Các biện pháp rèn luyện năng lực tự học cho sinh viên Phân viện Báo chí và Tuyên truyền qua dạy học môn Toán
Tự học là một trong những yếu tố quyết định chất lượng giáo dục. Chất lượng giáo dục - đào tạo của nhà trường chính là chất lượng học tập và rèn luyện của sinh viên (SV). Để tạo ra chất lượng này cần có sự tham gia của nhiều yếu tố, trong đó quan trọng nhất là vấn đề tự học, tự rèn luyện của SV.
Tự học là hình thức hoạt động nhận thức của người học nhằm chiếm lĩnh tri thức, tự mình luyện tập các thao tác, hành động để hình thành kỹ năng kỹ xảo. Như vậy, tự học giúp người học tự tìm ra tri thức mới, cách thức hành động mới bằng chính nỗ lực của bản thân mình. Tự học hình thành nên những con người năng động sáng tạo.
Để nâng cao hiệu quả dạy học nói riêng và chất lượng giáo dục - đào tạo nói chung thì phải chú trọng nâng cao năng lực tự học cho SV. Tinh thần của các Nghị quyết Trung ương 4 (khoá VII) và Nghị quyết Trung ương 2 (khoá VIII) đã được thể chế hoá trong Luật giáo dục ở điều 36b như sau: “ Phương pháp giáo dục đại học phải coi trọng bồi dưỡng năng lực tự học, tự nghiên cứu, tạo điều kiện cho người học phát triển tư duy sáng tạo, rèn luyện kỹ năng thực hành, tham gia nghiên cứu, thực nghiệm, ứng dụng”. Năng lực tự học là năng lực hết sức quan trọng mà sinh viên đại học phải có. Có năng lực tự học mới có thể học suốt đời được. Vì vậy, ở đại học, quan trọng nhất là học cách học.
Năng lực (NL) tự học là khả năng tự mình tìm tòi, nhận thức và vận dụng kiến thức vào tình huống mới hoặc tương tự với chất lượng cao. NL tự học bao gồm: NL nhận biết, tìm tòi và phát hiện vấn đề; NL giải quyết vấn đề; NL xác định những kết luận đúng (kiến thức, cách thức, giải pháp, biện pháp…) từ quá trình giải quyết vấn đề; NL vận dụng kiến thức vào thực tiễn (hoặc vào nhận thức kiến thức mới); NL đánh giá và tự đánh giá. Năm NL trên vừa đan xen nhưng vừa tiếp nối nhau, tạo nên NL tự học của sinh viên. Đó cũng chính là NL của người nghiên cứu khoa học.
Việc rèn luyện và nâng cao NL tự học cho SV là một quá trình lâu dài bắt đầu ngay từ năm đầu ở đại học và kéo dài trong suốt cả quá trình học tập, với nhiều hình thức phong phú và mức độ từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp.
Môn toán được giảng dạy trong Phân viện Báo chí và Tuyên truyền bao gồm các học phần: xác suất thống kê (XSTK) là học phần bắt buộc hầu hết với các chuyên ngành đào tạo trong Phân viện với thời lượng từ 45 tiết đến 75 tiết; toán kinh tế trong chương trình đào tạo chuyên ngành KTCT và toán cao cấp trong chương trình đào tạo chuyên ngành Triết học với thời lượng 60 tiết. Các học phần này có khối lượng kiến thức tương đối lớn so với thời gian dạy học trên lớp và được giảng dạy chủ yếu ở năm thứ nhất và năm thứ hai. Tuy đã có nhiều giáo trình về XSTK, toán kinh tế và toán cao cấp của các trường đại học trong nước, đặc biệt đã có một vài giáo trình các học phần này của Phân viện, song một số giáo trình chưa đáp ứng tốt được các yêu cầu về tự học, tự nghiên cứu cho SV. Qua tìm hiểu về tình hình học tập của SV Phân viện, chúng tôi thấy có nhiều SV chưa nhận thức được một cách đầy đủ và toàn diện ý nghĩa,vai trò của việc tự học nói chung, do đó ý thức tự học chưa cao, năng lực tự học còn yếu. Mặt khác, SV của Phân viện chủ yếu thiên về khoa học xã hội cho nên thường có rào cản tâm lý khó khăn trong việc học tập môn toán. Vì vậy, việc giúp SV hình thành và phát triển năng lực tự học bộ môn này không những giúp họ vượt qua rào cản tâm lý đó, mà còn cổ vũ họ tiếp tục nâng cao năng lực tự học các môn học khác trong chương trình đào tạo.
