Đấu tranh chống quan liêu, chủ nghĩa cá nhân, lối sống cơ hội, thực dụng, nói không đi đôi với làm, bè phái, “lợi ích nhóm”
1. Nhận diện bệnh quan liêu, chủ nghĩa cá nhân, lối sống cơ hội, thực dụng, nói không đi đôi với làm, bè phái, “lợi ích nhóm”
Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Quan liêu là cán bộ phụ trách xa rời thực tế, không điều tra, nghiên cứu đến nơi, đến chốn những công việc cần phải làm, việc gì cũng nắm không vững, chỉ đạo một cách đại khái, chung chung. Quan liêu xa rời quần chúng, không đi sâu đi sát, không hiểu rõ lai lịch, tư tưởng và công tác của cán bộ mình. Không lắng nghe ý kiến của quần chúng. Sợ phê bình và tự phê bình”(1). Người chỉ rõ sở thích của những cán bộ mắc bệnh quan liêu là thích dùng mệnh lệnh, “thiếu dân chủ, không giữ đúng nguyên tắc lãnh đạo tập thể, phân công phụ trách”(2); “ở cương vị phụ trách thì tự cho mình có quyền hành hơn hết thảy, định đoạt mọi công việc, ở địa phương nào thì coi đó là một giang sơn riêng, không biết đến lợi ích của toàn cục”(3). Người nhấn mạnh: “Số người đó coi Đảng như cái cầu thang để thăng quan phát tài. Họ không quan tâm đến đời sống của nhân dân mà chỉ lo nghĩ đến lợi ích của riêng mình. Họ quên rằng mỗi đồng tiền, hạt gạo đều là mồ hôi nước mắt của nhân dân, do đó mà sinh ra phô trương, lãng phí. Họ tự cho mình có quyền sống xa hoa, hưởng lạc, từ đó mà đi đến tham ô, trụy lạc, thậm chí sa vào tội lỗi”(4).
Như vậy, có thể hiểu: quan liêu là cách lãnh đạo thoát ly thực tế, đại khái, chung chung, chuộng hình thức, nặng về giấy tờ, ít kiểm tra, thiếu dân chủ, thích dùng mệnh lệnh hành chính, xa nhân dân, coi thường nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, bảo thủ, hách dịch, chuyên quyền, độc đoán, thậm chí ức hiếp cán bộ cấp dưới và nhân dân.
“Chủ nghĩa cá nhân” là thế giới quan dựa trên cơ sở đối lập quyền lợi cá nhân riêng lẻ với quyền lợi của xã hội, đặt quyền lợi của cá nhân trên quyền lợi tập thể(5). Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ, những người mắc vào chủ nghĩa cá nhân “việc gì cũng nghĩ đến lợi ích riêng của mình trước hết. Họ không lo “mình vì mọi người” mà chỉ muốn “mọi người vì mình”... ngại khổ, khó khăn, sa vào tham ô, hủ hóa, lãng phí, xa hoa. Họ tham danh trục lợi, thích địa vị quyền hành. Họ tự cao tự đại, coi thường tập thể, xem khinh quần chúng, độc đoán, chuyên quyền. Họ không có tinh thần cố gắng vươn lên, không chịu học tập để tiến bộ”(6). Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “cũng do cá nhân chủ nghĩa mà mất đoàn kết, thiếu tính tổ chức, tính kỷ luật, kém tinh thần trách nhiệm, không chấp hành đường lối chính sách của Đảng và của Nhà nước, làm hại đến lợi ích của cách mạng, của nhân dân”(7).
“Lối sống” là toàn bộ lề thói, cách thức cư xử, ăn, ở của một người, một tập thể người trong xã hội, thể hiện trong các lĩnh vực hoạt động từ sản xuất, tiêu dùng, sinh hoạt đến thái độ, hành vi, cách tư duy, lối ứng xử giữa con người với con người.
Con người luôn luôn phải tồn tại trong một cộng đồng nhất định, họ phải tuân thủ những quy tắc nhất định của cộng đồng, dần dần thành thói quen và trở thành lối sống cá nhân. Lối sống cộng đồng là những quy tắc được thừa nhận rộng rãi trong một cộng đồng người nào đó, được mọi thành viên tuân thủ gần như vô điều kiện và trở thành đương nhiên. Như vậy, lối sống là một thói quen có định hướng, thể hiện những đặc trưng văn hóa của mỗi người hay một cộng đồng.
