Chuyển đổi số trong báo chí - truyền thông đồng hành với khát vọng phát triển đất nước
Nhìn rộng ra, nếu nhiều cơ quan báo chí - truyền thông, nhất là các đơn vị chủ lực của nền báo chí cách mạng Việt Nam có bước phát triển chuyển đổi số hiệu quả, sẽ nâng vị thế, sức mạnh, đồng hành với khát vọng phát triển đất nước phồn vinh trong giai đoạn mới.
Một số cách hiểu về chuyển đổi số trong báo chí - truyền thông
Theo Giáo sư Riaz Esmailzadeh, Đại học Carnegie Mellon, Australia, hiện có hai hướng triển khai chuyển đổi số. Thứ nhất là lấy công nghệ làm trung tâm, theo đó, chuyển đổi số là việc sử dụng công nghệ, kỹ thuật để thay đổi cách con người làm việc, giao thương, giao tiếp và các hoạt động khác trong cuộc sống. Xuất phát từ nền tảng công nghệ và kỹ thuật, những người tham gia chuyển đổi số chú trọng đầu tư vào lắp đặt các thiết bị, hệ thống máy tính, internet tốc độ cao, kết nối internet vạn vật, xử lý và lưu trữ dữ liệu trên đám mây, phát triển phần mềm và hệ thống tự động.
Ví dụ, nhiều cơ quan, công sở, tòa soạn báo chí đang làm việc qua mạng, từ xa, trên những nền tảng cho phép hội họp; dùng máy chấm công, nhận diện bằng gương mặt hay giọng nói ở những công sở, xí nghiệp; đều là những biểu hiện của chuyển đổi số bằng thay đổi công nghệ. Cách này có ưu điểm là dùng công nghệ để hỗ trợ nhiều loại hình hoạt động trước đây làm thủ công, giúp kết nối nhiều người; nhưng nhược điểm là thu về quá nhiều thông tin mà không xử lý hết, gây lãng phí tài nguyên. Từ đó, nảy sinh hướng chuyển đổi số thứ hai.
Thứ hai là lấy thông tin làm trung tâm, theo đó, chuyển đổi số là việc xử lý thông tin (dữ liệu lớn) thu được từ môi trường diễn ra các hoạt động để làm cơ sở đưa ra quyết định. Có thể quan sát thấy ngày càng nhiều những ví dụ của chuyển đổi số theo cách thứ hai, lấy thông tin làm trung tâm. Nhiều báo điện tử đưa ra câu hỏi cho bạn đọc “Có cho phép báo truy cập vào cookies của bạn hay không?”. Cookies là tệp tin lưu lại thông tin bạn đọc sử dụng thiết bị gì, truy cập trang web nào, tìm kiếm thông tin gì, sở thích đọc tin, vị trí của bạn đọc...
Khi bạn đọc chọn câu trả lời “có”, cho phép báo điện tử được sở hữu thông tin này, đồng nghĩa với việc tờ báo được khai thác mỏ dữ liệu lớn vào những mục đích mang lại lợi nhuận, ví dụ cho hiển thị quảng cáo phù hợp với bạn đọc. Người sử dụng mạng xã hội Facebook đã nhiều lần bất ngờ khi Facebook cho xuất hiện quảng cáo đúng mặt hàng, đúng thời điểm họ cần. Khi được khai thác đúng đắn, hợp lý, phù hợp với luật pháp và quy ước đạo đức, dữ liệu lớn là một loại tài sản mới của các cơ quan báo chí-truyền thông, bên cạnh những tài sản truyền thống, hữu hình như trụ sở, trang thiết bị, vốn tài chính, vốn nhân lực.
Cơ hội và thách thức đối với chuyển đổi số trong báo chí - truyền thông
Chính phủ ta đã và đang quyết tâm kết nối liên thông các cơ sở dữ liệu lớn, nhất là dữ liệu về dân số, y tế, giáo dục, bảo hiểm, doanh nghiệp, đất đai, nhà ở, phục vụ kịp thời, hiệu quả cho phát triển kinh tế - xã hội và đời sống nhân dân. Như vậy, chúng ta đã có các cam kết chính trị tạo tiền đề rất rõ ràng và thuận lợi cho công cuộc chuyển đổi số, cả về mặt hạ tầng công nghệ và xử lý thông tin dữ liệu lớn.
