Đảng viên làm kinh tế tư nhân và vấn đề liêm chính kinh doanh của đảng viên trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
1- Quy định số 15-QĐ/TW được ban hành cho phép đảng viên làm kinh tế tư nhân (KTTN) không giới hạn về quy mô, phải gương mẫu chấp hành Điều lệ Đảng, pháp luật, chính sách của Nhà nước và quy định cụ thể của Ban Chấp hành Trung ương. Quy định này đã tạo điều kiện thuận lợi cho những đảng viên có vốn, kinh nghiệm sản xuất, kinh doanh yên tâm phát huy nguồn lực, năng lực để làm giàu chính đáng cho bản thân, gia đình, đóng góp tích cực phát triển kinh tế - xã hội.
Đây là kết quả đổi mới tư duy của Đảng ta đối với các thành phần kinh tế, đặc biệt là thành phần KTTN. Bởi, chúng ta đã chủ trương thực hiện nhất quán chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần và coi các thành phần kinh tế kinh doanh theo pháp luật đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh, cùng bình đẳng trước pháp luật, thì không nên đặt ra vấn đề phân biệt đảng viên được làm ở thành phần kinh tế này, không được làm ở thành phần kinh tế kia.
Tạo điều kiện cho đảng viên làm KTTN ở nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là tất yếu, là đúng theo quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Sự ra đời của quy định này đã tạo lối thoát cho rất nhiều người khi phải đứng trước sự lựa chọn, trở thành đảng viên thì phải bỏ kinh doanh hoặc tiếp tục kinh doanh thì sẽ không bao giờ trở thành đảng viên. Qua đó, Quy định đã động viên, khích lệ nhiều đảng viên tham gia các hoạt động kinh tế góp phần tạo việc làm, thúc đẩy phát triển kinh tế. Thực tiễn những năm qua cho thấy, rất nhiều đảng viên sẵn sàng chấp nhận rủi ro đem hết nhiệt tâm của mình làm giàu cho bản thân và đất nước, tạo việc làm cho hàng triệu người, góp phần vào tăng trưởng kinh tế và ổn định xã hội.
Quy định này còn góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng. Trong giai đoạn hiện nay, Đảng ta đang lãnh đạo đất nước thực hiện công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, tạo nền tảng cho chủ nghĩa xã hội, trong đó phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm. Muốn làm tốt trọng trách này, phải tạo điều kiện cho bản thân đảng viên tham gia làm kinh tế, trong đó thành phần KTTN là một thành phần rất năng động, hiệu quả. Việc có một bộ phận đảng viên làm KTTN cũng là cơ hội để Đảng có thêm kiến thức và kỹ năng, nghiệp vụ cụ thể để lãnh đạo thành công mục tiêu phát triển kinh tế.
Kết luận số 29-KL/TW, ngày 31.01.2018, “Về tổng kết 10 năm thực hiện Quy định số 15-QĐ/TW, của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X về đảng viên làm kinh tế tư nhân”, nêu rõ, qua hơn 10 năm thực hiện Quy định số 15-QĐ/TW, nhận thức của các cấp ủy, tổ chức đảng về đảng viên làm KTTN đã có sự chuyển biến tích cực. Các quy định pháp luật được ban hành, sửa đổi, bổ sung khá đồng bộ, tạo hành lang pháp lý và tâm lý xã hội cho đảng viên làm KTTN. Số lượng đảng viên làm KTTN năm 2017 tăng 3,57 lần so năm 2006, chiếm 2,72% tổng số đảng viên toàn Đảng. Phần lớn đảng viên làm KTTN giữ gìn phẩm chất, đạo đức, kiên định mục tiêu lý tưởng của Đảng, hoàn thành tốt nhiệm vụ của người đảng viên... Mô hình, phương thức hoạt động của các tổ chức đảng và phát triển Đảng trong khu vực KTTN được các cấp ủy đảng quan tâm đổi mới, từng bước hoàn thiện; chủ doanh nghiệp tư nhân bước đầu đã được xem xét, kết nạp Đảng.
