Bài 2: Tính khoa học là đặc tính cơ bản, cốt yếu của tư tưởng Hồ Chí Minh
Bài 1: Mệnh lệnh từ cuộc sống, sự thôi thúc từ trái tim
Bài 2: Tính khoa học là đặc tính cơ bản, cốt yếu của tư tưởng Hồ Chí Minh
Bài 3: Tính cách mạng trong tư tưởng Hồ Chí Minh - tầm nhìn, bản lĩnh và hành động
Bài 4: Nhân văn - nguồn sáng làm nên tầm vóc tư tưởng Hồ Chí Minh
Nhận thức thấu đáo, giải quyết sáng tạo tính phổ biến và tính đặc thù của cách mạng Việt Nam
Điểm xuất phát mà cũng là chỗ hướng đích của nhận thức để hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh là thực tiễn. Thực tiễn đó là hoàn cảnh lịch sử trong nước, trước tình cảnh nước mất nhà tan, cả dân tộc chìm đắm trong đêm dài nô lệ, phải tìm ra con đường cứu nước, cứu dân, đưa dân tộc từ vong quốc nô tới độc lập, tự do, thức tỉnh con người về quyền sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc. Thực tiễn đó là lao động vô sản hóa, gắn liền lao động, học tập và tranh đấu trong suốt cuộc hành trình đi tìm chân lý kéo dài 30 năm (1911-1941).
Người đi về phương Tây, đến tận sào huyệt của kẻ thù là nước Pháp để tìm hiểu bản chất của chủ nghĩa đế quốc, thực dân, tìm ra con đường đánh đổ nó để giải phóng dân tộc. Thực tiễn đó còn là khảo sát tình hình thế giới, nhận rõ bạn - thù, tiếp thu ánh sáng của Cách mạng Tháng Mười và giác ngộ Chủ nghĩa Mác -Lênin, từng bước một, tích lũy kiến thức và kinh nghiệm. Khảo sát mọi học thuyết để định hình bằng sự lựa chọn Chủ nghĩa Lênin, Chủ nghĩa Mác-Lênin, đạt tới bước ngoặt từ người yêu nước trở thành người chiến sĩ cộng sản. Trong cuộc hành trình tư tưởng ấy, Nguyễn Tất Thành-Văn Ba-Nguyễn Ái Quốc đã từ thực tiễn mà hình thành lý luận cách mạng, giác ngộ về lập trường, quan điểm giai cấp công nhân, giải quyết đúng đắn mối quan hệ giai cấp và dân tộc, đặt cách mạng giải phóng dân tộc trong quỹ đạo của cách mạng vô sản, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, nêu cao tính độc lập tự chủ “đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”.
Tính khoa học trong tư tưởng Hồ Chí Minh đã giúp Người tìm ra câu trả lời đúng đắn nhất khi tiếp cận tư tưởng thiên tài của Lênin về quyền tự quyết của các dân tộc và phát hiện ra quy luật tất yếu của cách mạng Việt Nam trong thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên CNXH. Độc lập dân tộc gắn liền với CNXH trở thành sợi chỉ đỏ, bao trùm, xuyên suốt hệ thống tư tưởng của Người. Với Việt Nam, yêu cầu giải phóng dân tộc đặt lên hàng đầu trên lập trường giai cấp công nhân. Và CNXH Việt Nam là quá độ bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa tới CNXH, đó là một tất yếu lịch sử do thời đại quy định. Hồ Chí Minh nhấn mạnh, đó là đặc điểm to nhất của Việt Nam trên con đường tới CNXH. Hơn nữa, cách mạng trước hết phải có Đảng, Đảng phải có chủ nghĩa làm cốt. Đảng không có chủ nghĩa cũng như người không có trí khôn, như con tàu không có bàn chỉ nam. Chủ nghĩa ấy, Người đã lựa chọn là chủ nghĩa Lênin, Mác-Lênin vì nó là chủ nghĩa chân chính nhất, cách mạng nhất(1).