Tuy nhiên, còn nhiều khó khăn thách thức trên con đường cách mạng công nghiệp lần thứ tư (CMCN 4.0) trong lĩnh vực báo chí -truyền thông. Thách thức đầu tiên đến từ mức độ sẵn sàng chuyển đổi số. Không phải cơ quan báo chí -truyền thông nào cũng đủ nguồn lực để đầu tư vào hạ tầng, trang thiết bị hiện đại. Thách thức thứ hai là nguồn nhân lực cho chuyển đổi số. Nhiều quốc gia, trong đó có Singapore đã có thời gian dài cả thập kỷ để đào tạo nguồn nhân lực có khả năng phân tích dữ liệu, thì các trường đại học của Việt Nam mới đang ở bước đầu tìm hiểu khái niệm CMCN 4.0. Có chiến lược đào tạo và trọng dụng nhân lực công nghệ thông tin và truyền thông, kèm theo chiến lược bồi dưỡng kỹ năng sử dụng công nghệ thông tin và truyền thông, là cách các quốc gia chuẩn bị sẵn sàng cho chuyển đổi số.
Thách thức thứ ba, được đánh giá là thử thách cốt lõi trong ngành báo chí, đó là năng lực chuyển đổi số trong sáng tạo nội dung báo chí. Tác giả phải nhấn mạnh tầm quan trọng của những thay đổi số trong việc sản xuất ra nội dung sản phẩm báo chí. Kể từ khi thế giới có bài báo đầu tiên do chương trình máy tính tự động viết ra, về một trận động đất ở Mỹ năm 2014, đến nay, nhân loại đã sử dụng nhiều bài báo tự động. Bài báo tự động là sản phẩm của việc nhà báo lập trình sẵn các mẫu câu, văn phong, bố cục bài viết, sau đó kết nối với những dữ liệu có kiểm chứng. Báo chí tự động phù hợp với những thông tin nhiều số lặp lại (chứng khoán, thời tiết), những thông tin cần xuất bản nhanh theo thời gian thực (đua xe công thức 1). Yêu cầu của báo chí tự động là phải có nguồn dữ liệu lớn được kiểm chứng, do vậy, cần tạo cơ chế để các cơ quan báo chí được kết nối với kho dữ liệu quốc gia.
Nội dung báo chí cũng có thể tận dụng kho dữ liệu vô cùng phong phú, mở, và sẵn có trên Internet mà ai cũng có thể truy cập được, ví dụ ảnh vệ tinh, hình ảnh bản đồ Google. Tuy nhiên, loại hình báo chí 4.0 này đòi hỏi phá vỡ cách làm việc cũ, nhà báo phải kiểm soát chặt chẽ đầu vào số liệu, biết cách lập trình, "dạy máy", biết hợp tác liên ngành. Tất cả những điều này hiện đang là thách thức lớn đối với người làm báo, người quản lý báo chí, cũng như giáo dục và đào tạo báo chí. Báo chí Việt Nam có thực sự chuyển đổi số hay không phụ thuộc vào mức độ thay đổi cách thức sản xuất nội dung báo chí, chứ không phải chỉ dừng lại ở một số thử nghiệm về kênh phân phối (paywall, chatbot) không ảnh hưởng nhiều đến nội dung báo chí như hiện nay.
Nhận diện ba thách thức trong quá trình chuyển đổi số trong lĩnh vực báo chí - truyền thông, từ đó có những giải pháp tháo gỡ là điều hết sức cần thiết. Tất nhiên, không thể một sớm một chiều giải quyết hết tất cả các khó khăn, vướng mắc; và cũng không có giải pháp nào có thể phù hợp cho mọi cơ quan báo chí - truyền thông ở nước ta. Thiết nghĩ, bên cạnh những chính sách kiến tạo của cơ quan chỉ đạo, quản lý; các cơ quan chủ quản của tờ báo, đơn vị truyền thông cũng cần quan tâm, hỗ trợ cụ thể. Quan trọng hơn, từng cơ quan báo chí - truyền thông, từng cá nhân đang hoạt động trong lĩnh vực báo chí - truyền thông cần có nhận thức đúng đắn về chuyển đổi số, đề ra lộ trình phù hợp với điều kiện thực tế./.