2- Tuy nhiên, xung quanh việc cho phép đảng viên làm KTTN cho đến nay, vẫn còn một số ý kiến khác, nhiều người chưa hiểu thấu đáo tính đúng đắn, phù hợp quy luật và thực tiễn của quy định này. Lợi dụng điều đó, cộng với hành vi sai phạm trong kinh doanh của một số đảng viên trong thời gian qua mà các thế lực thù địch đưa ra những luận điệu sai trái, xuyên tạc chủ trương đúng đắn này của Đảng. Có thể nhận diện theo các nhóm sau:
(1) Rằng, mục tiêu của Đảng Cộng sản Việt Nam là đấu tranh giai cấp, giải phóng con người, xóa bỏ chế độ người bóc lột người, vậy nay lại cho đảng viên làm KTTN tức cho phép đảng viên được “bóc lột”. Phải chăng khẩu hiệu “xóa bỏ chế độ người bóc lột người” chỉ là mị dân?!.
(2) Đảng viên khi làm kinh tế, tất yếu họ sẽ bị chi phối bởi các quy luật kinh tế thị trường, vì lợi nhuận, họ sẽ làm tất cả, kể cả những việc bất chính. Vì lợi nhuận, những ông chủ đảng viên có thể kéo dài ngày lao động, tăng cường độ lao động, hạ thấp thù lao của người lao động, xâm hại quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động. Về mặt tư tưởng, khi bị cám dỗ bởi vật chất, họ sẽ xa rời Đảng, xa rời tổ chức, coi trọng phạm trù “kinh tế” mà bỏ quên “chính trị”, phai nhạt lý tưởng. Khi có nhiều đảng viên rời khu vực công để làm kinh tế tư nhân tất yếu sẽ dẫn đến hiện tượng “tự diễn biến” “tự chuyển hóa”, suy thoái biến chất về tư tưởng, đạo đức. Khi đó, tư chất của những “đảng viên doanh nhân” và đội ngũ “đảng viên doanh nhân” này như thế nào?
(3) Rằng, Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của dân tộc. Nay cho đảng viên làm KTTN, kết nạp các ông chủ doanh nghiệp tư nhân vào hàng ngũ Đảng thì bây giờ Đảng đại diện cho ai? Những đảng viên làm KTTN đó từ chỗ nắm kinh tế sẽ nắm cả chính trị, điều tất yếu dẫn đến là Đảng Cộng sản Việt Nam dần đánh mất bản chất của mình, và ở Việt Nam đang hình thành giai cấp “tư sản đỏ”, ...?
(4) Lợi dụng Đảng, các doanh nhân là đảng viên có ưu thế trong hoạt động kinh doanh so với các doanh nhân không phải là đảng viên, và điều này dẫn đến cạnh tranh không lành mạnh, hình thành các nhóm lợi ích trong nền kinh tế Việt Nam hiện nay. Những doanh nhân là đảng viên hoàn toàn có thể là những người nắm giữ quyền lực nhà nước. Hoặc ít nhất họ cũng là những người có nhiều mối liên hệ về mặt tổ chức đảng hay mang tính cá nhân với những đảng viên đang nắm quyền. Khả năng tác động của họ vào chính sách của Nhà nước rất lớn. Trong khi đó, doanh nhân không phải là đảng viên, không có cái ưu thế mà người đảng viên làm kinh tế tư nhân có được. Liệu với một tình trạng như vậy ở Việt Nam, có thể hình thành một môi trường kinh doanh bình đẳng và lành mạnh hay không?
3- Những luận điệu nêu trên hoặc nhận thức lệch lạc, hoặc cố tình xuyên tạc đường lối, chủ trương của Đảng. Dưới đây, xin được trao đổi để làm rõ tính đúng đắn của chủ trương này.