Nhờ quan điểm thực tiễn, thấm nhuần chỉ dẫn của Lênin “phân tích cụ thể một tình hình cụ thể, đó là bản chất, linh hồn sống của chủ nghĩa Mác” mà Hồ Chí Minh xác định đúng sự kết hợp giữa tính phổ biến và tính đặc thù của cách mạng Việt Nam, trước hết ở trong quy luật thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam “kết hợp chủ nghĩa Mác-Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước của dân tộc Việt Nam”. Đó là những phát kiến lý luận quan trọng của Người.
Cống hiến nhiều tư tưởng, quan điểm mới mẻ về Đảng
Là nhà tư tưởng, nhà tổ chức thiên tài của cách mạng Việt Nam, Người xác định, thống nhất giữa lý luận với thực tiễn là bản chất, là nguyên tắc tối cao của chủ nghĩa Mác-Lênin. Người chỉ dẫn cho chúng ta: “Thực hành sinh ra hiểu biết. Hiểu biết tiến lên lý luận. Lý luận lãnh đạo thực hành”(2).
Đó là một tư tưởng lớn, thấm nhuần quan điểm thực tiễn, là cơ sở khoa học để “lý luận liên hệ với thực tiễn”, “học đi đôi với hành”, “nói đi đôi với làm” như Người thường xuyên căn dặn chúng ta.
Tính khoa học trong tư tưởng Hồ Chí Minh còn thể hiện rõ ở quan điểm phát triển, quan điểm đổi mới gắn liền với hội nhập quốc tế. Người có tư tưởng đổi mới, hội nhập từ rất sớm. Người đưa ra thông điệp với quốc tế và thế giới: “Việt Nam mong muốn là bạn của các nước dân chủ, Việt Nam quyết không thù oán với một ai”, tranh thủ tối đa sự ủng hộ của quốc tế, thêm bạn bớt thù, kiến tạo môi trường hòa bình để phát triển. Vào năm 1947, khi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược trở lại, ở Việt Bắc, tại an toàn khu (ATK), Người viết hai tác phẩm quan trọng “Đời sống mới” (tháng 3.1947, lấy bút danh là Tân Sinh) và “Sửa đổi lối làm việc” (tháng 10.1947, với bút danh là X.Y.Z). “Đời sống mới” giải quyết mối quan hệ biện chứng giữa cái cũ và cái mới, nêu cao đạo đức cách mạng cần, kiệm, liêm chính trong đời sống hằng ngày của mỗi người, xây dựng lối sống mới, văn hóa mới...
“Sửa đổi lối làm việc” là tác phẩm đầu tiên đặt vấn đề đổi mới khi Đảng đã cầm quyền và trước hết phải đổi mới Đảng để thúc đẩy đổi mới xã hội, chọn mắt khâu xung yếu, đột phá là “phải sửa đổi lối làm việc của Đảng”, tức là đổi mới phương pháp, phương thức, phong cách lãnh đạo, cầm quyền của Đảng. Người nêu ra 12 điều xây dựng Đảng chân chính cách mạng. Chỉ với 456 từ, 12 điều ấy đã định hình một chủ thuyết, học thuyết xây dựng Đảng Cộng sản cầm quyền, trong điều kiện, hoàn cảnh của Việt Nam “vừa kháng chiến vừa kiến quốc”.
Tác phẩm của Người nổi bật một tư tưởng lớn “dựa vào dân mà xây dựng Đảng”, nhấn mạnh đặc biệt tới chất lượng đội ngũ cán bộ, cách lãnh đạo, cách dùng người, kể cả trọng dụng nhân tài ngoài Đảng, có tính thời sự và hiện đại tới ngày nay đối với Đảng ta. Người còn viết “Lời kêu gọi thi đua ái quốc” (1948), “Dân vận” (1949) cũng thấm nhuần tư tưởng đổi mới trên những định hướng khoa học - nhân văn và dân chủ. Đó là những chỉ dẫn quan trọng có tầm chiến lược để tạo động lực phát triển, củng cố mối liên hệ máu thịt giữa Đảng với dân, để toàn Đảng, toàn dân nỗ lực vượt bậc làm cho “kháng chiến tất thắng”, “kiến quốc tất thành”, bằng sức mạnh “đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết, thành công, thành công, đại thành công”(3).
