Chủ nghĩa xã hội và định hướng xã hội chủ nghĩa tiếp cận từ phương diện đạo đức qua tác phẩm “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam” của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng
Thứ nhất, về chủ nghĩa tư bản
Xét về bản chất, chủ nghĩa tư bản dựa trên sự bóc lột giá trị thặng dư, sự tước đoạt tự nhiên, sự duy trì bất bình đẳng xã hội với khoảng cách ngày càng rộng. Và đó không phải là mục tiêu mà nhân loại hướng tới. Trong bài viết của mình, Tổng Bí thư đã phân tích một cách khách quan, toàn diện về vai trò, vị trí, những giá trị mà chủ nghĩa tư bản đã đóng góp cho nhân loại mà chúng ta phải kế thừa và tiếp thu có chọn lọc, đồng thời chỉ ra những hạn chế, nhược điểm, thuộc tính tiêu cực cố hữu của chủ nghĩa tư bản.
Đó là, những khủng hoảng kinh tế tài chính, khủng hoảng năng lượng, lương thực, sự cạn kiệt của các nguồn tài nguyên thiên nhiên, sự suy thoái của môi trường sinh thái, mâu thuẫn giữa tư bản và lao động ngày càng sâu sắc và không thể giải quyết được một cách triệt để trong khuôn khổ của chế độ tư bản chủ nghĩa, khoảng cách giàu nghèo ngày càng lớn,… Nguyên nhân của nó là do “quá trình phát triển kinh tế - xã hội lấy lợi nhuận làm mục tiêu tối thượng, coi chiếm hữu của cải và tiêu dùng vật chất ngày càng tăng làm thước đo văn minh, lấy lợi ích cá nhân làm trụ cột của xã hội”(1).
Tổng Bí thư cũng chỉ rõ bản chất của các thể chế chính trị tư bản chủ nghĩa. Thiết chế dân chủ theo công thức “dân chủ tự do” chỉ là hình thức trống rỗng, không bảo đảm được quyền lực thực sự thuộc về nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. “Hệ thống quyền lực đó vẫn chủ yếu thuộc về thiểu số giàu có và phục vụ cho lợi ích của các tập đoàn tư bản lớn”(2).
Trước đây, trong tác phẩm “Nhà nước và cách mạng”, V.I.Lênin phân tích rõ bản chất của dân chủ tư sản là sự bình đẳng hình thức, tức là sự bình đẳng được công nhận bằng pháp luật tư sản, dân chủ ở chỗ công nhận sự bình đẳng của con người trước pháp luật. Nhưng trên thực tiễn không kèm theo sự bình đẳng về điều kiện để thực hiện các quyền đó. Không bình đẳng về kinh tế, tất yếu không bình đẳng về chính trị. Và dân chủ ở đây chỉ là hình thức, không thực chất. Trong đời sống chính trị một khi quyền lực của đồng tiền chi phối thì quyền lực của nhân dân sẽ bị lấn át.
Trong tác phẩm cùa mình, Tổng Bí thư đã chỉ rõ “ở Mỹ, một bộ phận rất nhỏ, thậm chí là 1% dân số, nhưng lại chiếm giữ phần lớn của cải tư liệu sản xuất, kiểm soát tới ¾ nguồn tài chính, tri thức và các phương tiện thông tin đại chúng chủ yếu và do đó chi phối toàn xã hội. Đây chính là nguyên nhân sâu xa dẫn đến phong trào “99 chống lại 1” diễn ra ở Mỹ đầu năm 2011 và nhanh chóng lan rộng ở nhiều nước tư bản”. Mặt khác, ở các nước tư bản phát triển, các cuộc bầu cử được gọi là “tự do”, “dân chủ”, dù có thể thay đổi chính phủ, nhưng không thể thay đổi được các thế lực thống trị và “đằng sau hệ thống đa đảng trên thực tế vẫn là sự chuyên chế của các tập đoàn tư bản”(3).
Như vậy, mặc dù chủ nghĩa tư bản có những bước tiến đóng góp to lớn cho lịch sử nhân loại, nhưng đó là xã hội không thực sự vì con người mà vì lợi nhuận mà bóc lột và chà đạp lên phẩm giá con người, sự gia tăng khoảng cách giàu nghèo và bất bình đẳng xã hội,… Đó cũng không phải là mục tiêu mà nhân loại nói chung và Việt Nam nói riêng đang hướng tới.