Thứ nhất, xung quanh vấn đề bóc lột.
Việc nhận thức sản xuất hàng hóa không đối lập với chủ nghĩa xã hội, mà là thành tựu phát triển của nền văn minh nhân loại, tồn tại khách quan, cần thiết cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và cả khi chủ nghĩa xã hội đã được xây dựng ở nước ta. Đây là một bước đột phá trong đổi mới tư duy của Đảng ta. Với nhận thức này, chúng ta đang thực hiện nhất quán xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN với mục tiêu sản xuất thêm nhiều “giá trị thặng dư”, tạo tiền đề cho một xã hội “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Đảng và Nhà nước đang nỗ lực bảo đảm quyền sở hữu và lợi ích hợp pháp của KTTN, khuyến khích họ đẩy mạnh kinh doanh theo pháp luật, tạo môi trường thuận lợi cho sự gia tăng khối lượng giá trị thặng dư toàn xã hội ngày càng lớn, tỷ suất ngày càng cao.
Đối với vấn đề “bóc lột”, ở đây cần phải hiểu, sản xuất ra giá trị thặng dư và bóc lột giá trị thặng dư là 2 phạm trù hoàn toàn khác nhau. Để nhận biết có bóc lột hay không phải xem xét trong quan hệ phân phối.
Dưới góc độ quản lý nhà nước về kinh tế, pháp luật, cơ chế, chính sách về phân bổ nguồn lực, phân phối và phân phối lại ở nước ta theo hướng bảo đảm tăng trưởng kinh tế gắn với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước, từng chính sách phát triển. Chính sách phân phối và phân phối lại bảo đảm hài hòa lợi ích của Nhà nước, người lao động và doanh nghiệp, tạo động lực cho người lao động, doanh nghiệp và bảo đảm lợi ích quốc gia - dân tộc. Ngoài ra, chúng ta còn chú trọng phân phối lại qua phúc lợi xã hội, đặc biệt là trong lĩnh vực giáo dục, y tế; bảo đảm đời sống, ít nhất là ở mức trung hình của xã hội, cho các đối tượng chính sách; củng cố và mở rộng hiệu quả hệ thống an sinh xã hội.
Còn dưới góc độ quản lý doanh nghiệp, đảng viên khi làm chủ doanh nghiệp tư nhân phải trực tiếp tham gia lao động (lao động quản lý, điều hành sản xuất, kinh doanh; lao động kỹ thuật hoặc lao động chân tay). Ngoài ra, theo quy định tại Khoản 1, Điều 2 của Quy định số 15-QĐ/TW, họ còn phải tuân thủ yêu cầu sau: a- Trả lương, phân phối lợi nhuận trên cơ sở kết quả lao động và mức vốn đóng góp của người lao động theo đúng quy định của pháp luật; b- Thực hiện đúng hợp đồng lao động, thỏa ước lao động tập thể đã ký kết; bảo đảm đầy đủ quyền, lợi ích của người lao động theo quy định của pháp luật về lao động, bảo hiểm và các quyền, lợi ích hợp pháp khác; đối xử thân ái, tôn trọng người lao động; c- Dành ưu tiên cho người lao động trong doanh nghiệp được mua cổ phần khi doanh nghiệp tiến hành cổ phần hóa.
Những quy định này đòi hỏi đảng viên làm chủ doanh nghiệp tư nhân phải gương mẫu đi đầu để các chủ doanh nghiệp khác noi theo trong bảo đảm công bằng về phân phối lợi nhuận, trong bảo vệ lợi ích và chống xâm hại quyền lợi của người lao động.
