớn đối với chính quyền các thành phố và khu đô thị lớn. Mặc dù Nhà nước đã có những chính sách để tháo gỡ, như việc đầu tư xây dựng những khu nhà dành riêng cho người có thu nhập thấp, nhưng người di cư không dễ dàng tiếp cận được, do điều kiện tài chính hạn hẹp và do vấn đề hộ khẩu…
Ngoài ra, còn một số chính sách an sinh xã hội chưa phù hợp với tình hình thực tế và đặc điểm của lao động di cư, chỉ quy định chung chung, thiếu các hướng dẫn cụ thể, thiếu các nguồn lực cần thiết để triển khai thực hiện nên chưa tạo ra sự chuyển biến mạnh mẽ. Các thủ tục hành chính còn rườm rà, phức tạp, rất khó triển khai trong thực tiễn, cản trở sự tiếp cận của người được thụ hưởng.
Công tác thông tin, truyền thông còn hạn chế
Cùng với sự phát triển của công nghệ thông tin, đời sống kinh tế - xã hội, sự đổi mới cơ chế làm việc của các cơ quan, doanh nghiệp hiện nay, việc tiếp cận thông tin đối với lao động di cư ngày càng thuận tiện, dễ dàng hơn, tuy nhiên phạm vi, chất lượng và nguồn thông tin nhìn chung vẫn còn hạn chế. Lao động di cư nắm bắt được thông tin về nơi mình cư trú thông qua người thân, bạn bè là chủ yếu. Theo nghiên cứu của Oxfam, có đến 67,2% lao động di cư không biết nơi cung cấp thông tin và tư vấn về Bộ luật Lao động và Luật Bảo hiểm xã hội, Luật Bảo hiểm y tế. Đây là một trong những hạn chế lớn đối với lao động di cư trong việc bảo đảm các quyền con người và tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản khác. Hạn chế trong công tác truyền thông cũng là một rào cản lớn đối với việc tiếp cận an sinh xã hội của lao động di cư. Đa số lao động di cư không có hiểu biết đầy đủ về các quyền và lợi ích của mình tại nơi làm việc và nơi cư trú, mà nguyên nhân cơ bản nhất là các chính sách an sinh xã hội ít được truyền thông đến họ. Cho đến nay, chưa có chương trình truyền thông đại chúng chuyên biệt chính thức nào dành riêng cho cộng đồng người di cư.
Chế độ, chính sách về bảo hiểm cho lao động di cư triển khai chưa hiệu quả
Theo Báo cáo của Tổng cục Thống kê, Việt Nam hiện nay có 38% người di cư lâu dài, 40% người di cư tương đối lâu dài và 46% người di cư tạm thời đang sinh sống và làm việc ở đô thị không có thẻ bảo hiểm y tế. Các nguyên nhân chủ yếu là do thủ tục hành chính, dịch vụ còn phiền hà và sự hạn hẹp về khả năng tài chính cá nhân. Bên cạnh đó, lao động di cư tạm thời từ nông thôn ra đô thị còn đối mặt với việc không được khám sức khỏe định kỳ vì các cơ sở thuê họ làm việc hầu như không tổ chức khám sức khỏe cho người lao động. Tỷ lệ lao động phi chính thức không có bảo hiểm xã hội lên tới 97,9% và chỉ có 0,2% đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc, còn lại 1,9% đóng bảo hiểm xã hội tự nguyện. Tiền lương của lao động khu vực này trung bình chỉ 4,4 triệu đồng/tháng, thấp hơn nhiều so với lao động chính thức (6,7 triệu đồng) ở tất cả các vị trí việc làm. Vì nhiều nguyên nhân khác nhau, phần lớn lao động di cư chưa đóng bảo hiểm xã hội dẫn đến rất nhiều thiệt thòi cho bản thân họ và gây ra những hệ lụy xã hội. Điều này có nguyên do từ việc vẫn còn những rào cản về thủ tục hồ sơ làm cho người lao động khó tiếp cận với cơ quan bảo hiểm xã hội. Chính sách bảo hiểm xã hội tự nguyện mới chỉ được thực hiện với hai chế độ là hưu trí và tử tuất, đây là hai chế độ dài hạn với điều kiện về thời gian đóng góp kéo dài, phải cần tới 20 năm đóng bảo hiểm để được hưởng lương hưu hằng tháng, tạo cho họ tâm lý không muốn tham gia khi chưa thấy được những lợi ích lâu dài hoặc có nhận thức được nhưng phải dành thu nhập chi trả cho những nhu cầu trước mắt.