Vấn đề quyết định là Đảng phải thật trong sạch, thật vững mạnh, sự lãnh đạo của Đảng phải đúng đắn, sáng suốt, lãnh đạo một cách khoa học, một cách dân chủ, lãnh đạo bằng sự gương mẫu, nêu gương và trách nhiệm nêu gương, nhất là của cơ quan lãnh đạo và người lãnh đạo. Giá trị khoa học này trong tư tưởng Hồ Chí Minh đang soi sáng cho Đảng ta hiện nay trong công cuộc xây dựng, chỉnh đốn Đảng, thấm nhuần lời dạy của Người: “Đảng là đạo đức, là văn minh”(4), “một tấm gương sống còn có giá trị hơn hàng trăm bài diễn văn tuyên truyền”, một cách thực tiễn và dung dị “đảng viên đi trước, làng nước theo sau”.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, tính khoa học đặc biệt nổi bật khi Người nói về “xây dựng, chỉnh đốn Đảng”, về “thực hành dân chủ, xây dựng nhà nước dân chủ - pháp quyền-nhân nghĩa” của dân, do dân, vì dân, thực hiện và phát huy quyền làm chủ thực chất của nhân dân; về công tác mặt trận, thực hành đại đoàn kết, thực hành tiết kiệm, chống quan liêu, lãng phí, tham ô. Vào những năm 60 của thế kỷ 20, khi Người chỉ đạo cuộc vận động “3 xây, 3 chống”, Người coi đây thực sự là một cuộc cách mạng nội bộ, Người đặc biệt nhấn mạnh tới trách nhiệm và đạo đức gương mẫu của cán bộ, đảng viên(5).
Chống chủ nghĩa cá nhân như chống “giặc nội xâm”, kẻ thù nguy hiểm nhất, phải ra sức “nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân”. Đây là một trong những tác phẩm cuối đời của Người, cũng là chủ đề thường trực mà Người quan tâm suốt đời, kết tinh trong bản "Di chúc" thiêng liêng “trước hết nói về Đảng” và “đầu tiên là công việc với con người”.
Giá trị lý luận đặc sắc của Hồ Chí Minh về chủ nghĩa xã hội
Hồ Chí Minh còn đem lại những kiến giải khoa học sâu sắc về CNXH và xây dựng CNXH ở Việt Nam. Người đặt nền móng cho lý luận CNXH khoa học và xây dựng CNXH trong tính đặc thù Việt Nam, ở Việt Nam, đem lại câu trả lời sáng tỏ nhất cho những câu hỏi lớn nhất: CNXH là gì? Vì sao lại lựa chọn con đường phát triển xã hội chủ nghĩa như một tất yếu và xây dựng CNXH ở Việt Nam như thế nào? Bằng những biện pháp, phương pháp nào? với những điều kiện và bước đi cụ thể ra sao? Tính dân tộc, tính nhân dân, tính sáng tạo và đổi mới được thể hiện đậm nét trong lý luận Hồ Chí Minh về CNXH.
Theo Hồ Chí Minh, CNXH là “dân giàu, nước mạnh”, là “dân chủ và công bằng”, là hạnh phúc của người dân từ cơm ăn, áo mặc, học hành đến quyền dân chủ và làm chủ. Người chủ trương “làm điều lợi cho dân, tránh điều hại tới dân”, “không làm gì trái ý dân”, “ra sức giải phóng sức dân, phát triển sức dân, bồi dưỡng sức dân và tiết kiệm sức dân”. Cách làm tốt nhất để có CNXH là “đem tài dân, sức dân để làm lợi cho dân, để mưu cầu hạnh phúc cho dân”. Phải thấy rõ “CNXH cộng với khoa học là nguồn sức mạnh vô tận”, phải chú trọng đồng bộ từ củng cố chế độ chính trị đến phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội và con người, vì lợi ích của người dân, trước mắt và lâu dài. Phải kết hợp toàn diện các mặt, các lĩnh vực, gắn liền xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa bằng sức mạnh đối nội, đối ngoại, quốc phòng và an ninh. Phải học tập, vận dụng sáng tạo kinh nghiệm và bài học từ các nước anh em chứ không máy móc, giáo điều, chủ quan, biệt phái.