Lối sống có sự thay đổi theo các điều kiện sống, sự thay đổi đó không phải lúc nào cũng mang tính tích cực, có không ít lối sống thay đổi theo hướng tiêu cực.
Lối sống quan hệ mật thiết với lẽ sống. Theo Đại từ điển tiếng Việt: “lẽ” là điều thường thấy ở đời, được coi là hợp với quy luật, với đạo lí(8). “Lẽ sống” chính là lối sống của cá nhân hay một cộng đồng người hợp đạo lý, hợp quy luật, là lối sống tiến bộ, được duy trì, phát triển cùng với sự phát triển, tiến bộ của con người và xã hội.
Như vậy, lẽ sống là nhân lõi của lối sống, quy định ý thức, tình cảm và mục tiêu của lối sống. Bởi vậy, để xây dựng lối sống tốt đẹp trong xã hội phải đặc biệt quan tâm xây dựng lẽ sống đúng đắn, phù hợp với mục tiêu, lý tưởng, những phẩm chất đạo đức tốt đẹp của dân tộc và thời đại, giữ gìn lối sống tốt, loại bỏ lối sống xấu.
Lối sống tốt đẹp của con người là lối sống trong sạch, lành mạnh, giản dị, tiết kiệm, vì tập thể, vì mọi người, sẵn sàng hy sinh lợi ích riêng cho lợi ích tập thể và đất nước... Người có lối sống cơ hội, thực dụng, nói không đi đôi với làm là người có lập trường tư tưởng không vững vàng, bất chấp lợi ích của Đảng, của nhân dân, tìm cách vun vén cho lợi ích cá nhân, gia đình, dòng tộc, say mê quyền lực, địa vị, khéo luồn lách, nịnh bợ, kéo bè, kết cánh, “móc ngoặc” trên dưới, trong ngoài để đạt mục đích cá nhân. V.I.Lênin chỉ rõ, những người cơ hội là những người lừng chừng về chính trị, họ “dễ dàng thừa nhận mọi công thức và rời bỏ mọi công thức cũng dễ dàng như thế”(9).
Lối sống cơ hội, thực dụng, nói không đi đôi với làm, bè phái là biểu hiện của suy thoái đạo đức, lối sống mà Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng đã chỉ ra. Đây là biểu hiện thứ nhất trong 9 biểu hiện suy thoái về đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên.
“Lợi ích nhóm” là biểu hiện của suy thoái về đạo đức, lối sống.
Quan liêu, chủ nghĩa cá nhân, lối sống cơ hội, thực dụng, nói không đi đôi với làm, bè phái, “lợi ích nhóm” là các tệ nạn nguy hiểm đối với Đảng và chế độ. Những tệ nạn này có mối quan hệ với nhau và liên quan đến suy thoái về tư tưởng chính trị, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ Đảng.
Kiên quyết đấu tranh chống quan liêu, chủ nghĩa cá nhân, lối sống cơ hội, thực dụng, nói không đi đôi với làm, bè phái, “lợi ích nhóm” là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị và nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng, làm cho các tệ nạn này không còn khả năng phát triển, giảm dần, hạn chế và bị loại trừ.
2. Những biểu hiện của bệnh quan liêu, chủ nghĩa cá nhân, lối sống cơ hội, thực dụng, nói không đi đôi với làm, bè phái, “lợi ích nhóm”
Nghị quyết Trung ương 3 (khóa VII) về một số nhiệm vụ đổi mới và chỉnh đốn Đảng chỉ rõ: “Trong Đảng có một bộ phận giảm sút ý chí chiến đấu, phai nhạt lý tưởng, dao động, mất lòng tin, trong đó một số chịu ảnh hưởng của khuynh hướng cơ hội, xét lại, muốn đưa đất nước đi theo con đường khác; thậm chí đã có người phản bội, đầu hàng. Không ít cán bộ, đảng viên bị chủ nghĩa cá nhân, thực dụng cuốn hút, trở nên thoái hóa, hư hỏng..., ăn chơi vung phí tài sản của nhân dân rất nghiêm trọng và kéo dài”(10).