Hầu hết lao động di cư chưa có hợp đồng lao động
Lao động di cư phần lớn làm việc trong những điều kiện khó khăn, thiếu thốn không có hợp đồng lao động. Do người lao động không có công việc ổn định, thiếu kiến thức về pháp luật lao động, ở thế yếu so với người sử dụng lao động, nên việc ký hợp đồng lao động khó khăn. Việc xử phạt không nghiêm người sử dụng lao động vi phạm pháp luật khiến tình trạng lao động không có hợp đồng trở nên phổ biến và khi những vi phạm, tranh chấp về tiền lương, an toàn lao động… xảy ra, thì người chịu thiệt thòi luôn là những người lao động di cư.
Một số kiến nghị và giải pháp bảo đảm an sinh xã hội cho lao động nông thôn di cư
Một là, tiếp tục bảo đảm các mục tiêu, định hướng về an sinh xã hội cho lao động di cư
Bảo đảm an sinh xã hội cho lao động di cư là một trong những vấn đề quan trọng được Đảng, Nhà nước thường xuyên quan tâm. Nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong tổ chức thực hiện chính sách an sinh xã hội, đồng thời phát huy vai trò và trách nhiệm của các tổ chức xã hội, doanh nghiệp xã hội và cộng đồng theo tinh thần xã hội hóa, tạo điều kiện để lao động di cư cải thiện các điều kiện sống của họ. Hệ thống an sinh xã hội cơ bản hoàn thành bảo đảm cho lao động di cư tiếp cận các cơ hội việc làm, giảm nghèo, tham gia bảo hiểm xã hội và y tế, hỗ trợ những người có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, tăng cường các dịch vụ xã hội cơ bản ở mức tối thiểu (y tế, giáo dục, nhà ở, nước sạch, thông tin…), từng bước nâng cao thu nhập, bảo đảm cuộc sống an toàn, bình đẳng so với các đối tượng lao động khác. Phát huy vai trò lãnh đạo của các cấp ủy đảng, huy động sức mạnh của cả hệ thống chính trị tham gia, tạo nên nguồn lực to lớn của toàn xã hội.
Hai là, hoàn thiện chính sách, pháp luật đối với lao động di cư
Vấn đề lao động di cư trong nước cần được đưa vào trong các chiến lược xóa đói, giảm nghèo quốc gia và trong quá trình xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế, xã hội. Thực hiện cải cách chính sách nhà ở xã hội, bảo đảm tính thống nhất trong các quy định pháp luật về lao động và việc làm, pháp luật về bảo trợ xã hội, pháp luật về y tế, đẩy mạnh các chương trình xóa đói, giảm nghèo… Thực hiện cải cách hệ thống đăng ký hộ khẩu và loại bỏ các yêu cầu về đăng ký hộ khẩu của công dân khi tiếp cận với các dịch vụ nhằm bảo đảm sự tiếp cận công bằng cho lao động di cư, thay thế bằng mã số định danh của công dân, quản lý thông qua dữ liệu điện tử.
Ba là, ở những nơi có các tổ chức đại diện người lao động, cần nâng cao vai trò, trách nhiệm của các tổ chức này, đặc biệt ở cấp công đoàn cơ sở, nhằm thực hiện sứ mệnh đại diện và bảo vệ quyền và lợi ích của lao động di cư. Công đoàn cần tiếp tục lấy mục tiêu phát triển của từng doanh nghiệp làm động lực và lấy việc tập hợp, giáo dục, chăm lo đời sống vật chất, tinh thần, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đoàn viên công đoàn là lao động di cư làm nhiệm vụ trọng tâm, xuyên suốt.
Bốn là, về mối quan hệ lao động giữa người sử dụng lao động và người lao động, nhiều doanh nghiệp chưa thực hiện đúng quy định của pháp luật lao động và các cam kết đã thỏa thuận với người lao động, như không nâng lương đúng hạn hoặc nâng với mức quá thấp; thời gian làm thêm giờ của người lao động quá nhiều và việc trả lương làm thêm giờ cho người lao động không đầy đủ, chấm dứt hợp đồng lao động tùy tiện không có căn cứ pháp luật; doanh nghiệp áp dụng các biện pháp quản lý hà khắc… Về phía người lao động, phần lớn xuất thân từ nông thôn chưa được đào tạo cơ bản và có hệ thống, công tác tuyên truyền, giáo dục chưa được quan tâm nên sự hiểu biết về chính sách, pháp luật, ý thức tổ chức kỷ luật lao động, tác phong công nghiệp còn hạn chế dẫn đến việc không thực hiện đúng các quyền và nghĩa vụ khi tham gia quan hệ lao động và tranh chấp lao động, đình công không đúng trình tự do pháp luật quy định. Những vấn đề trên cần được quan tâm giải quyết triệt để trong thời gian tới.