Có thể nói, tính khoa học trong tư tưởng Hồ Chí Minh, nhất là tư tưởng của Người về CNXH và xây dựng CNXH nổi bật các yêu cầu “đúng quy luật, thuận lòng dân, hợp thời đại”, sao cho “đời sống vật chất ngày càng tăng, đời sống tinh thần ngày càng tốt, xã hội ngày càng văn minh, tiến bộ”(6). Đó là quan điểm phát triển mà nhà tư tưởng mác-xít lỗi lạc, nhà biện chứng thực hành xuất sắc Hồ Chí Minh đã chỉ dẫn và tự mình thực hành để nêu gương cho chúng ta noi theo./.
(còn nữa)
_______________________________
(1) Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, T.2, tr.289 (Đường cách mệnh).
(2) Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, T.7, tr.120.
(3) Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, T.13, tr.119, 455.
(4) Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, T.12, tr.403.
(5) Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, T.14, tr.142, 421.
(6) Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, T.13, tr.438.
Nguồn: Bài đăng trên Báo Quân đội nhân dân điện tử ngày 20.5.2022
Bài liên quan
- Công tác dân tộc qua những bài học cụ thể của Chủ tịch Hồ Chí Minh từ ngày đầu thành lập nước
- Từ tư tưởng của Hồ Chí Minh "Học không bao giờ cùng..." đến nhiệm vụ nghiên cứu, học tập của giảng viên giảng dạy lý luận chính trị hiện nay
- Thực hành dân chủ và nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng theo Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh
- Bước phát triển về chuẩn mực “Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư”
- Tác phẩm của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tiếp cận từ góc độ học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh
Xem nhiều
- 1 Video Tư liệu: Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông 30 năm xây dựng và phát triển
- 2 Sử dụng công nghệ trí tuệ nhân tạo trong sản xuất chương trình truyền hình
- 3 Giữ gìn và bảo vệ giá trị văn hóa truyền thống các dân tộc ít người, góp phần củng cố, phát triển khối đại đoàn kết toàn dân tộc
- 4 Phát triển nguồn nhân lực ở tỉnh Bến Tre: Thực trạng và giải pháp
- 5 Sử dụng ChatGPT trong việc cải thiện kỹ năng viết cho sinh viên học tiếng Anh
- 6 Lễ kỷ niệm và Hội thảo khoa học “30 năm - Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông”
Liên kết
- Báo điện tử đảng cộng sản việt nam
- Báo nhân dân
- Báo Quân đội nhân dân
- Cổng thông tin điện tử Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Cổng thông tin điện tử Học viện Chính trị quốc gia hồ chí minh
- Tạp chí Cộng sản
- Tạp chí Giáo dục lý luận
- Tạp chí Giáo dục và Xã hội
- Tạp chí Khoa học xã hội và Nhân văn
- Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam
- Tạp chí Lý luận chính trị
- Tạp chí Nghiên cứu con người
- TẠP CHÍ Nghiên cứu dân tộc
- Tạp chí Người làm báo
- Tạp chí Nội chính
- Tạp chí Quản lý Nhà nước
- Tạp chí Tổ chức Nhà nước
- Tạp chí Tuyên giáo
- Tạp chí Xây Dựng Đảng
- Thư viện số Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Trang thông tin điện tử Hội đồng Lý luận Trung ương
Những thách thức về bảo vệ nền tảng tư tưởng trên các phương tiện truyền thông xã hội
Bảo vệ nền tảng tư tưởng trên các phương tiện truyền thông xã hội hiện nay đứng trước rất nhiều khó khăn, thách thức do các yếu tố chủ quan và khách quan mang lại. Lan toả các giá trị tư tưởng của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu để tiếp tục đưa đất nước tiến lên theo con đường xã hội chủ nghĩa. Vấn đề của hoạt động bảo vệ nền tảng tư tưởng trên các phương tiện truyền thông xã hội hiện nay là làm sao thu hút được sự quan tâm của đại bộ phận nhân dân, để nhân dân tin tưởng và làm theo Đảng thông qua những nội dung gần gũi, sinh động, hấp dẫn và hiện đại. Hai yếu tố ảnh hưởng lớn nhất tới hoạt động bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng chính là sự phát triển nhanh chóng của các phương tiện truyền thông, đặc biệt truyền thông xã hội và hiện tượng truyền thông hoá.