Căn cứ vào thực trạng về học tập của SV Phân viện, chúng tôi đề xuất một số biện pháp hình thành và phát triển năng lực tự học cho SV Phân viện qua dạy học bộ môn toán như sau:
1. Tăng cường biên soạn giáo trình, bài giảng, tài liệu hướng dẫn đáp ứng yêu cầu về tài liệu tham khảo và trang bị đủ các phương tiện dạy học cần thiết.
- Đổi mới cách viết giáo trình: chuyển cách trình bày truyền thống kiểu thông báo - giải thích - minh hoạ sang cách tổ chức các hoạt động học tập tìm tòi khám phá, qua đó SV tự chiếm lĩnh nội dung kiến thức. Tuy nhiên , không nên cực đoan, có tham vọng biến toàn bộ nội dung bài học thành một chuỗi hoạt động khám phá. Điều này là không thể thực hiện được bởi vì khối lượng kiến thức trong mỗi bài là khá lớn, trình độ lý thuyết của chương trình là khá cao. Nếu đưa vào mỗi bài quá nhiều hoạt động thì GV và SV phải chạy theo thời gian, khó có thể suy nghĩ, thảo luận đến nơi đến chốn và như vậy các hoạt động tìm tòi đề ra sẽ chỉ là hình thức. Hãy chọn vài ba hoạt động thích đáng, hướng vào trọng tâm của bài để SV thực sự có thời gian suy nghĩ, phát hiện những kiến thức mấu chốt. Phần còn lại vẫn có thể dùng cách viết truyền thống quen thuộc.
Ví dụ: Trong giáo trình toán kinh tế phần bài toán QHTT đối ngẫu, sau khi trình bày ý nghĩa kinh tế của cặp bài toán đối ngẫu: bài toán lập kế hoạch sản xuất và bài toán đánh giá và sử dụng các nguồn tài nguyên trong quá trình sản xuất nên đưa ra cho SV tự tìm ra ý nghĩa kinh tế của cặp bài toán đối ngẫu khác: bài toán khẩu phần thức ăn (hay bài toán của bà nội trợ) và bài toán của nhà sản xuất thuốc bổ cần giải khi muốn tối ưu hoá hoạt động của mình…
- Giáo trình luôn phải đựoc bổ sung, hoàn thiện và cập nhật những kiến thức mới, hiện đại: chẳng hạn trong giáo trình xác suất thống kê dùng cho chuyên ngành XHH có thể trình bày một số các thủ tục của phần mềm SPSS để xử lý các mô hình thống kê có tính toán phức tạp; giáo trình xác suất thống kê dùng cho các chuyên ngành khác có thể giới thiệu hướng dẫn sử dụng một số hàm thống kê trong Excel để xử lý các mô hình thống kê đã học. Mặt khác, ngoài việc trình bày kiểm định có tính chất truyền thống và theo cách tiếp cận cổ điển, trong giáo trình này cần đưa vào một cách tiếp cận khác hiện đại là kiểm định giá trị P (P-value) để sinh viên có thể đọc và phân tích các kết quả xử lý số liệu trong bộ chương trình xử lý số liệu thống kê thông dụng SPSS hoặc các phần mềm ứng dụng cho xác suất thống kê của Miccrosoft Excel đã được đề cập tới trong giáo trình.