Mặt khác, cần nhận thức rằng, ở nước ta hiện nay trình độ lực lượng sản xuất còn thấp, lại không đồng đều giữa các ngành, các vùng nên tất yếu phải tồn tại nhiều hình thức sở hữu, trong đó có sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, nên chưa thể đặt vấn đề xóa ngay mọi hình thức bóc lột. Chỉ đến khi trình độ xã hội hóa sản xuất phát triển cao, mâu thuẫn gay gắt với chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, khi ấy mới có điều kiện chín muồi thực hiện cuộc cách mạng xây dựng xã hội không còn bóc lột. Hiện, chúng ta lấy mục tiêu thúc đẩy phát triển lực lượng sản xuất, tăng năng suất lao động làm cơ sở để xử lý vấn đề bóc lột. Đồng thời, chúng ta cũng hạn chế tối đa quan hệ bóc lột. Điều này phù hợp với khẳng định là trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, chế độ người bóc lột người đã dần dần bị thủ tiêu. Thực tiễn cho thấy, hiện tượng bóc lột trong nền kinh tế - xã hội nước ta rất hạn chế, trong phạm vi nhỏ và nó không quyết định bản chất chế độ chính trị - xã hội.
Thứ hai, về phẩm chất của các “doanh nhân đảng viên” trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.
Kinh tế tư nhân là bộ phận cấu thành của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Đại hội lần thứ X của Đảng ta tiếp tục khẳng định các thành phần kinh tế hoạt động theo pháp luật đều là bộ phận hợp thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, bình đẳng trước pháp luật, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh. Trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, chúng ta không xem KTTN là gắn với chủ nghĩa tư bản, mà phát triển theo định hướng XHCN.
Chúng ta phấn đấu cho mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Để đạt mục tiêu này, Đảng và Nhà nước ta cần phải tạo điều kiện thuận lợi để nhân dân làm giàu - một cách chính đáng, trong đó có cả việc làm giàu bằng KTTN. Điều này cần được bình đẳng đối với mọi thành viên trong xã hội, trong đó có cả đảng viên. Khi Đảng ta coi phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm, trong đó KTTN là một động lực quan trọng thì đảng viên phải đi tiên phong trong việc thực hiện nhiệm vụ trung tâm đó. Đảng và Nhà nước cần khuyến khích, thậm chí đòi hỏi đảng viên phải biết làm giàu cho mình và cho đất nước ở mọi lĩnh vực, ở mọi thành phần kinh tế, không có sự phân biệt nào, miễn là tuân thủ pháp luật của Nhà nước.
Đối với mỗi cá nhân đảng viên làm KTTN, họ là những doanh nhân phải hoạt động tuân theo Hiến pháp và pháp luật nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam như bất cứ doanh nhân nào hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam. Một khi chủ doanh nghiệp tư nhân được đào tạo, bồi dưỡng về chính trị, luật pháp, văn hóa thì chủ doanh nghiệp tư nhân sẽ có phẩm chất tốt, sẽ biết giải quyết hài hòa giữa lợi ích của bản thân, của cộng đồng, của Nhà nước, sẽ biết chấp hành nghiêm chỉnh Cương lĩnh chính trị, Điều lệ và các nghị quyết của Đảng, pháp luật của Nhà nước.
Như vậy, cùng với sự lớn mạnh của các thành phần kinh tế, đội ngũ doanh nhân đảng viên này sẽ lớn mạnh cùng với đội ngũ doanh nhân Việt Nam nói chung, thậm chí là những người tiên phong. Và bản chất của đội ngũ này sẽ thay đổi, không hoàn toàn giống như trước đây và cũng không hoàn toàn giống như ở các nước tư bản hiện nay, bởi nó hình thành và phát triển trong điều kiện rất khác - nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.
Thứ ba, về tính chất của Đảng Cộng sản Việt Nam khi có một bộ phận đảng viên làm kinh tế tư nhân.
Khi xem xét tính chất của một Đảng, cần xem xét tôn chỉ, mục đích, cương lĩnh hành động, đường lối và các chính sách của Đảng đó, chứ không nên xem xét thành phần xuất thân của đảng viên, bởi tính chất của Đảng không phụ thuộc vào điều đó.