Nghị quyết còn nhấn mạnh: “Bệnh quan liêu xa thực tế, xa quần chúng rất nặng. Nhiều cán bộ, đảng viên nói không đi đôi với làm, sống xa dân, thậm chí cách biệt với cuộc sống của người lao động”(11). Xuất hiện ở các cấp, các ngành, các lĩnh vực của đời sống xã hội, trong nhiều tổ chức đảng, cơ quan Nhà nước, cơ quan bảo vệ pháp luật và cơ sở, nơi gần gũi, tiếp xúc nhiều nhất và trực tiếp giải quyết công việc của nhân dân.
Đại hội VIII của Đảng nhấn mạnh: “Bộ máy Đảng, Nhà nước, đoàn thể chậm được sắp xếp lại, tinh giản và nâng cao chất lượng; còn biểu hiện quan liêu... Điều đáng lo ngại là không ít cán bộ, đảng viên phai nhạt lý tưởng cách mạng, tha hóa về phẩm chất, đạo đức...”(12). Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2) khoá VIII “Về một số vấn đề cơ bản và cấp bách trong công tác xây dựng Đảng hiện nay”, chỉ rõ: “Trước yêu cầu mới ngày càng cao của sự nghiệp cách mạng, trong Đảng bộc lộ một số yếu kém: ... tình trạng tham nhũng, quan liêu, lãng phí của một bộ phận cán bộ, đảng viên có chiều hướng phát triển nghiêm trọng hơn”(13).
Đại hội IX của Đảng tiếp tục nhấn mạnh: “Tình trạng lãng phí, quan liêu còn khá phổ biến”(14). Đại hội X của Đảng nhận định: Đáng lo ngại là “một số ít có biểu hiện bất mãn, mất lòng tin, nói và làm trái với quan điểm, đường lối của Đảng, vi phạm các nguyên tắc tổ chức hoạt động của Đảng, vi phạm pháp luật của Nhà nước. Bệnh cơ hội, chủ nghĩa cá nhân trong một bộ phận cán bộ, đảng viên có chiều hướng gia tăng; vẫn còn tình trạng “chạy chức”, “chạy quyền”, “chạy tội” “chạy bằng cấp”. Thoái hóa, biến chất về chính trị, tư tưởng, về đạo đức, lối sống ... trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên diễn ra nghiêm trọng kéo dài chưa được ngăn chặn, đẩy lùi...”(15).
Đặc biệt, Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI “một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”, nhận định: “Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có những đảng viên giữ vị trí lãnh đạo, quản lý, kể cả một số cán bộ cao cấp suy thoái về..., đạo đức, lối sống với những biểu hiện khác nhau”(16). Đại hội XII của Đảng nhận định: “Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên chưa bị đẩy lùi; có mặt, có bộ phận còn diễn biến phức tạp hơn”(17).
Lợi ích nhóm đã xuất hiện trong các giai đoạn trước đây, song từ sau Đại hội VI của Đảng đã phát triển đến mức phức tạp, gây hậu quả rất nghiêm trọng về kinh tế, chính trị, xã hội, xây dựng Đảng và xây dựng hệ thống chính trị. Qua kiểm điểm việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI, Đại hội XII nhận định: “Trên một số vấn đề, qua kiểm điểm của cấp ủy, tổ chức đảng các cấp từ Trung ương đến cơ sở vẫn chưa làm rõ thực chất, mức độ nghiêm trọng... như tình trạng chạy chức, chạy tội, tham nhũng, lợi ích nhóm”(18). Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII “về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng, ngăn chặn, đẩy lùi suy thoái về đạo đức, lối sống...”, chỉ rõ một biểu hiện rất nguy hiểm của lợi ích nhóm: “... lợi dụng chức vụ, quyền hạn cấu kết với doanh nghiệp, với đối tượng khác để trục lợi. Lợi dụng, lạm dụng chức vụ, quyền hạn được giao để dung túng, bao che, tiếp tay cho tham nhũng, tiêu cực”(19).
Như vậy, quan liêu, chủ nghĩa cá nhân, lối sống cơ hội, thực dụng, nói không đi đôi với làm, bè phái, “lợi ích nhóm” diễn biến ngày càng phức tạp, tinh vi và có xu hướng nghiêm trọng ở nhiều nơi, ở các ngành, các cấp, lĩnh vực đời sống xã hội. Đây là vấn đề nhức nhối, gây bức xúc trong cán bộ, đảng viên và trong nhân dân, cần kiên quyết đấu tranh với quyết tâm chính trị cao và có hệ thống giải pháp mạnh mẽ, đồng bộ, khả thi.