- Có thể biên soạn tài liệu hướng dẫn SV tự học bộ môn. Nội dung của tài liệu hướng dẫn bao gồm: mục đích yêu cầu của môn học, các loại giáo trình và tài lỉệu tham khảo hiện có, hệ thống bài tập, phương tiện, thiết bị, những kiến thức mà SV cần chuẩn bị, cần có trước khi vào học, cách tổ chức dạy học, hướng dẫn dạy học từng chương, bài cụ thể…Có thể nhập phần hướng dẫn này với giáo trình của môn học. Đặc biệt ở cuối mỗi chương cần biên soạn hệ thống bài tập đa dạng, nâng dần từ dễ đến khó, có nội dung gắn liền với thực tế, các vấn đề xã hội và đặc biệt gắn với chuyên ngành đào tạo. Có thể có phần đáp số của các bài tập hoặc hướng dẫn, gợi ý giải các bài tập khó để sinh viên thử thách, rèn luyện và tự kiểm tra.
- Để SV có thể sử dụng các phần mềm thông dụng trong việc giải các bài toán thống kê, các bài toán kinh tế đã được học trong chương trình, cần trang bị đủ các máy tính nối mạng để sinh viên thực hành trên máy, để GV có thể ứng dụng công nghệ thông tin vào việc giảng dạy để đạt hiệu quả cao nhất, góp phần phát triển năng lực tự học, tự nghiên cứu cho SV.
2. Đối mới phương pháp giảng dạy theo hướng phát huy tính tích cực học tập của sinh viên, kích thích người học tăng cường hoạt động tự học, tự nghiên cứu.
- Giảm tỷ lệ lý thuyết trình bày trên lớp của GV, dành thời gian thích đáng cho SV luyện giải bài tập và chữa bài tập, cho tự học, tự nghiên cứu, xemina, thảo luận, giải đáp thắc mắc. Thời lượng thuyết giảng của GV ít hơn 75% lượng thời gian lên lớp. Lớp học là nơi tổ chức trao đổi và thảo luận chuyên sâu. GV trình bày ngắn gọn và có minh hoạ phù hợp. SV cảm thấy được tôn trọng và đánh giá cao khi trao đổi và cảm thấy mình có trách nhiệm với việc học và sự tiến bộ của bản thân trong giờ học.
- Tăng cường sử dụng phương pháp dạy học phát hiện và giải quyết vấn đề: Đối với dạy học phát hiện và giải quyết vấn đề có thể sử dụng các cấp độ khác nhau, tuỳ theo mức độ độc lập của SV trong quá trình dạy học.
- Tăng cường tổ chức hoạt động học tập theo nhóm để SV hoạt động giao lưu tìm tòi phát hiện và trình bày cách chiếm lĩnh tri thức. Để tổ chức hình thức dạy học này GV cần nghiên cứu kỹ nội dung dạy học, từ đó có thể tìm ra một số bài học có thể tổ chức hoạt động theo nhóm.
Thí dụ, GV có thể chọn phần lý thuyết mẫu thuộc học phần Xác suất thống kê để dùng hình thức thảo luận nhóm. Trước khi giảng dạy phần này GV yêu cầu SV tự đọc giáo trình ở nhà và tự trả lời các câu hỏi mà GV đưa ra. Sau đó, trên lớp GV tổ chức lớp thành các nhóm, mỗi nhóm có khoảng 7-10 SV, bao gồm cả các loại khá, giỏi, trung bình và yếu. Trên cơ sở chia nhóm, GV giới thiệu chủ đề thảo luận cho tất cả SV, đặt ra các câu hỏi- vấn đề thảo luận, gợi ý hướng suy nghĩ và giải quyết vấn đề thông qua đề cương được GV đưa ra nhằm định hướng cho SV.
Có thể cho mỗi nhóm nghiên cứu, thảo luận một phương pháp chọn mẫu khác nhau, sau đó trao đổi những ý kiến và cách giải quyết vấn đề của nhóm mình với nhóm khác. Ví dụ: Nhóm 1: phương pháp chọn mẫu ngẫu nhiên đơn giản; Nhóm 2: phương pháp chọn mẫu hệ thống; Nhóm 3: phương pháp chọn mẫu phân tầng; Nhóm 4: Phương pháp chọn mẫu chùm; Nhóm 5: phương pháp chọn mẫu nhiều cấp.