Năm là, đẩy mạnh việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật về an sinh xã hội, trong đó cần nghiên cứu xây dựng và sửa đổi, bổ sung Bộ luật Lao động, Luật Cư trú, Luật Dạy nghề, Luật Công đoàn, Luật Nhà ở, Luật Giáo dục, Luật Bảo hiểm xã hội, Luật Bảo hiểm y tế...; nghiên cứu ban hành các văn bản pháp luật nói chung về an sinh xã hội cộng đồng... nhằm bảo đảm cơ sở pháp lý đầy đủ cho việc thực hiện đồng bộ, nghiêm túc, hiệu quả các quy định, chính sách, chế độ an sinh xã hội cho lao động di cư. Rà soát, điều chỉnh, bổ sung các chính sách hiện hành về an sinh xã hội, như bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, trợ giúp xã hội, ưu đãi xã hội, hệ thống hỗ trợ tích cực... cho phù hợp với thực tiễn, với nhu cầu thực sự của lao động di cư. Phối hợp đồng bộ chính sách an sinh xã hội cho lao động di cư với các chính sách kinh tế - xã hội khác, như chính sách việc làm, chính sách tiền lương và thu nhập, thực hiện các chương trình hỗ trợ tích cực, các chương trình mục tiêu xóa đói, giảm nghèo bền vững..., tăng cường khả năng tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản cho họ./.
_____________________
Bài đăng trên Tạp chí Cộng sản điện tử 20.11.2020
(1)http://www.chinhphu.vn/portal/page/portal/chinhphu/NuocCHXHCNVietNam/ThongTinTongHop?categoryId=920&articleId=10053009
(2)http://dangcongsan.vn/xay-dung-dang/nghi-quyet-hoi-nghi-trung-uong-5-khoa-xii-ve-hoan-thien-the-che-kinh-te-thi-truong-dinh-huong-xa-hoi-chu-nghia-440462.html
Đoàn Hiền
Tạp chí Cộng sản
Nguồn: https://www.tapchicongsan.org.vn/
Bài liên quan
- Hệ thống chính trị Việt Nam truyền thống và hiện đại từ góc nhìn đổi mới
- Tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả
- Giữ gìn và bảo vệ giá trị văn hóa truyền thống các dân tộc ít người, góp phần củng cố, phát triển khối đại đoàn kết toàn dân tộc
- Xu hướng hòa bình, hợp tác, phát triển trên thế giới và vai trò của Việt Nam hiện nay
- Phát huy vai trò của ngành công nghiệp xuất bản trong việc gìn giữ bản sắc văn hóa dân tộc
Xem nhiều
- 1 Giữ gìn và bảo vệ giá trị văn hóa truyền thống các dân tộc ít người, góp phần củng cố, phát triển khối đại đoàn kết toàn dân tộc
- 2 Sử dụng ChatGPT trong việc cải thiện kỹ năng viết cho sinh viên học tiếng Anh
- 3 Phát triển nguồn nhân lực ở tỉnh Bến Tre: Thực trạng và giải pháp
- 4 Nội dung chuyên đề của Tổng Bí thư Tô Lâm về kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc
- 5 Công tác dân tộc qua những bài học cụ thể của Chủ tịch Hồ Chí Minh từ ngày đầu thành lập nước
- 6 Những thách thức về bảo vệ nền tảng tư tưởng trên các phương tiện truyền thông xã hội
Liên kết
- Báo điện tử đảng cộng sản việt nam
- Báo nhân dân
- Báo Quân đội nhân dân
- Cổng thông tin điện tử Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Cổng thông tin điện tử Học viện Chính trị quốc gia hồ chí minh
- Tạp chí Cộng sản
- Tạp chí Giáo dục lý luận
- Tạp chí Giáo dục và Xã hội
- Tạp chí Khoa học xã hội và Nhân văn
- Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam
- Tạp chí Lý luận chính trị
- Tạp chí Nghiên cứu con người
- TẠP CHÍ Nghiên cứu dân tộc
- Tạp chí Người làm báo
- Tạp chí Nội chính
- Tạp chí Quản lý Nhà nước
- Tạp chí Tổ chức Nhà nước
- Tạp chí Tuyên giáo
- Tạp chí Xây Dựng Đảng
- Thư viện số Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Trang thông tin điện tử Hội đồng Lý luận Trung ương
Vai trò của quản trị truyền thông trong phát triển du lịch bền vững – Nghiên cứu trường hợp tại tỉnh Khánh Hòa
Trong bối cảnh du lịch ngày càng đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế, việc phát triển du lịch bền vững tại Khánh Hòa đòi hỏi sự tham gia chủ động của cả chính quyền, doanh nghiệp và cộng đồng địa phương (CĐĐP). Quản trị truyền thông không chỉ góp phần xây dựng hình ảnh Khánh Hòa là một điểm đến bền vững, mà còn trở thành công cụ quan trọng trong việc kết nối các bên liên quan, nâng cao nhận thức bảo vệ môi trường và bảo tồn văn hóa bản địa. Bài báo khoa học này tập trung hệ thống hóa và đánh giá tiềm năng du lịch cộng đồng (DLCĐ) tại tỉnh Khánh Hòa, đồng thời đề xuất các giải pháp quản trị truyền thông hiệu quả nhằm phát triển DLCĐ một cách đồng bộ, giúp du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn và đúng định hướng chiến lược, trong đó DLCĐ đóng vai trò cốt lõi. Kết quả nghiên cứu được thu thập thông qua các phương pháp như: phỏng vấn sâu; phương pháp khảo sát; phân tích, tổng hợp và so sánh dữ liệu; xử lý số liệu bằng phần mềm SPSS.22.0.