Nguồn: Bài đăng trên Báo Quân đội nhân dân online ngày 21.6.2021
Bài liên quan
- Quản trị truyền thông ứng phó với thiên tai của Đài Truyền hình Việt Nam trong bối cảnh truyền thông số hiện nay
- Công tác thông tin về thị trường chứng khoán và trái phiếu doanh nghiệp trên báo mạng điện tử Việt Nam hiện nay: Vấn đề đặt ra và một số khuyến nghị
- Quản trị truyền thông thương hiệu ngân hàng thương mại cổ phần vốn nhà nước chi phối ở Việt Nam
- Văn hóa tham gia truyền thông số hậu Covid-19 ở Việt Nam (từ tham chiếu khung lý thuyết của Jenkins)
- Hoạt động marketing bền vững của các thương hiệu Unilever và Coca Cola tại Việt Nam hiện nay
Xem nhiều
-
1
Phim Tài liệu: Video Khoa xây dựng Đảng 50 năm Xây dựng và Phát triển
-
2
Quản lý thông tin thị trường bất động sản trên tạp chí điện tử Việt Nam hiện nay
-
3
Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ các cơ quan chuyên trách, tham mưu giúp việc Đảng ủy đặc khu Bạch Long Vĩ, thành phố Hải Phòng hiện nay
-
4
Tác động của truyền thông thương hiệu đến giá trị cảm nhận và sự gắn bó của sinh viên tại các trường đại học kỹ thuật ở Hà Nội
-
5
Giới thiệu Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông số tháng 11 năm 2025
-
6
Giải pháp tăng cường định hướng hành vi tiếp nhận thông tin báo chí trên nền tảng facebook của sinh viên hệ 9+
Liên kết
- Báo điện tử đảng cộng sản việt nam
- Báo nhân dân
- Báo Quân đội nhân dân
- Cổng thông tin điện tử Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Cổng thông tin điện tử Học viện Chính trị quốc gia hồ chí minh
- Tạp chí Cộng sản
- Tạp chí Giáo dục lý luận
- Tạp chí Giáo dục và Xã hội
- Tạp chí Khoa học xã hội và Nhân văn
- Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam
- Tạp chí Lý luận chính trị
- Tạp chí Nghiên cứu con người
- TẠP CHÍ Nghiên cứu dân tộc
- Tạp chí Người làm báo
- Tạp chí Nội chính
- Tạp chí Quản lý Nhà nước
- Tạp chí Tổ chức Nhà nước
- Tạp chí Tuyên giáo
- Tạp chí Xây Dựng Đảng
- Thư viện số Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Trang thông tin điện tử Hội đồng Lý luận Trung ương
Quản lý thông tin thị trường bất động sản trên tạp chí điện tử Việt Nam hiện nay
Trong bối cảnh thị trường bất động sản (BĐS) Việt Nam có nhiều biến động và chịu tác động mạnh từ các yếu tố vĩ mô, việc quản lý thông tin về lĩnh vực này trên các tạp chí điện tử (TCĐT) ngày càng đóng vai trò quan trọng. Không chỉ là kênh truyền tải dữ liệu, xu hướng và phân tích chuyên sâu, tạp chí điện tử còn là công cụ định hướng dư luận, hỗ trợ nhà đầu tư, người dân và cơ quan quản lý đưa ra quyết định chính xác. Tuy nhiên, việc thông tin sai lệch, thiếu kiểm chứng hoặc mang tính đầu cơ trên các nền tảng số có thể gây ra hệ lụy nghiêm trọng cho thị trường. Do đó, đặt ra yêu cầu cấp thiết về việc tăng cường quản trị nội dung, chuẩn hóa quy trình sản xuất tin bài, kiểm soát nguồn thông tin và nâng cao năng lực của đội ngũ phóng viên, biên tập viên. Bài viết này tập trung phân tích thực trạng, chỉ rõ những kết quả đạt được và bất cập trong công tác quản lý thông tin thị trường BĐS trên tạp chí điện tử, đồng thời đề xuất các giải pháp nhằm tăng cường quản lý, đảm bảo thông tin minh bạch, chính xác, góp phần xây dựng thị trường BĐS phát triển ổn định và bền vững
Quản trị truyền thông ứng phó với thiên tai của Đài Truyền hình Việt Nam trong bối cảnh truyền thông số hiện nay
Quản trị truyền thông ứng phó với thiên tai của Đài Truyền hình Việt Nam trong bối cảnh truyền thông số hiện nay
Bài viết tập trung phân tích hoạt động và hiệu quả quản trị truyền thông ứng phó với thiên tai của Đài Truyền hình Việt Nam (ĐTHVN) trong bối cảnh truyền thông số, dựa trên phân tích nội dung tác phẩm và khảo sát ý kiến công chúng theo dõi các kênh truyền thông của ĐTHVN. Nghiên cứu chỉ ra rằng: hệ thống truyền thông ứng phó với thiên tai của ĐTHVN đã đảm bảo tính chính xác và kịp thời, song vẫn còn thiếu cơ chế phản hồi hai chiều và quản trị dữ liệu liên thông. Từ đó, bài viết đề xuất mô hình “quản trị truyền thông ứng phó thiên tai bốn tầng”, hướng đến mục tiêu xây dựng năng lực quản trị thông tin quốc gia trong điều kiện số hóa toàn diện.