GV đưa ra những bài tập tình huống buộc các nhóm phải suy nghĩ và đưa ra đáp án của mình. Tình huống thường là những bài tập vận dụng, đòi hỏi sinh viên phải biết vận dụng những kiến thức về lý luận vừa trao đổi và khẳng định để giải quyết chúng.
Như vậy, thảo luận nhóm bước đầu đã hình thành ở SV khả năng tự học, tự nghiên cứu, thể hiện phương pháp tư duy khoa học và tập làm quen với cách thuyết trình khoa học. Trong cách học này, SV thể hiện được trách nhiệm của mình trong học tập, trong nhóm, thể hiện được tinh thần thi đua trong học tâp, tình bạn và sự giúp đỡ nhau trong học tập. Hình thức dạy học thảo luận nhóm tạo được sự giao lưu gần gũi cởi mở giữa GV và SV, GV dễ dàng thu được các thông tin phản hồi từ các SV. Từ đó, GV có thể điều chỉnh nội dung và phương pháp giảng dạy để đạt hiệu quả cao hơn. Hơn nữa, do lớp học chia nhỏ nên việc dạy học được sát đối tượng hơn. Bằng việc đưa ra các bài tập tình huống và đặt ra các câu hỏi phức tạp hơn nên đã khuyến khích được các SV khá giỏi phát huy khả năng của mình để tham gia xây dựng bài, đồng thời có điều kiện giúp đỡ SV yếu, kém thông qua hoạt động hợp tác trong nhóm học tập.
3. Tổ chức cho SV hoạt động tập dượt nghiên cứu khoa học và hướng dẫn SV áp dụng những kiến thức đã học vào thực tế.
NL tự học của SV được hình thành và phát triển trong quá trình học tập sẽ là cơ sở phát triển NL nghiên cứu khoa học. Nếu trình độ phương pháp học tập của SV phát triển đến trình độ nghiên cứu khoa học thì cũng giúp cho SV phát triển bền vững NL tự học, giúp họ học tập thường xuyên, học suốt đời.
Khi dạy các học phần toán ở Phân viện, tuy có hạn chế về đối tượng SV không phải chuyên ngành toán, mà là chuyên ngành khoa học xã hội nhân văn và môn toán chỉ là môn ở phần đại cương với thời lượng rất ít so với các môn khác trong chuyên ngành đào tạo, nên hướng nghiên cứu cơ bản về môn toán thường không đặt ra mà chủ yếu chúng tôi đề xuất hướng dẫn cho SV tập dượt nghiên cứu khoa học dưới hình thức nghiên cứu ứng dụng những kiến thức đã học vào thực tế, chọn lọc các ví dụ minh hoạ, các bài tập từ thực tế gắn với nghề nghiệp được đào tạo. Chẳng hạn: Dưới hình thức đơn giản, có thể giao cho từng nhóm hay từng cá nhân SV ở các lớp thống kê điểm tổng kết cuối kỳ, cuối năm học của một môn học nào đó của các SV trong Phân viện, rồi dùng các bài toán ước lượng hay kiểm định để đánh giá. Dưới hình thức phức tạp hơn, đối với SV các chuyên ngành Báo chí và Xã hội học có thể đặt ra bài tập lớn với đề tài: “Nghiên cứu thực trạng về ý thức và năng lực tự học của SV Phân viện”. Kết hợp với các khoa chuyên ngành, GV có thể hướng dẫn SV xây dựng phiếu trắc nghiệm để tập làm công tác điều tra giáo dục theo quy trình: Xây dựng phiếu trắc nghiệm, điều tra mẫu, thu thập số liệu, lượng hoá bằng cách cho điểm từng câu, từng phiếu, lập bảng thống kê, rồi xử lý các số liệu thống kê bằng cách sử dụng các mô hình thống kê đã học để đánh giá (thống kê suy luận). Trên cơ sở các kết quả thu được, SV Báo chí có thể thực hiện tập viết các bài phóng sự điều tra theo những khía cạnh khác nhau của đề tài nêu trên; SV Xã hội học có thể kết hợp với các môn chuyên ngành để hoàn thiện một cách toàn diện hơn, sâu sắc hơn nghiên cứu nêu trên, từ đó đề xuất các giải pháp để nâng cao ý thức và phát triển năng lực tự học của SV phân viện.