Đảng ta là một tổ chức chặt chẽ, thống nhất ý chí và hành động, lấy nguyên tắc tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ bản, thực hiện tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, đồng thời thực hiện các nguyên tắc tự phê bình và phê bình, đoàn kết trên cơ sở Cương lĩnh chính trị và Điều lệ Đảng, giữ mối liên hệ mật thiết với nhân dân, hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật. Do vậy, nếu chủ doanh nghiệp tư nhân được kết nạp vào Đảng thì chủ doanh nghiệp tư nhân cũng sẽ tuân thủ những nguyên tắc của Đảng, phấn đấu vì mục đích, lý tưởng của Đảng, góp phần làm cho KTTN phát triển theo định hướng XHCN.
Bên cạnh đó, trong Điều 2 của Quy định số 15-QĐ/TW còn quy định, đảng viên là chủ doanh nghiệp tư nhân phải tạo điều kiện thuận lợi cho công tác phát triển đảng viên và thành lập tổ chức đảng trong doanh nghiệp; tạo điều kiện thuận lợi cho đảng viên và tổ chức đảng hoạt động; và phải dựa vào các tổ chức này để phát triển sản xuất, kinh doanh, để xử lý tốt mối quan hệ lợi ích kinh tế, chính trị giữa chủ doanh nghiệp tư nhân là đảng viên và những người lao động trong doanh nghiệp mình.
Với những yêu cầu và quy định chặt chẽ này, tính chất của Đảng Cộng sản Việt Nam không hề thay đổi khi có một bộ phận đảng viên làm KTTN.
Thứ tư, về sự bình đẳng trong kinh doanh giữa các doanh nghiệp có chủ sở hữu là đảng viên với các doanh nghiệp khác.
Theo Điều 3, Quy định số 15-QĐ/TW, đảng viên là cán bộ, công chức, viên chức; sĩ quan, hạ sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng trong cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân Việt Nam; sĩ quan, hạ sĩ quan nghiệp vụ, sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên môn - kỹ thuật trong cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân Việt Nam; cán bộ lãnh đạo, quản lý nghiệp vụ trong doanh nghiệp 100% vốn sở hữu nhà nước phải thực hiện các quy định về những việc được làm và không được làm khi muốn tham gia KTTN. Điều này nhằm tránh tình trạng một số đảng viên có thể lợi dụng chức quyền để can thiệp vào kinh doanh, tạo sân sau, cho người thân lợi dụng làm giàu bất chính.
Doanh nghiệp tư nhân của đảng viên phải tự giác chấp hành mọi nghĩa vụ đối với Nhà nước; thực hiện một cách trung thực, chính xác, đúng thời hạn theo quy định của pháp luật việc kê khai thuế, nộp thuế và các nghĩa vụ tài chính khác, chế độ kế toán, thống kê và các chế độ, chính sách khác của Nhà nước.
Bên cạnh đó, cấp ủy và tổ chức đảng cơ sở nơi đảng viên làm KTTN có trách nhiệm hướng dẫn, giúp đỡ đảng viên làm tròn nhiệm vụ của người đảng viên và chấp hành nghiêm chỉnh Quy định số 15-QĐ/TW này.
Như vậy, đảng viên làm KTTN vừa là công dân Việt Nam, vừa là đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam. Là công dân làm chủ doanh nghiệp tư nhân thì phải tuân thủ và chấp hành tốt các quy định của pháp luật hiện hành của Nhà nước Việt Nam. Là đảng viên làm KTTN thì ngoài việc chấp hành tốt pháp luật của Nhà nước, còn phải gương mẫu chấp hành Điều lệ Đảng và phải chịu sự giám sát của Đảng. Người đảng viên phải rèn luyện, thấm nhuần đạo đức cách mạng và thực hiện theo chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, từ đó, làm gương cho quần chúng nhân dân noi theo. Đây là cơ sở bảo đảm sự công khai, minh bạch và bình đẳng trong kinh doanh giữa doanh nghiệp của đảng viên với những doanh nghiệp khác.