Công tác thông tin về thị trường chứng khoán và trái phiếu doanh nghiệp trên báo mạng điện tử Việt Nam hiện nay: Vấn đề đặt ra và một số khuyến nghị
Công tác thông tin về thị trường chứng khoán và trái phiếu doanh nghiệp trên báo mạng điện tử Việt Nam hiện nay: Vấn đề đặt ra và một số khuyến nghị
Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 4/5/2025 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân, trong đó nhấn mạnh yêu cầu “đẩy mạnh công tác truyền thông, nâng cao chất lượng, hiệu quả thông tin tuyên truyền” cũng như “nghiêm cấm các hành vi đưa thông tin sai lệch, không chính xác, ảnh hưởng đến doanh nghiệp, doanh nhân”. Đây là vừa là định hướng chiến lược, vừa là yêu cầu đối với báo chí trong giai đoạn mới, trong đó, có hoạt động thông tin thị trường chứng khoán, trái phiếu doanh nghiệp (TTCK, TPDN). Hoạt động thông tin báo chí về TTCK, TPDN có vai trò quan trọng. Tuy nhiên, nghiên cứu thông tin về TTCK và TPDN trên báo chí nói chung, báo mạng điện tử (BMĐT) nói riêng là cần thiết nhằm góp phần nâng cao chất lượng truyền thông, định hướng dư luận xã hội, bảo vệ doanh nghiệp, nhà đầu tư và thúc đẩy thị trường phát triển theo hướng lành mạnh, bền vững.
Quản trị truyền thông thương hiệu ngân hàng thương mại cổ phần vốn nhà nước chi phối ở Việt Nam
Quản trị truyền thông thương hiệu ngân hàng thương mại cổ phần vốn nhà nước chi phối ở Việt Nam
Trong hệ thống tài chính - ngân hàng Việt Nam, các ngân hàng thương mại cổ phần (TMCP) có vốn nhà nước chi phối vừa là chủ thể kinh doanh, vừa thực thi mục tiêu ổn định vĩ mô, nên thương hiệu mang bản chất thể chế - thương mại, gắn với niềm tin về sự an toàn, minh bạch. Trong bối cảnh chuyển đổi số và cạnh tranh gia tăng, quản trị truyền thông (QTTT) thương hiệu của các ngân hàng này đối mặt “nghịch lý thể chế - tốc độ”: cơ chế quản trị nhiều tầng kiểm soát bảo đảm an toàn nhưng làm chậm phản ứng trước dòng chảy thông tin nhanh. Dựa trên khung lý thuyết về thương hiệu thể chế cùng dữ liệu khảo sát khách hàng và phỏng vấn cán bộ truyền thông do tác giả thực hiện, bài báo nhận diện ba biểu hiện của nghịch lý này và đề xuất tiếp cận QTTT thương hiệu như năng lực điều hành niềm tin thể chế, với ba trụ cột: quyền lực truyền thông; xây dựng hệ thông dữ liệu và cảnh báo sớm; thiết lập chế độ đối thoại với các nhóm công chúng.
Văn hóa tham gia truyền thông số hậu Covid-19 ở Việt Nam (từ tham chiếu khung lý thuyết của Jenkins)
Văn hóa tham gia truyền thông số hậu Covid-19 ở Việt Nam (từ tham chiếu khung lý thuyết của Jenkins)
Hai thập niên đầu thế kỷ XXI chứng kiến sự chuyển dịch mạnh mẽ từ mô hình truyền thông phát tán một chiều sang hệ sinh thái số tương tác, nơi công chúng không chỉ tiếp nhận mà còn đồng sáng tạo nội dung. Đại dịch Covid-19 (2020-2022) đã thúc đẩy quá trình chuyển đổi số, gia tăng mức độ tham gia của công dân trên các nền tảng trực tuyến. Dựa trên khung lý thuyết “văn hóa tham gia” của Henry Jenkins, bài viết hệ thống hóa khái niệm và các mức độ tham gia, mô tả bối cảnh truyền thông số hậu đại dịch trên bình diện toàn cầu và tại Việt Nam, đồng thời phân tích các biểu hiện, xu hướng, cũng như thách thức trong thực tiễn Việt Nam.
llcttt1994dientu@gmail.com
024.38348033
Bình luận