3. Giải pháp chủ yếu đấu tranh chống quan liêu, chủ nghĩa cá nhân, lối sống cơ hội, thực dụng, nói không đi đôi với làm, bè phái, “lợi ích nhóm”
- Giải pháp chủ yếu đấu tranh chống quan liêu
Thứ nhất, giải pháp về kinh tế - xã hội. Đề cao và tăng cường tính tự chủ, tự quản về kinh tế, đẩy mạnh cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước đạt chất lượng hiệu quả; xác định cụ thể, rõ ràng hơn sự quản lý của Nhà nước đối với hoạt động sản xuất, kinh doanh, giảm thiểu sự can thiệp mang tính hành chính vào hoạt động sản xuất, kinh doanh; đẩy mạnh việc xã hội hóa một số lĩnh vực hoạt động của Nhà nước, nhất là những lĩnh vực dịch vụ công liên quan trực tiếp đến quyền và lợi ích của công dân; đẩy mạnh việc phân cấp hợp lý cho địa phương.
Thứ hai, giải pháp về công tác chính trị, tư tưởng. Mở rộng và tăng cường dân chủ trong Đảng và trong xã hội, đặc biệt là dân chủ trực tiếp; tăng cường giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng, đạo đức nghề nghiệp của cán bộ, công chức, kiên quyết đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân; gắn bó mật thiết với nhân dân, lắng nghe ý kiến của dân.
Thứ ba, giải pháp về công tác tổ chức cán bộ. Đẩy mạnh việc sắp xếp, kiện toàn tổ chức bộ máy của Đảng, Nhà nước và các đoàn thể chính trị - xã hội, đặc biệt là các cơ quan quản lý hành chính, các tổ chức chính trị - xã hội; phân định cụ thể, rõ ràng sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, việc tự quản của nhân dân; xây dựng quy chế làm việc và thực hiện nghiêm chỉnh quy chế làm việc; xây dựng đội ngũ cán bộ có chất lượng; đẩy mạnh công khai hóa, minh bạch hóa hoạt động quản lý của bộ máy Nhà nước; xây dựng cơ chế phản biện xã hội đối với những vấn đề quan trọng của đất nước.
Thứ tư, tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy đảng, đẩy mạnh công tác kiểm tra, giám sát, phát huy mạnh mẽ vai trò, trách nhiệm của các đoàn thể nhân dân trong chống quan liêu.
Thứ năm, giải quyết tốt khiếu nại, tố cáo của nhân dân, cán bộ, đảng viên đối với cán bộ, tổ chức đảng, chính quyền mắc bệnh quan liêu; xử lý nghiêm minh những cán bộ, tổ chức đảng, các tổ chức trong hệ thống chính trị mắc bệnh quan liêu gây hậu quả nghiêm trọng, khen thưởng kịp thời các tổ chức và cá nhân có thành tích chống tệ quan liêu. Coi trọng sơ kết, tổng kết rút kinh nghiệm về chống quan liêu.
- Giải pháp chủ yếu đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, lối sống cơ hội, thực dụng, nói không đi đôi với làm, bè phái
Thứ nhất, tăng cường tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức và ý thức trách nhiệm của cấp ủy các cấp, đội ngũ đảng viên về chống chủ nghĩa cá nhân, lối sống cơ hội, thực dụng, nói không đi đôi với làm, bè phái. Đổi mới, nâng cao chất lượng giáo dục chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước cho cán bộ, đảng viên. Giáo dục đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên. Thực hiện tốt Chỉ thị số 05-CT/TW ngày 15.5.2016 của Bộ Chính trị “về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”.
Thứ hai, thực hiện thắng lợi nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững ổn định chính trị, trật tự xã hội, làm thất bại âm mưu “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch, hạn chế đến mức thấp nhất những tác động của mặt trái kinh tế thị trường, mở cửa, hội nhập quốc tế đối với cán bộ, đảng viên và nhân dân.