4. Coi trọng đổi mới khâu kiểm tra đánh giá kết quả học tập của SV.
Để tăng cường ý thức và năng lực tự học của SV đối với môn học cần đổi mới phương pháp kiểm tra, đánh giá SV theo hướng công khai hoá quá trình và kết quả đánh giá. Đánh giá có sự tham dự của SV.
- GV cần công khai hoá nội dung những vấn đề kiểm tra và thi đối với môn học. Cụ thể là, ngay từ khi bắt đầu giảng dạy môn học GV cần công bố kế hoạch học tập bộ môn, thời gian thực hiện chương trình, nêu rõ cho người học biết kế hoạch và hình thức thi hết môn, hình thức kiểm tra từng phần của chương trình (từng chương).
- GV cần chấm bài kịp thời, chữa bài và chỉ rõ những sai sót mà SV thường gặp. Cần phối hợp nhiều biện pháp để kiểm tra đến cá nhân SV, tạo điều kiện để SV bộc lộ rõ thực chất của mình. Khi kiểm tra viết, thi viết, phải tạo điều kiện nghiêm ngặt để SV làm bài nghiêm túc và trung thực. Chẳng hạn có thể ra nhiều đề với mức độ tương đương. Đề bài kiểm tra phải vừa sức với đa số SV trong lớp, đồng thời có câu hỏi phụ cho các SV khá giỏi. Đề bài thi cuối học phần có nội dung đòi hỏi SV phải thể hiện được kiến thức có bề rộng, chiều sâu và có tính sáng tạo. Thông báo kịp thời và công khai kết quả kiểm tra, thi (vấn đáp, thi viết, thi rèn luyện kỹ năng thực hành). Từ đó để sinh viên tự nhận thức và tự đánh giá đúng khả năng của mình, tự điều chỉnh và có hướng phấn đấu tiếp theo.
- Cần phối hợp khéo léo các phương pháp kiểm tra: Kiểm tra miệng, kiểm tra viết, kiểm tra bài làm ở nhà. Đặc biệt kiểm tra bài làm ở nhà có tác dụng giáo dục SV về ý thức tổ chức kỷ luật, ý thức tự học, tinh thần trách nhiệm trong việc học tập của mỗi SV. Có thể kiểm tra thường xuyên hoặc bất kỳ. Để động viên ý thức và khả năng tự học những SV thực hiện các bài tập nghiên cứu các bài tập thực hành khá tốt thì có thể lấy điểm thay thế cho bài thi cuối học phần. GV cần có thái độ khách quan và tinh thần trách nhiệm cao trong việc cho điểm SV, không dễ dãi, không thiên vị. Việc cho điểm có tác dụng đến quan hệ thầy trò và đặc biệt có tác dụng đến thái độ học tập của SV đối với môn học.
- Việc kiểm tra của GV phải nhằm xây dựng cho SV ý thức và khả năng tự kiểm tra. Vì vậy cần có những hình thức và phương pháp kiểm tra mới: Có thể cho SV kiểm tra bài của nhau dưới sự hướng dẫn của GV. Việc chấm bài kiểm tra cũng vậy, nên có thêm hình thức trò chấm bài của nhau và tự chấm bài của mình, theo cách như sau: Đổi bài làm cho nhau để SV đọc và đánh giá bài của bạn, sau đó sinh viên đọc lại bài làm của mình và tự đánh giá, cuối cùng căn cứ vào nhận xét của bạn và tự nhận xét, SV sửa lại bài làm của mình.