Công tác dân tộc qua những bài học cụ thể của Chủ tịch Hồ Chí Minh từ ngày đầu thành lập nước
Công tác dân tộc qua những bài học cụ thể của Chủ tịch Hồ Chí Minh từ ngày đầu thành lập nước
Ngay sau khi nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời vào ngày 2/9/1945, chính quyền cách mạng non trẻ của chúng ta đã phải đương đầu với nạn “thù trong, giặc ngoài”, ở cả 2 miền Nam, Bắc vấn đề về xung đột dân tộc trở thành tâm điểm có nguy cơ gây ảnh hưởng trực tiếp đến sự tồn vong của nhà nước cách mạng non trẻ. Với trí tuệ uyên bác, sự lãnh đạo thiên tài của Chủ tịch Hồ Chí Minh, các vấn đề tưởng chừng hết sức phức tạp ấy lại được Người khéo léo giải quyết thành công, đem lại bài học có giá trị cách mạng sâu sắc về công tác dân tộc cả trong quá khứ, hiện tại và tương lai.
Từ tư tưởng của Hồ Chí Minh "Học không bao giờ cùng..." đến nhiệm vụ nghiên cứu, học tập của giảng viên giảng dạy lý luận chính trị hiện nay
Từ tư tưởng của Hồ Chí Minh "Học không bao giờ cùng..." đến nhiệm vụ nghiên cứu, học tập của giảng viên giảng dạy lý luận chính trị hiện nay
Chủ tịch Hồ Chí Minh - lãnh tụ vĩ đại của Đảng và dân tộc Việt Nam, là anh hùng giải phóng dân tộc và nhà văn hóa kiệt xuất, Người đã để lại di sản quý báu về tư tưởng, đạo đức, phong cách cho Đảng và Nhân dân ta. Di sản Hồ Chí Minh bao quát rộng lớn các vấn đề của cách mạng Việt Nam, trong đó có tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục - đào tạo. Trong giới hạn của bài viết này, chúng tôi chỉ đề cập đến lời dạy của Người trong Thư gửi “Quân nhân học báo” tháng 4/1949: “Học không bao giờ cùng. Học mãi để tiến bộ mãi. Càng tiến bộ, càng thấy càng phải học thêm”(1) là vấn đề có ý nghĩa thời sự đối với việc nghiên cứu, học tập của cán bộ, đảng viên nói chung, giảng viên làm công tác giảng dạy lý luận chính trị nói riêng hiện nay.
Thực hành dân chủ và nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng theo Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh
Thực hành dân chủ và nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng theo Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh
Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh là một văn kiện lịch sử đặc biệt, có giá trị to lớn cả về lý luận và thực tiễn, hàm chứa nhiều nội dung sâu sắc về xây dựng Đảng cầm quyền, đặc biệt là vấn đề thực hành dân chủ và nguyên tắc tập trung dân chủ trong Đảng. Trải qua 55 năm, di huấn của Người về vấn đề này vẫn còn nguyên giá trị lịch sử và thời đại.
Bước phát triển về chuẩn mực “Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư”
Bước phát triển về chuẩn mực “Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư”
Suy ngẫm tư tưởng Hồ Chí Minh về “Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư” và nghiên cứu Điều 3 Quy định số 144 để thấy được bước phát triển của Đảng về chuẩn mực đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên trong giai đoạn mới.
Bình luận