4- Tuy nhiên, thời gian qua trong hoạt động kinh doanh, vẫn còn hiện tượng một bộ phận đảng viên có biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, buôn gian, bán lận, lừa gạt khách hàng. Gian dối khi làm các nghĩa vụ của người kinh doanh đối với Nhà nước, người lao động và xã hội. Vì lợi nhuận mà vô trách nhiệm đối với môi trường và sinh kế của người lao động. Ngoài ra, còn có những doanh nghiệp có sự hậu thuẫn của một số đảng viên là cán bộ, công chức, lợi dụng uy tín cá nhân, danh nghĩa tổ chức tác động tạo điều kiện thuận lợi cho người thân (vợ, chồng, con...) trục lợi theo dạng quan hệ “lợi ích nhóm”, thao túng chính sách, tạo ra hiện tượng “sân sau” gây nên sự bất bình đẳng trong kinh doanh giữa các thành phần kinh tế nói chung, KTTN nói riêng,... Dự thảo Báo cáo tổng kết công tác xây dựng Đảng và thi hành điều lệ Đảng nhiệm kỳ Đại hội XIII đánh giá: “...công tác xây dựng Đảng về đạo đức vẫn còn có những hạn chế như: Việc tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, lối sống của một số cán bộ, đảng viên chưa thường xuyên, nền nếp; vẫn còn tình trạng nói không đi đôi với làm; không tuân thủ nguyên tắc của Đảng, quan liêu, tham nhũng, lãng phí, cá nhân chủ nghĩa, cơ hội, thực dụng, bè phái, gây mất đoàn kết nội bộ, chưa nêu cao ý thức và trách nhiệm trước nhân dân”(1).
Để khẳng định tính đúng đắn của chủ trương này của Đảng, bên cạnh các luận cứ nêu trên, một nhiệm vụ không kém phần quan trọng khác, đó là: phải bảo đảm sự liêm chính kinh doanh của người đảng viên. Bởi, liêm chính là phẩm chất cơ bản của đạo đức kinh doanh. Đặc biệt, đối với người đảng viên khi kinh doanh càng phải đề cao phẩm chất này. Những biểu hiện không liêm chính của người đảng viên khi làm KTTN không những ảnh hưởng đến chủ trương đúng đắn của Đảng, tạo dư luận xấu trong xã hội, làm xói mòn niềm tin của người dân đối với Đảng mà còn tạo cơ hội cho các thế lực thù địch lợi dụng xuyên tạc.
Để bảo đảm sự liêm chính kinh doanh thì người đảng viên phải làm gì? Người đảng viên khi kinh doanh phải không chỉ vì lợi ích cá nhân mà còn phải tính đến lợi ích của cộng đồng, xã hội và cao hơn hết là lợi ích của Tổ quốc. Họ cần định hướng đầu tư, sản xuất, kinh doanh ở những lĩnh vực chính đáng, hợp pháp. Phải tuân thủ pháp luật và các quy định khác trong kinh doanh. Đối với người sử dụng lao động, họ phải có những yêu cầu đúng mực, chia sẻ thuận lợi, khó khăn, quan tâm đến quyền lợi và bảo đảm các chế độ của người lao động,... Có ý thức tuân thủ những cam kết hợp tác kinh doanh vì lợi ích của nhau, của xã hội và cạnh tranh lành mạnh, trung thực... Người đảng viên doanh nhân cần tạo dựng nhân cách tốt đẹp, được xã hội tôn vinh, yêu mến và ca ngợi.