- Tăng cường trắc nghiệm khách quan (TNKQ). So với các phương pháp đánh giá khác, TNKQ có nhiều ưu thế như: Kiểm tra được phạm vi kiến thức rộng, bao quát toàn bộ môn học, triển khai thi và chấm thi nhanh... Vì vậy khắc phục được tình trạng học lệch, học tủ, học vẹt…từ đó nâng cao ý thức và năng lực tự học của SV. Chẳng hạn, trong đề thi hoặc đề kiểm tra viết trong phần lý thuyết có thể dùng hình thức TNKQ.
Tóm lại, để nâng cao ý thức và năng lực tự học của SV Phân viện chúng ta không thể tiến hành bằng bất cứ biện pháp đơn độc nào. Đây là vấn đề có liên quan nhiều mặt từ ý thức của sinh viên, phương pháp dạy học của GV, đến môi trường giáo dục trong nhà trường, cơ sở vật chất… Muốn có kết quả, nhất thiết phải có một biện pháp tổng hợp và đồng bộ. Trên đây là một số ý kiến có tính chất bàn luận về các biện pháp nhằm phát triển năng lực tự học của SV Phân viện qua dạy học môn toán. Chúng tôi đã từng bước thực hiện các định hướng đó và bước đầu đã thu được một số kết quả nhất định.
_________________________
Bài đăng trên Tạp chí Báo chí và Tuyên truyền số 2 (tháng 3+4)/2005
ThS Đỗ Huyền Trang
Nguồn: Tạp chí Báo chí và Tuyên truyền số 2 (tháng 3+4)/2005
Bài liên quan
- Báo chí Việt Nam và Cu Ba chia sẻ kinh nghiệm, hứa hẹn mở ra sự hợp tác tương lai
- Mấy vấn đề cơ chế tài chính đáp ứng phục vụ nhiệm vụ chiến lược của Học viện Báo chí và Tuyên truyền hiện nay
- Kỷ niệm 30 năm thành lập Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông (1994 - 2024): Những kỷ niệm khó quên
- Tăng cường sự lãnh đạo của Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh đối với công tác văn hóa, văn nghệ trên địa bàn Thành phố
- Về con đường đi tới của Việt Nam, quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ và tầm nhìn cho kỷ nguyên mới
Xem nhiều
- 1 Giữ gìn và bảo vệ giá trị văn hóa truyền thống các dân tộc ít người, góp phần củng cố, phát triển khối đại đoàn kết toàn dân tộc
- 2 Sử dụng ChatGPT trong việc cải thiện kỹ năng viết cho sinh viên học tiếng Anh
- 3 Phát triển nguồn nhân lực ở tỉnh Bến Tre: Thực trạng và giải pháp
- 4 Nội dung chuyên đề của Tổng Bí thư Tô Lâm về kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc
- 5 Công tác dân tộc qua những bài học cụ thể của Chủ tịch Hồ Chí Minh từ ngày đầu thành lập nước
- 6 Những thách thức về bảo vệ nền tảng tư tưởng trên các phương tiện truyền thông xã hội
Liên kết
- Báo điện tử đảng cộng sản việt nam
- Báo nhân dân
- Báo Quân đội nhân dân
- Cổng thông tin điện tử Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Cổng thông tin điện tử Học viện Chính trị quốc gia hồ chí minh
- Tạp chí Cộng sản
- Tạp chí Giáo dục lý luận
- Tạp chí Giáo dục và Xã hội
- Tạp chí Khoa học xã hội và Nhân văn
- Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam
- Tạp chí Lý luận chính trị
- Tạp chí Nghiên cứu con người
- TẠP CHÍ Nghiên cứu dân tộc
- Tạp chí Người làm báo
- Tạp chí Nội chính
- Tạp chí Quản lý Nhà nước
- Tạp chí Tổ chức Nhà nước
- Tạp chí Tuyên giáo
- Tạp chí Xây Dựng Đảng
- Thư viện số Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Trang thông tin điện tử Hội đồng Lý luận Trung ương
Báo chí Việt Nam và Cu Ba chia sẻ kinh nghiệm, hứa hẹn mở ra sự hợp tác tương lai
Việt Nam - Cuba là biểu tượng sáng ngời về tình đoàn kết hữu nghị quốc tế. Hai dân tộc đã sát cánh bên nhau trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, giành độc lập, tự do cho Tổ quốc. Tình hữu nghị đặc biệt này đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chủ tịch Fidel Castro vun đắp qua nhiều thế hệ và trở thành một tài sản vô giá của cả hai dân tộc.