Thứ hai, về chủ nghĩa xã hội
Xã hội xã hội chủ nghĩa là xã hội hướng tới các giá trị tiến bộ, nhân văn, nhân đạo, vì con người và hạnh phúc của con người. Trước đây trong quá trình đi tìm đường cứu nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nghiên cứu cuộc cách mạng tư sản Bắc Mỹ (1775 - 1783), đặc biệt là cuộc cách mạng tư sản Pháp (1789 - 1794), Người đã tìm thấy ở chủ nghĩa nhân văn thoát thai từ thời Phục hưng lý tưởng tự do, bình đẳng, bác ái từ trong Tuyên ngôn độc lập của Hoa Kỳ (1776), Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Cách mạng Pháp (1789). Người rất khâm phục, tuy nhiên theo Người, đây là những cuộc cách mạng chưa đến nơi, tức là chưa đem lại quyền lợi thực sự của nhân dân lao động và cũng không trả lời được con đường giải phóng dân tộc.
“Cách mệnh Pháp cũng như cách mệnh Mỹ, nghĩa là cách mệnh tư bản, cách mệnh không đến nơi, tiếng là cộng hòa và dân chủ, kỳ thực trong thì nó tước lục công nông, ngoài thì nó áp bức thuộc địa”(4). Cũng trong thời gian tiếp xúc với văn hóa phương tây, Người đã đến với chủ nghĩa Lênin - con đường chân chính giải phóng các dân tộc thuộc địa mà bấy giờ Người đang khao khát tìm kiếm, “từng bước một, trong cuộc đấu tranh, vừa nghiên cứu lý luận Mác - Lênin vừa làm công tác thực tế, dần dần tôi hiểu được rằng, chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên toàn thế giới khỏi ách nô lệ”(5).
Sau đó, khi được hỏi chủ nghĩa xã hội là gì, Người trả lời: “Chủ nghĩa xã hội là làm sao cho nhân dân đủ ăn, đủ mặc, ngày càng sung sướng, ai nấy được đi học, ốm đau có thuốc, già không lao động được thì nghỉ. Tóm lại, xã hội ngày càng tiến, vật chất ngày càng tăng, tinh thần ngày càng tốt, đó là chủ nghĩa xã hội”(6).
Ở đây, thể hiện rõ trong quá trình đi tìm đường cứu nước và sau này lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Người đến với chủ nghĩa xã hội luận giải nó không chỉ từ khát vọng giải phóng dân tộc và nhu cầu giải phóng con người một cách triệt để và sáng tạo mà còn khát vọng làm rạng danh vẻ vang dân tộc, xây dựng đất nước hùng cường, phồn vinh, hạnh phúc, đưa dân tộc Việt Nam bước lên đài vinh quang sánh vai cùng với các cường quốc trên thế giới. Người nhấn mạnh: “Non sông Việt Nam có trở nên vẻ vang, tươi đẹp hay không, dân tộc Việt Nam có bước lên đài vinh quang để sánh vai với các cường quốc năm châu hay không, chính là nhờ một phần lớn ở công học tập của các em”(7).
Trong cuốn sách, Tổng Bí thư nhấn mạnh đến mong ước tốt đẹp, sự ưu việt nhân văn, nhân đạo, vì con người của chế độ xã hội chủ nghĩa cũng chính là mục tiêu, con đường mà Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng ta và nhân dân ta đã lựa chọn, kiên định và kiên trì theo đuổi. “Chúng ta cần một xã hội mà trong đó, sự phát triển thực sự vì con người chứ không phải vì lợi nhuận mà bóc lột và chà đạp lên phẩm giá con người. Chúng ta cần sự phát triển về kinh tế đi đôi với tiến bộ và công bằng xã hội, chứ không phải gia tăng khoảng cách giàu nghèo và bất bình đẳng xã hội. Chúng ta cần một xã hội nhân ái, đoàn kết, tương trợ lẫn nhau hướng tới các giá trị tiến bộ, nhân văn, chứ không phải cạnh tranh bất công, “cá lớn nuốt cá bé” vì lợi ích vị kỷ của một số ít cá nhân và phe nhóm,… Chúng ta cần một hệ thống chính trị mà quyền lực thực sự thuộc về nhân dân, do nhân dân và phục vụ lợi ích nhân dân chứ không phải chỉ cho một thiểu số giàu có”(8).