Đảng ta luôn coi trọng việc bảo đảm liêm chính kinh doanh của người đảng viên thông qua việc đề cao vai trò nêu gương của cán bộ, đảng viên. Quan tâm đến công tác xây dựng tác phong, đạo đức liêm khiết, công minh chính trực của cán bộ, đảng viên và kiên quyết đấu tranh, sàng lọc, loại bỏ những hiện tượng thoái hóa, biến chất của những phần từ cơ hội, ảnh hưởng đến uy tín, lòng tin của nhân dân đối với Đảng. Thực hiện sàng lọc chặt chẽ đối với những đảng viên thoái hóa, biến chất, trong đó có cả những đảng viên làm KTTN để giữ nghiêm kỷ luật, kỷ cương của Đảng.
Cùng với đó, Đảng và Nhà nước đẩy mạnh nỗ lực chống tham nhũng, hoàn thiện khung pháp lý về phòng, chống tham nhũng. Gần đây là việc thông qua Luật Phòng, chống tham nhũng (sửa đổi) vào tháng 11 năm 2018. Luật này đã mở rộng phạm vi điều chỉnh sang cả khu vực tư nhân. Đồng thời, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, đôn đốc, uốn nắn việc thực hiện Quy định số 15-QĐ/TW của các tổ chức đảng trong các doanh nghiệp tư nhân./.
______________________
(1) Đảng Cộng sản Việt Nam (2020), Dự thảo các văn kiện trình Đại hội XIII của Đảng, Hà Nội, tr.253.
Nguồn: Bài đăng trên Tạp chí Cộng sản điện tử ngày 12.3.2021
Bài liên quan
- Những thách thức về bảo vệ nền tảng tư tưởng trên các phương tiện truyền thông xã hội
- Uy tín giả- tác hại thật - Bài 3: Ngăn chặn, đẩy lùi uy tín giả
- Uy tín giả - tác hại thật - Bài 2: Nhận diện uy tín giả
- Uy tín giả - tác hại thật - Bài 1: Uy tín giả - “mảnh đất dụng võ” của kẻ thù
- Nhận diện và xử lý những vấn đề phức tạp, nhạy cảm trong sách tôn giáo
Xem nhiều
- 1 Video Tư liệu: Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông 30 năm xây dựng và phát triển
- 2 Sử dụng công nghệ trí tuệ nhân tạo trong sản xuất chương trình truyền hình
- 3 Giữ gìn và bảo vệ giá trị văn hóa truyền thống các dân tộc ít người, góp phần củng cố, phát triển khối đại đoàn kết toàn dân tộc
- 4 Phát triển nguồn nhân lực ở tỉnh Bến Tre: Thực trạng và giải pháp
- 5 Sử dụng ChatGPT trong việc cải thiện kỹ năng viết cho sinh viên học tiếng Anh
- 6 Lễ kỷ niệm và Hội thảo khoa học “30 năm - Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông”
Liên kết
- Báo điện tử đảng cộng sản việt nam
- Báo nhân dân
- Báo Quân đội nhân dân
- Cổng thông tin điện tử Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Cổng thông tin điện tử Học viện Chính trị quốc gia hồ chí minh
- Tạp chí Cộng sản
- Tạp chí Giáo dục lý luận
- Tạp chí Giáo dục và Xã hội
- Tạp chí Khoa học xã hội và Nhân văn
- Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam
- Tạp chí Lý luận chính trị
- Tạp chí Nghiên cứu con người
- TẠP CHÍ Nghiên cứu dân tộc
- Tạp chí Người làm báo
- Tạp chí Nội chính
- Tạp chí Quản lý Nhà nước
- Tạp chí Tổ chức Nhà nước
- Tạp chí Tuyên giáo
- Tạp chí Xây Dựng Đảng
- Thư viện số Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Trang thông tin điện tử Hội đồng Lý luận Trung ương
Những thách thức về bảo vệ nền tảng tư tưởng trên các phương tiện truyền thông xã hội
Bảo vệ nền tảng tư tưởng trên các phương tiện truyền thông xã hội hiện nay đứng trước rất nhiều khó khăn, thách thức do các yếu tố chủ quan và khách quan mang lại. Lan toả các giá trị tư tưởng của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu để tiếp tục đưa đất nước tiến lên theo con đường xã hội chủ nghĩa. Vấn đề của hoạt động bảo vệ nền tảng tư tưởng trên các phương tiện truyền thông xã hội hiện nay là làm sao thu hút được sự quan tâm của đại bộ phận nhân dân, để nhân dân tin tưởng và làm theo Đảng thông qua những nội dung gần gũi, sinh động, hấp dẫn và hiện đại. Hai yếu tố ảnh hưởng lớn nhất tới hoạt động bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng chính là sự phát triển nhanh chóng của các phương tiện truyền thông, đặc biệt truyền thông xã hội và hiện tượng truyền thông hoá.