Báo chí Việt Nam và Cu Ba chia sẻ kinh nghiệm, hứa hẹn mở ra sự hợp tác tương lai
Báo chí Việt Nam và Cu Ba chia sẻ kinh nghiệm, hứa hẹn mở ra sự hợp tác tương lai
Việt Nam - Cuba là biểu tượng sáng ngời về tình đoàn kết hữu nghị quốc tế. Hai dân tộc đã sát cánh bên nhau trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, giành độc lập, tự do cho Tổ quốc. Tình hữu nghị đặc biệt này đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chủ tịch Fidel Castro vun đắp qua nhiều thế hệ và trở thành một tài sản vô giá của cả hai dân tộc.
Mấy vấn đề cơ chế tài chính đáp ứng phục vụ nhiệm vụ chiến lược của Học viện Báo chí và Tuyên truyền hiện nay
Mấy vấn đề cơ chế tài chính đáp ứng phục vụ nhiệm vụ chiến lược của Học viện Báo chí và Tuyên truyền hiện nay
Học viện Báo chí và Tuyên truyền (Học viện) là đơn vị sự nghiệp công lập, có chức năng đào tạo đại học, sau đại học các ngành lý luận chính trị, báo chí, truyền thông, kinh tế, xây dựng Đảng, quản lý nhà nước, quản lý xã hội…, bồi dưỡng nghiệp vụ cho cán bộ các cấp. Để thực hiện chức năng, nhiệm vụ được giao, Học viện cần có cơ chế tài chính phù hợp nhằm huy động tối đa nguồn lực tài chính và phân phối, sử dụng tiết kiệm, hiệu quả, tạo động lực thúc đẩy hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Trong những năm qua, thực hiện cơ chế tài chính ở Học viện đã có những chuyển biến tích cực, các nguồn thu đảm bảo chi, thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ của Học viện. Tuy nhiên, để đáp ứng nhu cầu nguồn lực tài chính cho chiến lược phát triển giai đoạn mới của Học viện, công tác thực hiện cơ chế quản lý tài chính cần tiếp tục đổi mới, hoàn thiện.
Kỷ niệm 30 năm thành lập Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông (1994 - 2024): Những kỷ niệm khó quên
Kỷ niệm 30 năm thành lập Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông (1994 - 2024): Những kỷ niệm khó quên
Trong 33 năm làm việc ở Học viện Báo chí và Tuyên truyền, tôi có 30 năm gắn bó với Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông, cho dù tôi không phải trực tiếp biên chế công tác tại đây.
Tăng cường sự lãnh đạo của Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh đối với công tác văn hóa, văn nghệ trên địa bàn Thành phố
Tăng cường sự lãnh đạo của Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh đối với công tác văn hóa, văn nghệ trên địa bàn Thành phố
Nhận thức được tầm quan trọng của công tác văn hóa, văn nghệ, trong những năm qua, Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh đã quan tâm lãnh đạo công tác này, qua đó đạt được một số kết quả khá quan trọng, đóng góp vào sự phát triển chung về kinh tế - văn hóa - xã hội của Thành phố. Trên cơ sở phân tích thực trạng lãnh đạo công tác văn hóa, văn nghệ của Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh, bài viết đề xuất một số giải pháp giúp tăng cường sự lãnh đạo của Thành ủy đối với công tác này trong thời gian tới.
Bình luận