Thứ ba, tiếp tục thực hiện thắng lợi cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng, nhất là thực hiện thắng lợi Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; xây dựng các tổ chức đảng, nhất là tổ chức cơ sở đảng trong sạch vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức, thực sự là nơi trực tiếp chống lại một cách có hiệu quả chủ nghĩa cá nhân, lối sống cơ hội, thực dụng, nói không đi đôi với làm, bè phái.
Thứ tư, hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách quản lý kinh tế - xã hội, nâng cao chất lượng công tác kiểm tra, giám sát của Đảng và hoạt động thanh tra, kiểm sát của các cơ quan chức năng của Nhà nước; xử lý kịp thời, nghiêm minh những cán bộ, đảng viên sa vào chủ nghĩa cá nhân, có lối sống cơ hội, thực dụng, nói không đi đôi với làm, bè phái.
Thứ năm, mỗi cán bộ, đảng viên nâng cao ý thức trách nhiệm, trước hết, tự tu dưỡng rèn luyện để tự tránh sa vào những suy thoái nêu trên.
Thứ sáu, đề cao trách nhiệm và có các hình thức, phương pháp hiệu quả để tổ chức, động viên nhân dân tham gia chống chủ nghĩa cá nhân, lối sống cơ hội, thực dụng, nói không đi đôi với làm, bè phái trong cán bộ, đảng viên, trước hết ở địa phương, cơ quan, đơn vị.
- Giải pháp chủ yếu đấu tranh chống “lợi ích nhóm”
Một là, nâng cao chất lượng việc xây dựng, thảo luận, quyết định và ban hành các quyết sách chính trị của Đảng, các văn bản pháp luật và dưới luật, hạn chế các kẽ hở pháp luật. Công khai, minh bạch những hoạt động của các cơ quan lãnh đạo, quản lý, nhất là về các hoạt động phê duyệt dự án, đề án, đấu thầu các dự án, chương trình phát triển kinh tế - xã hội.
Nâng cao chất lượng ngay từ khâu chuẩn bị và hình thành dự thảo các quyết sách chính trị, văn bản pháp luật, dưới luật; dân chủ thảo luận, lấy ý kiến đóng góp của các cấp ủy, tổ chức đảng, các nhà khoa học và nhân dân. Thực hiện nghiêm quy trình thảo luận các văn bản đó. Chỉ đạo chặt chẽ việc cụ thể hóa các văn bản, vì đây là khâu dễ xuất hiện các sơ hở để lợi dụng, hình thành và phát triển “lợi ích nhóm”.
Quan tâm nâng cao chất lượng hoạt động của các cơ quan tham mưu của cấp ủy, chính quyền các cấp nhằm chống lại việc lợi dụng sơ sở trong các quyết sách chính trị, pháp luật.
Hai là, tiếp tục thực hiện công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, duy trì thành nền nếp thường xuyên việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng.
Ba là, xây dựng và thực hiện nghiêm quy chế làm việc của các cơ quan lãnh đạo Đảng, Nhà nước, thực hiện làm việc và quyết định mọi vấn đề theo nguyên tắc tập thể, dân chủ, quyết định theo đa số; gắn chặt quyền hạn với trách nhiệm của các bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt...
Bốn là, thực hiện đồng bộ các giải pháp đối với công tác cán bộ nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các ngành, các cấp, nhất là về bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, lối sống, tinh thần cảnh giác trước các thủ đoạn của các phần tử xấu.
Năm là, phát huy mạnh mẽ vai trò của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị - xã hội và các phương tiện thông tin đại chúng trong đấu tranh chống “lợi ích nhóm”.
Tập trung nâng cao chất lượng tổ chức bộ máy, cán bộ và hoạt động của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị - xã hội, nhất là về giám sát, phản biện xã hội đối với hoạt động của các cấp ủy, chính quyền, cán bộ, công chức. Thực hiện nghiêm quy chế giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị - xã hội. Coi trọng việc tham gia giám sát trực tiếp của nhân dân đối với hoạt động của cán bộ, công chức và đảng viên.
Sáu là, tăng cường hoạt động của các cơ quan kiểm tra của cấp ủy, thanh tra Nhà nước và các cơ quan tư pháp để điều tra, xác minh và xử lý nghiêm minh, kịp thời theo kỷ luật của Đảng, pháp luật của Nhà nước những cán bộ, đảng viên sa vào “lợi ích nhóm”./.