Những thách thức về bảo vệ nền tảng tư tưởng trên các phương tiện truyền thông xã hội
Những thách thức về bảo vệ nền tảng tư tưởng trên các phương tiện truyền thông xã hội
Bảo vệ nền tảng tư tưởng trên các phương tiện truyền thông xã hội hiện nay đứng trước rất nhiều khó khăn, thách thức do các yếu tố chủ quan và khách quan mang lại. Lan toả các giá trị tư tưởng của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu để tiếp tục đưa đất nước tiến lên theo con đường xã hội chủ nghĩa. Vấn đề của hoạt động bảo vệ nền tảng tư tưởng trên các phương tiện truyền thông xã hội hiện nay là làm sao thu hút được sự quan tâm của đại bộ phận nhân dân, để nhân dân tin tưởng và làm theo Đảng thông qua những nội dung gần gũi, sinh động, hấp dẫn và hiện đại. Hai yếu tố ảnh hưởng lớn nhất tới hoạt động bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng chính là sự phát triển nhanh chóng của các phương tiện truyền thông, đặc biệt truyền thông xã hội và hiện tượng truyền thông hoá.
Uy tín giả- tác hại thật - Bài 3: Ngăn chặn, đẩy lùi uy tín giả
Uy tín giả- tác hại thật - Bài 3: Ngăn chặn, đẩy lùi uy tín giả
Uy tín giả là một biến thể nguy hại của chủ nghĩa cá nhân, trái ngược với những yêu cầu về phẩm chất đích thực và đạo đức cách mạng. Vì vậy, ngăn chặn, đẩy lùi uy tín giả là loại bỏ những thói hư tật xấu đang ngấm ngầm làm tha hóa cán bộ, đảng viên. Chống uy tín giả cũng là chống chủ nghĩa cá nhân, củng cố uy tín đích thực của người cán bộ, đảng viên, người lãnh đạo.
Uy tín giả - tác hại thật - Bài 2: Nhận diện uy tín giả
Uy tín giả - tác hại thật - Bài 2: Nhận diện uy tín giả
Uy tín giả nảy sinh, xâm nhập, lây lan trong đời sống chính trị, xã hội do nhiều nguyên nhân, trong đó, yếu tố chủ quan của tổ chức và cá nhân cán bộ, đảng viên là nguyên nhân trực tiếp, phổ biến.
Uy tín giả - tác hại thật - Bài 1: Uy tín giả - “mảnh đất dụng võ” của kẻ thù
Uy tín giả - tác hại thật - Bài 1: Uy tín giả - “mảnh đất dụng võ” của kẻ thù
Một trong những nguy cơ ngấm ngầm tạo ra sự ghen ghét, đố kỵ, gây chia rẽ, mất đoàn kết nội bộ, làm suy yếu tổ chức, suy yếu tập thể là uy tín giả. Nghiêm trọng hơn, nó còn thúc đẩy sự trỗi dậy của chủ nghĩa cá nhân rất nguy hại. Suy rộng ra, uy tín giả hủy hoại nghiêm trọng thanh danh của Đảng, làm giảm sút niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước ta nếu không được nhận diện, đấu tranh, ngăn chặn.
Bình luận