Ở đây, con người giữ vị trí trung tâm trong chiến lược phát triển, phát triển văn hóa, xây dựng con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc đổi mới, phát triển giáo dục - đào tạo, khoa học - công nghệ là quốc sách hàng đầu, bảo vệ môi trường, xây dựng gia đình hạnh phúc, thực hiện bình đẳng giới. Từ đây, Tổng Bí thư làm sáng tỏ những đặc trưng của xã hội chủ nghĩa và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Những đặc trưng đó vừa thể hiện tính quy luật phổ biến về chủ nghĩa xã hội theo học thuyết Mác - Lênin, vừa thể hiện tính đặc thù dân tộc và có tính đến đặc điểm của thời đại ngày nay.
Để đạt được mục tiêu xây dựng một xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh do nhân dân làm chủ, cần thực hiện tốt các phương hướng cơ bản. Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức; phát triển nền kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa; xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, xây dựng con người, nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội…; xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy ý chí và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc…; xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế.
Theo Tổng Bí thư, quá độ lên chủ nghĩa xã hội là một sự nghiệp lâu dài, vô cùng khó khăn, phức tạp. Chúng ta bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là “bỏ qua chế độ áp bức bất công, bóc lột tư bản chủ nghĩa, bỏ qua những thói hư tật xấu, những thiết chế, thể chế chính trị không phù hợp với chế độ xã hội chủ nghĩa, chứ không bỏ qua những thành tựu giá trị văn minh mà nhân loại đã đạt được”(9).
Như vậy, mục tiêu định hướng xã hội chủ nghĩa của cách mạng nước ta đồng nhất với chủ nghĩa nhân đạo hiện thực và làm cho mọi người đều có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn. Từ cách tiếp cận đạo đức học, chúng ta thấy, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nói rõ sự thống nhất giữa mục tiêu và phương thức đạt mục tiêu. Nghĩa là, mục tiêu tốt đẹp, mục tiêu hướng thiện thì phương thức thực hiện mục tiêu cũng sẽ phải thiện. Chúng ta không thể đạt mục tiêu bằng mọi giá, không xóa nỗi đau này bằng cách tạo ra nỗi đau khác. Không xây dựng hạnh phúc của dân tộc mình bằng cách chà đạp lên hạnh phúc của dân tộc khác.
Cụ thể, về nguyên tắc, làm thế nào để có sự phát triển vì con người chứ không phải đánh mất con người; làm thế nào để không có “nền văn minh” làm giàu trên lưng người khác và trên lưng dân tộc khác. Chúng ta xây dựng chủ nghĩa xã hội theo tinh thần của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh chính là tuân theo các nguyên tắc đó. Tất nhiên, không thể giải quyết tất cả ngay trong một lúc, nhưng trong từng bước đi, phải có những bước tiến cụ thể trong việc giải quyết những vấn đề trên và đó chính là định hướng xã hội chủ nghĩa.
Thứ ba, xây dựng Đảng về đạo đức
Xây dựng chủ nghĩa xã hội có thành công được hay không phụ thuộc vào sự lãnh đạo của Đảng và hoạt động tự giác của quần chúng nhân dân. Sự lãnh đạo của Đảng chính là nhân tố quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Vì thế, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tập trung chú ý đến vấn đề xây dựng và chỉnh đốn Đảng để xây dựng Đảng ta “là đạo đức, là văn minh”, “xây dựng Đảng luôn luôn là nhiệm vụ then chốt của Đảng, có ý nghĩa cực kỳ quan trọng đối với sự nghiệp cách mạng nước ta”(10). Nhấn mạnh đến vấn đề xây dựng Đảng, chỉnh đốn Đảng không chỉ xuất phát từ tình hình suy thoái tư tưởng, đạo đức, lối sống, sự “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” của một bộ phận cán bộ, đảng viên, mà còn vì định hướng phát triển lâu dài trong tương lai với tầm nhìn và hành động chiến lược nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, đáp ứng yêu cầu, đòi hỏi của cách mạng.