_________________________________
(1), (2) Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, Nxb. CTQG, H., T.10, tr.575.
(3), (4) Hồ Chí Minh (2000), Sđd, T.11, tr.376.
(5), (8) Viện Ngôn ngữ học (2002), Từ điển Tiếng Việt, Nxb. Đà Nẵng, H., tr.799, 558.
(6), (7) Hồ Chí Minh (2000), Sđd, T.12, tr.444 - 445.
(9) V.I.Lênin (2005), Toàn tập, Nxb. CTQG, H., T.6, tr.239.
(10), (11) https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/van-kien-tu-lieu-ve-dang/hoi-nghi-bch-trung-uong/khoa-vii/nghi-quyet-so-03-nqtw-cua-hoi-nghi-lan-thu-ba-ban-chap-hanh-trung-uong-dang-khoa-vii-ve-mot-so-nhiem-vu-doi-1121.
(12) https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/ban-chap-hanh-trung-uong-dang/dai-hoi-dang/lan-thu-viii/bao-cao-chinh-tri-cua-ban-chap-hanh-trung-uong-khoa-vii-trinh-tai-dai-hoi-dai-bieu-toan-quoc-lan-thu-viii-cua-dang-1549.
(13) https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/van-kien-tu-lieu-ve-dang/dai-hoi-dang/hoi-nghi-bch-trung-uong/khoa-viii/nghi-quyet-so-10-nqtw-ngay-02021999-hoi-nghi-lan-thu-6-lan-2-bchtw-dang-khoa-viii-ve-mot-so-van-de-co-ban-va-692.
(14) Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb. CTQG, H., tr.76.
(15) Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb. CTQG, H., tr.264.
(16) Đảng Cộng sản Việt Nam (2012), Văn kiện Hội nghị lần thứ tư, Ban Chấp hành Trung ương khóa XI, Nxb. CTQG, H., tr.22.
(17), (18) Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương xuất bản, H., tr.185, 184.
(19) Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương khóa XII, Nxb. CTQG, H., tr.31.
Nguồn: Bài đăng trên Tạp chí Tuyên giáo điện tử ngày 25.5.2021
Bài liên quan
- Những thách thức về bảo vệ nền tảng tư tưởng trên các phương tiện truyền thông xã hội
- Uy tín giả- tác hại thật - Bài 3: Ngăn chặn, đẩy lùi uy tín giả
- Uy tín giả - tác hại thật - Bài 2: Nhận diện uy tín giả
- Uy tín giả - tác hại thật - Bài 1: Uy tín giả - “mảnh đất dụng võ” của kẻ thù
- Nhận diện và xử lý những vấn đề phức tạp, nhạy cảm trong sách tôn giáo
Xem nhiều
- 1 Video Tư liệu: Tạp chí Lý luận chính trị và Truyền thông 30 năm xây dựng và phát triển
- 2 Xu hướng hòa bình, hợp tác, phát triển trên thế giới và vai trò của Việt Nam hiện nay
- 3 Sử dụng công nghệ trí tuệ nhân tạo trong sản xuất chương trình truyền hình
- 4 Giữ gìn và bảo vệ giá trị văn hóa truyền thống các dân tộc ít người, góp phần củng cố, phát triển khối đại đoàn kết toàn dân tộc
- 5 Phát triển nguồn nhân lực ở tỉnh Bến Tre: Thực trạng và giải pháp
- 6 Sử dụng ChatGPT trong việc cải thiện kỹ năng viết cho sinh viên học tiếng Anh
Liên kết
- Báo điện tử đảng cộng sản việt nam
- Báo nhân dân
- Báo Quân đội nhân dân
- Cổng thông tin điện tử Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Cổng thông tin điện tử Học viện Chính trị quốc gia hồ chí minh
- Tạp chí Cộng sản
- Tạp chí Giáo dục lý luận
- Tạp chí Giáo dục và Xã hội
- Tạp chí Khoa học xã hội và Nhân văn
- Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam
- Tạp chí Lý luận chính trị
- Tạp chí Nghiên cứu con người
- TẠP CHÍ Nghiên cứu dân tộc
- Tạp chí Người làm báo
- Tạp chí Nội chính
- Tạp chí Quản lý Nhà nước
- Tạp chí Tổ chức Nhà nước
- Tạp chí Tuyên giáo
- Tạp chí Xây Dựng Đảng
- Thư viện số Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Trang thông tin điện tử Hội đồng Lý luận Trung ương
Chuyển đổi số báo chí và đào tạo báo chí
Chuyển đổi số báo chí là sự thay đổi toàn diện, cả về phương thức hoạt động, mô hình tổ chức, kỹ năng sáng tạo và truyền tải thông tin báo chí, đòi hỏi sự thay đổi về nhận thức, thái độ từ các nhà lãnh đạo đến mỗi nhà báo trong các cơ quan báo chí. Chuyển đổi số cũng là điều kiện phát triển báo chí dựa trên mô hình hội tụ, đa nền tảng, đa phương tiện, đa dịch vụ... Quá trình đó cũng tác động sâu sắc và toàn diện đến hoạt động đào tạo báo chí để tạo dựng nguồn nhân lực thích ứng với bối cảnh chuyển đổi số.