Hệ thống chính trị Việt Nam truyền thống và hiện đại từ góc nhìn đổi mới
Hệ thống chính trị Việt Nam truyền thống và hiện đại từ góc nhìn đổi mới
Nhìn toàn bộ tiến trình lịch sử chính trị của dân tộc, “Hệ thống chính trị” nước ta dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là một thiết chế chính trị mạnh, mô hình này phù hợp với hoàn cảnh Việt Nam và đúng với quy luật vận động của lịch sử. Và, cũng từ thực tế lịch sử, có thể thấy sức mạnh thực sự của Hệ thống chính trị mà chúng ta đang có chủ yếu không phải do tính chất nhất nguyên mà là do uy tín của Đảng, Nhà nước và lãnh tụ Hồ Chí Minh. Sức sống của hệ thống chính trị là sự phù hợp, thống nhất giữa mục đích của Đảng với nguyện vọng của nhân dân, với nhu cầu phát triển của đất nước. Hệ thống chính trị Việt Nam đương đại, trên cơ sở kết tinh các giá trị thiết chế truyền thống gắn với hiện đại không ngừng đổi mới phát triển khẳng định sức mạnh của Hệ thống tổ chức quyền lực Chính trị Việt Nam có vai trò quyết định thành công xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN.
Tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả
Tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả
Xây dựng tổ chức bộ máy hiệu lực, hiệu quả là công việc khó khăn, phức tạp, đòi hỏi sự đoàn kết, thống nhất, dũng cảm, sự hy sinh của từng cán bộ, đảng viên cùng với quyết tâm rất cao của toàn Đảng, cả hệ thống chính trị, trước hết là người đứng đầu cấp ủy, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và đoàn thể các cấp. Tạp chí Cộng sản trân trọng giới thiệu bài viết của đồng chí Tổng Bí thư Tô Lâm về xây dựng hệ thống chính trị với tiêu đề: “Tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả”:
Giữ gìn và bảo vệ giá trị văn hóa truyền thống các dân tộc ít người, góp phần củng cố, phát triển khối đại đoàn kết toàn dân tộc
Giữ gìn và bảo vệ giá trị văn hóa truyền thống các dân tộc ít người, góp phần củng cố, phát triển khối đại đoàn kết toàn dân tộc
Với cộng đồng 54 dân tộc anh em, Việt Nam là quốc gia có nền văn hóa đa dạng, phong phú, có những nét riêng, trở thành tài sản quý giá làm nên bản sắc văn hóa Việt Nam độc đáo, đặc sắc. Giữ gìn và bảo vệ các giá trị di sản văn hóa truyền thống chính là góp phần củng cố phát triển khối đại đoàn kết dân tộc - một sức mạnh nội sinh to lớn và vĩ đại, làm nên mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam, dưới lá cờ vẻ vang của Đảng.
Xu hướng hòa bình, hợp tác, phát triển trên thế giới và vai trò của Việt Nam hiện nay
Xu hướng hòa bình, hợp tác, phát triển trên thế giới và vai trò của Việt Nam hiện nay
Trong bối cảnh hiện nay sự cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn, chạy đua vũ trang, các cuộc xung đột tôn giáo, sắc tộc vẫn diễn ra ở nhiều nơi, đặc biệt là cuộc xung đột quân sự giữa Nga và Ukraina ở Đông Âu, giữa Israel và Palestine vùng các tổ chức hồi giáo ở Trung Đông diễn biến ngày càng căng thẳng đe dọa tới hòa bình, an ninh khu vực và thế giới. Tuy vậy, hòa bình, hợp tác và phát triển vẫn là mục tiêu hướng tới của các nước, là xu hướng chính trị -xã hội tất yếu của nhân loại, từ đó đặt ra vai trò, trách nhiệm của các quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam.
Bình luận