Tổng Bí thư coi đây là nhiệm vụ then chốt, là vấn đề sống còn của Đảng ta, chế độ ta. Và, theo Tổng Bí thư, “một Đảng cách mạng chân chính có đường lối đúng, có tổ chức chặt chẽ, có đội ngũ cán bộ, đảng viên gương mẫu, tận tụy, gắn bó máu thịt với nhân dân, được nhân dân ủng hộ, thì Đảng đó có sức mạnh vô địch, không thế lực nào ngăn cản nổi trên con đường dẫn dắt dân tộc đi lên”(11). Và để hoàn thành nhiệm vụ trên cần chú ý thực hiện các nội dung sau:
Một là, nâng cao tính tự giác, tu dưỡng rèn luyện đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên.
Thực tiễn đã chứng minh không phải cứ tăng trưởng kinh tế là đạo đức tự động được nâng lên, không phải cứ đời sống vật chất được cải thiện là sự sa đọa về lối sống, xuống cấp về đạo đức được tự động khắc phục. Sự hình thành phẩm chất đạo đức của mỗi con người không diễn ra một cách tự phát. Nó là kết quả của quá trình nỗ lực của giáo dục và tự giáo dục, tự giác rèn luyện của mỗi cá nhân theo các chuẩn mực đạo đức của xã hội và của Đảng ta. Đúng như Chủ tịch Hồ Chí Minh thường xuyên nhắc nhở, “đạo đức cách mạng không phải trên trời sa xuống, nó do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hàng ngày mà phát triển, mà củng cố. Cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong”(12).
Những phẩm chất đạo đức khi đã được hình thành, được củng cố thì sẽ trở thành nét tính cách ổn định, bền vững, thể hiện sự trưởng thành của con người xã hội, là nền tảng phát triển và hoàn thiện nhân cách của người cán bộ, đảng viên. Họ phải thực sự là “công bộc của dân”, vừa là “người lãnh đạo”, vừa là “người đầy tớ trung thành của nhân dân”. Họ là những tấm gương mẫu mực về đạo đức cách mạng để hướng dẫn và lôi cuốn quần chúng làm theo.
Thật vậy, uy tín của Đảng chẳng những được quyết định bằng lý tưởng, đường lối, chính sách đúng đắn của Đảng, mà còn phải được quyết định bởi thái độ, đạo đức, lối sống, tác phong công tác làm việc của mỗi cán bộ, đảng viên. Quần chúng học tập, tu dưỡng, phấn đấu làm theo Đảng một cách cụ thể, sinh động thông qua từng đảng viên cụ thể. Vì thế, vai trò của tấm gương đạo đức là hình thức “sản xuất và tái sản xuất” các giá trị đạo đức, truyền các giá trị đó từ thế hệ này sang thế hệ khác, từ người này sang người khác. V.I. Lênin đánh giá sức mạnh của những tấm gương trong việc hình thành những hình thức mới của mối quan hệ giữa người và người. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, một tấm gương sống còn có giá trị hơn một trăm bài diễn văn tuyên truyền. Người nói: “Trước mắt quần chúng, không phải ta cứ viết lên trán chữ “cộng sản” mà được họ yêu mến, quần chúng chỉ quý mến những người có tư cách đạo đức, muốn hướng dẫn nhân dân, mình phải làm mực thước cho người ta bắt chước”(13).
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh phải “tập trung xây dựng Đảng về đạo đức, tích cực đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, ngăn chặn, đẩy lùi có hiệu quả tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ gắn với đẩy mạnh học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, phát huy thật tốt trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên theo phương châm chức vụ càng cao càng phải gương mẫu”(14).
Tổng Bí thư phân tích điều kiện Đảng cầm quyền, nếu không chịu khó tu dưỡng, rèn luyện thì rất dễ bị thoái hóa. Đảng cầm quyền, đương nhiên hầu hết cán bộ quản lý quan trọng là người của Đảng, họ có chức có quyền, có thế lực trong tay. Nghĩa vụ và quyền hạn, trách nhiệm của họ lúc này liên quan đến tiền, hàng, đến lao động, đến con người. Nhất là “trong môi trường phát triển kinh tế thị trường, mở cửa hội nhập, cán bộ, đảng viên giữ nhiều trọng trách, thường xuyên phải đối mặt với nhiều cám dỗ tiền bạc, của cải vật chất, quyền lực, lợi ích cá nhân, chúng ta càng phải chăm lo giữ vững bản chất cách mạng và tính tiên phong của Đảng. Nếu không nhận thức sâu sắc điều này, nếu cán bộ, đảng viên không tích cực, kiên trì rèn luyện thì rất dễ bị thoái hóa, biến chất”(15). Vì thế, Đảng ta yêu cầu phải ra sức đẩy mạnh việc xây dựng và chỉnh đốn Đảng, làm cho Đảng ngày càng trong sạch, vững mạnh, làm tròn trách nhiệm, là đội tiên phong lãnh đạo sự nghiệp cách mạng trong giai đoạn mới.