Những thách thức về bảo vệ nền tảng tư tưởng trên các phương tiện truyền thông xã hội
Những thách thức về bảo vệ nền tảng tư tưởng trên các phương tiện truyền thông xã hội
Bảo vệ nền tảng tư tưởng trên các phương tiện truyền thông xã hội hiện nay đứng trước rất nhiều khó khăn, thách thức do các yếu tố chủ quan và khách quan mang lại. Lan toả các giá trị tư tưởng của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu để tiếp tục đưa đất nước tiến lên theo con đường xã hội chủ nghĩa. Vấn đề của hoạt động bảo vệ nền tảng tư tưởng trên các phương tiện truyền thông xã hội hiện nay là làm sao thu hút được sự quan tâm của đại bộ phận nhân dân, để nhân dân tin tưởng và làm theo Đảng thông qua những nội dung gần gũi, sinh động, hấp dẫn và hiện đại. Hai yếu tố ảnh hưởng lớn nhất tới hoạt động bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng chính là sự phát triển nhanh chóng của các phương tiện truyền thông, đặc biệt truyền thông xã hội và hiện tượng truyền thông hoá.
Uy tín giả- tác hại thật - Bài 3: Ngăn chặn, đẩy lùi uy tín giả
Uy tín giả- tác hại thật - Bài 3: Ngăn chặn, đẩy lùi uy tín giả
Uy tín giả là một biến thể nguy hại của chủ nghĩa cá nhân, trái ngược với những yêu cầu về phẩm chất đích thực và đạo đức cách mạng. Vì vậy, ngăn chặn, đẩy lùi uy tín giả là loại bỏ những thói hư tật xấu đang ngấm ngầm làm tha hóa cán bộ, đảng viên. Chống uy tín giả cũng là chống chủ nghĩa cá nhân, củng cố uy tín đích thực của người cán bộ, đảng viên, người lãnh đạo.
Uy tín giả - tác hại thật - Bài 2: Nhận diện uy tín giả
Uy tín giả - tác hại thật - Bài 2: Nhận diện uy tín giả
Uy tín giả nảy sinh, xâm nhập, lây lan trong đời sống chính trị, xã hội do nhiều nguyên nhân, trong đó, yếu tố chủ quan của tổ chức và cá nhân cán bộ, đảng viên là nguyên nhân trực tiếp, phổ biến.
Uy tín giả - tác hại thật - Bài 1: Uy tín giả - “mảnh đất dụng võ” của kẻ thù
Uy tín giả - tác hại thật - Bài 1: Uy tín giả - “mảnh đất dụng võ” của kẻ thù
Một trong những nguy cơ ngấm ngầm tạo ra sự ghen ghét, đố kỵ, gây chia rẽ, mất đoàn kết nội bộ, làm suy yếu tổ chức, suy yếu tập thể là uy tín giả. Nghiêm trọng hơn, nó còn thúc đẩy sự trỗi dậy của chủ nghĩa cá nhân rất nguy hại. Suy rộng ra, uy tín giả hủy hoại nghiêm trọng thanh danh của Đảng, làm giảm sút niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước ta nếu không được nhận diện, đấu tranh, ngăn chặn.
Bình luận