Hai là, đẩy mạnh đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng, tiêu cực, làm trong sạch bộ máy của Đảng và Nhà nước.
Thực tế cuộc đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng, tiêu cực đã đạt được những thành tựu to lớn, khẳng định quyết tâm rất cao của Đảng, Nhà nước ta trong công tác phòng, chống tham nhũng “không có vùng cấm, không có ngoại lệ, bất kỳ người đó là ai, không chịu sức ép của bất kỳ cá nhân nào”(16).
Nhiều vụ án kinh tế, tham nhũng được phát hiện, điều tra, khởi tố, xét xử nghiêm minh, tạo sức răn đe, cảnh tỉnh, được cán bộ, đảng viên và nhân dân hoan nghênh, đánh giá cao và đồng tình ủng hộ. “Tình trạng tham nhũng, tiêu cực, suy thoái, “tự diễn biến” tự chuyển hóa” trong Đảng và hệ thống chính trị từng bước được kiềm chế, ngăn chặn”(17).
Tuy nhiên, cũng còn không ít khuyết điểm, hạn chế và đang phải đối mặt với những thách thức mới trong quá trình phát triển đất nước. Một bộ phận cán bộ, đảng viên, trong đó có cả cán bộ lãnh đạo, quản lý, nhận thức chưa đầy đủ về ý nghĩa, tầm quan trọng của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, chưa nêu cao tinh thần trách nhiệm, thiếu gương mẫu, phai nhạt lý tưởng, giảm sút ý chí chiến đấu, đặc biệt là sa vào chủ nghĩa cá nhân, nói không đi đôi với làm, vi phạm kỷ luật đảng, vi phạm pháp luật của Nhà nước. Cần chú ý là, khi Đảng trở thành Đảng duy nhất cầm quyền và dân chủ trong Đảng được thực hành thực chất và mở rộng thì sẽ rất thuận lợi cho quá trình thực hiện dân chủ cho xã hội, tạo sự ổn định chính trị, thống nhất quyền lực, tạo sự đồng thuận trong quá trình thực hiện và mở rộng dân chủ.
Tuy nhiên, quyền lực có tính hai mặt, là sức mạnh to lớn để Đảng sử dụng nhằm đưa cả dân tộc và sự nghiệp xây dựng đất nước đến những thắng lợi mới, nhưng nó cũng có thể làm hư hỏng con người, thậm chí của cả một Đảng nắm quyền lực. V.I. Lênin và Chủ tịch Hồ Chí Minh từ rất sớm đã chỉ ra những biểu hiện hư hỏng, đó là quan liêu, tham nhũng, lộng quyền, lợi dụng quyền lực, tranh giành quyền lực, vi phạm quyền làm chủ của nhân dân. Vì tham nhũng là “khuyết tật bẩm sinh” của quyền lực và thực tiễn vừa qua cho thấy, không ít người đã sử dụng quyền lực của nhân dân như là tài sản riêng của mình, “tư hữu quyền lực” và lấy nó để ban ơn cho người khác, còn mình thì sống ngoài vòng pháp luật. Đặc quyền trong Đảng là tiền đề để nắm đặc quyền trong bộ máy nhà nước, từ đó dễ dẫn tới sự tha hóa quyền lực nhà nước.
Thực tế là, “một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, trong đó có cả cán bộ lãnh đạo, quản lý, cán bộ cấp cao còn thiếu tu dưỡng, rèn luyện, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống tiêu cực, tham nhũng và cơ chế kiểm soát quyền lực, công tác kiểm tra, giám sát việc thực thi quyền lực của người có chức vụ, quyền lực chưa được quan tâm đúng mức”(18). Từ đây, để xây dựng Đảng về đạo đức, Đảng phải “thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, đấu tranh chống chủ nghĩa cơ hội, chủ nghĩa cá nhân, chống tham nhũng, quan liêu, lãng phí, thoái hóa… trong nội bộ Đảng và trong toàn bộ hệ thống chính trị”(19).
Tổng Bí thư đưa ra một số quan điểm, phương hướng, nhiệm vụ đấu tranh phòng, chống tham nhũng:
Một là, công tác phòng, chống tham nhũng trước hết phải có quyết tâm chính trị cao và phải đặt dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp, tập trung, thống nhất của Đảng (20). Tại phiên họp thứ 12, ngày 31/7/2017, Tổng Bí thư đã phát biểu “lò đã nóng lên rồi thì củi tươi vào đây cũng phải cháy”(21). Trong cuộc họp Ban Bí thư Trung ương ngày 10/4/2018, Tổng Bí thư chỉ đạo, “nếu ai cảm thấy cản trở, nhụt chí, thì dẹp sang một bên cho người khác làm”(22). Đây là thông điệp mạnh mẽ, trở thành mệnh lệnh của toàn Đảng, thể hiện ý chí của nhân dân, thể hiện tinh thần quyết liệt không khoan nhượng của cuộc đấu tranh chống tham nhũng hiện nay.
Hai là, phòng, chống tham nhũng “là phòng, chống giặc nội xâm”, nhiệm vụ quan trọng thường xuyên, vừa cấp bách, vừa khó khăn, phức tạp, lâu dài, tiến hành kiên quyết, kiên trì, liên tục “không ngừng”, “không nghỉ” ở tất cả các cấp, các ngành, các lĩnh vực”(23). Và cần chống tham nhũng ngay trong các cơ quan phòng, chống tham nhũng. Chủ tịch Hồ Chí Minh coi chủ nghĩa cá nhân là kẻ địch khó chống nhất trong ba loại kẻ thù nguy hiểm nhất (chủ nghĩa tư bản và bọn phản động; thói quen và truyền thống lạc hậu; chủ nghĩa cá nhân), vì, nó “ẩn nấp trong mình mỗi người chúng ta. Nó chờ dịp - hoặc thất bại, hoặc dịp thắng lợi - để ngóc đầu dậy(24). Chiến thắng tham nhũng, tiêu cực ngoài xã hội, ở người khác đã khó, chiến thắng tham nhũng, tiêu cực của chính mình còn khó hơn nhiều.
Ba là, việc xử lý phải lấy giáo dục, răn đe, phòng ngừa là chính, kết hợp giữa trừng trị với khoan hồng, đồng thời bảo vệ, khuyến khích những người dám nghĩ, dám làm, đổi mới sáng tạo vì sự nghiệp chung (25). “Kỷ luật một vài người để cứu muôn người”. “Thực hiện nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ, phát huy dân chủ, gắn liền với tăng cường trách nhiệm của cấp ủy và người đứng đầu trong công tác cán bộ” (26).
Bốn là, đấu tranh phòng, chống tham nhũng không chỉ ở chỗ nhằm vào hành vi tham nhũng và những con người cụ thể mà còn phải chống cả những gì tạo ra môi trường phát triển tham nhũng, “phải xây dựng cho được một cơ chế phòng ngừa chặt chẽ để “không thể tham nhũng”, một cơ chế răn đe, trừng trị nghiêm khắc để “không dám tham nhũng” và một cơ chế bảo đảm để “không cần tham nhũng” (27). “Và nhốt quyền lực vào trong lồng thể chế, công khai minh bạch, trách nhiệm, bảo đảm quyền lực được vận hành đúng đắn, không bị tha hóa”(28). Kịp thời khắc phục những bất cập, bịt kín những “khoảng trống”, “kẽ hở” để “không thể tham nhũng”(29). Ở đây, phải gắn công tác phòng, chống tham nhũng với thực hành tiết kiệm, chống lãng phí và với xây dựng, chỉnh đốn Đảng.
Cuốn sách của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng là công trình đầy tâm huyết, mang tầm cao trí tuệ, kết tinh những giá trị lý luận và thực tiễn hết sức sâu sắc, là cơ sở quan trọng cho việc tiếp tục tổng kết lý luận về đường lối đổi mới của Đảng, lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, tạo nên sự đồng thuận của xã hội để khơi dậy, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc nhằm thực hiện thắng lợi sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam./.
________________________________________________
(1), (2), (3), (8), (9), (10), (11), (14), (15), (16), (17), (18), (19), (20), (23), (25), (26), (27), (28), (29) Nguyễn Phú Trọng (2022), “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, tr. 18, 19, 20 - 21, 21 - 22, 25, 370, 226, 56, 225, 393, 44, 403, 30, 404, 405, 406, 379, 405, 411, 409.
(4), (5) Hồ Chí Minh (2011), Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, T. 2, tr. 274, 563.
(6) Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, T. 13, tr. 438.
(7) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, T. 4, tr. 35
(12) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, T. 9, tr. 293
(13) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, T. 5, tr. 552
(21) “Tổng Bí thư: “Lò nóng lên rồi thì củi tươi vào cũng phải cháy“””, Báo điện tử Đài Tiếng nói Việt Nam, ngày 1/8/2017, https://vov.vn/chinh-tri/dang/tong-bi-thu-lo-nong-len-roi-thi-cui-tuoi-vao-cung-phai-chay-653960.vov .
(22) Minh An, “Những phát ngôn chống tham nhũng quyết liệt của Tổng Bí thư”, Báo điện tử Đài Tiếng Nói Việt Nam, ngày 24/6/2018, https://vov.vn/chinh-tri/nhung-phat-ngon-chong-tham-nhung-quyet-liet-cua-tong-bi-thu-778382.vov.
(24) Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, T.11, tr. 606.
Nguồn: Bài đăng trên Tạp chí Cộng sản điện tử ngày 25/7/2023
Bài liên quan
- Hệ thống chính trị Việt Nam truyền thống và hiện đại từ góc nhìn đổi mới
- Tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả
- Giữ gìn và bảo vệ giá trị văn hóa truyền thống các dân tộc ít người, góp phần củng cố, phát triển khối đại đoàn kết toàn dân tộc
- Xu hướng hòa bình, hợp tác, phát triển trên thế giới và vai trò của Việt Nam hiện nay
- Phát huy vai trò của ngành công nghiệp xuất bản trong việc gìn giữ bản sắc văn hóa dân tộc
Xem nhiều
- 1 Giữ gìn và bảo vệ giá trị văn hóa truyền thống các dân tộc ít người, góp phần củng cố, phát triển khối đại đoàn kết toàn dân tộc
- 2 Sử dụng ChatGPT trong việc cải thiện kỹ năng viết cho sinh viên học tiếng Anh
- 3 Phát triển nguồn nhân lực ở tỉnh Bến Tre: Thực trạng và giải pháp
- 4 Nội dung chuyên đề của Tổng Bí thư Tô Lâm về kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc
- 5 Công tác dân tộc qua những bài học cụ thể của Chủ tịch Hồ Chí Minh từ ngày đầu thành lập nước
- 6 Những thách thức về bảo vệ nền tảng tư tưởng trên các phương tiện truyền thông xã hội
Liên kết
- Báo điện tử đảng cộng sản việt nam
- Báo nhân dân
- Báo Quân đội nhân dân
- Cổng thông tin điện tử Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Cổng thông tin điện tử Học viện Chính trị quốc gia hồ chí minh
- Tạp chí Cộng sản
- Tạp chí Giáo dục lý luận
- Tạp chí Giáo dục và Xã hội
- Tạp chí Khoa học xã hội và Nhân văn
- Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam
- Tạp chí Lý luận chính trị
- Tạp chí Nghiên cứu con người
- TẠP CHÍ Nghiên cứu dân tộc
- Tạp chí Người làm báo
- Tạp chí Nội chính
- Tạp chí Quản lý Nhà nước
- Tạp chí Tổ chức Nhà nước
- Tạp chí Tuyên giáo
- Tạp chí Xây Dựng Đảng
- Thư viện số Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Trang thông tin điện tử Hội đồng Lý luận Trung ương
Thư cảm ơn của PGS, TS Nguyễn Thị Trường Giang, Phó Giám đốc Học viện Báo chí và Tuyên truyền, Tổng biên tập Tạp chí Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông
Sáng 24/10/ 2024, tại Hà Nội, Học viện Báo chí và Tuyên truyền tổ chức Lễ kỷ niệm và Hội thảo khoa học “Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông 30 năm xây dựng và phát triển (1994 - 2024)” và đón nhận Bằng khen của Giám đốc Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. Tạp chí Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông xin được gửi tới các đồng chí lãnh đạo, nguyên lãnh đạo Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Học viện Báo chí và Tuyên truyền, thủ trưởng các đơn vị, các nhà khoa học, các nhà giáo, nhà nghiên cứu, các đồng chí cộng tác viên và bạn đọc lời cảm ơn trân trọng. Tạp chí rất mong tiếp tục nhận được tình cảm và sự quan tâm của các đồng chí !
Hệ thống chính trị Việt Nam truyền thống và hiện đại từ góc nhìn đổi mới
Hệ thống chính trị Việt Nam truyền thống và hiện đại từ góc nhìn đổi mới
Nhìn toàn bộ tiến trình lịch sử chính trị của dân tộc, “Hệ thống chính trị” nước ta dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là một thiết chế chính trị mạnh, mô hình này phù hợp với hoàn cảnh Việt Nam và đúng với quy luật vận động của lịch sử. Và, cũng từ thực tế lịch sử, có thể thấy sức mạnh thực sự của Hệ thống chính trị mà chúng ta đang có chủ yếu không phải do tính chất nhất nguyên mà là do uy tín của Đảng, Nhà nước và lãnh tụ Hồ Chí Minh. Sức sống của hệ thống chính trị là sự phù hợp, thống nhất giữa mục đích của Đảng với nguyện vọng của nhân dân, với nhu cầu phát triển của đất nước. Hệ thống chính trị Việt Nam đương đại, trên cơ sở kết tinh các giá trị thiết chế truyền thống gắn với hiện đại không ngừng đổi mới phát triển khẳng định sức mạnh của Hệ thống tổ chức quyền lực Chính trị Việt Nam có vai trò quyết định thành công xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN.
Tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả
Tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả
Xây dựng tổ chức bộ máy hiệu lực, hiệu quả là công việc khó khăn, phức tạp, đòi hỏi sự đoàn kết, thống nhất, dũng cảm, sự hy sinh của từng cán bộ, đảng viên cùng với quyết tâm rất cao của toàn Đảng, cả hệ thống chính trị, trước hết là người đứng đầu cấp ủy, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và đoàn thể các cấp. Tạp chí Cộng sản trân trọng giới thiệu bài viết của đồng chí Tổng Bí thư Tô Lâm về xây dựng hệ thống chính trị với tiêu đề: “Tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả”:
Giữ gìn và bảo vệ giá trị văn hóa truyền thống các dân tộc ít người, góp phần củng cố, phát triển khối đại đoàn kết toàn dân tộc
Giữ gìn và bảo vệ giá trị văn hóa truyền thống các dân tộc ít người, góp phần củng cố, phát triển khối đại đoàn kết toàn dân tộc
Với cộng đồng 54 dân tộc anh em, Việt Nam là quốc gia có nền văn hóa đa dạng, phong phú, có những nét riêng, trở thành tài sản quý giá làm nên bản sắc văn hóa Việt Nam độc đáo, đặc sắc. Giữ gìn và bảo vệ các giá trị di sản văn hóa truyền thống chính là góp phần củng cố phát triển khối đại đoàn kết dân tộc - một sức mạnh nội sinh to lớn và vĩ đại, làm nên mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam, dưới lá cờ vẻ vang của Đảng.
Xu hướng hòa bình, hợp tác, phát triển trên thế giới và vai trò của Việt Nam hiện nay
Xu hướng hòa bình, hợp tác, phát triển trên thế giới và vai trò của Việt Nam hiện nay
Trong bối cảnh hiện nay sự cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn, chạy đua vũ trang, các cuộc xung đột tôn giáo, sắc tộc vẫn diễn ra ở nhiều nơi, đặc biệt là cuộc xung đột quân sự giữa Nga và Ukraina ở Đông Âu, giữa Israel và Palestine vùng các tổ chức hồi giáo ở Trung Đông diễn biến ngày càng căng thẳng đe dọa tới hòa bình, an ninh khu vực và thế giới. Tuy vậy, hòa bình, hợp tác và phát triển vẫn là mục tiêu hướng tới của các nước, là xu hướng chính trị -xã hội tất yếu của nhân loại, từ đó đặt ra vai trò, trách nhiệm của các quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam.
Bình luận