Định hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế những năm tới
Nhìn tổng thể, cơ cấu kinh tế Việt Nam năm 2004 chỉ tương đương với cơ cấu kinh tế của những nước trong khu vực vào những năm 80 của thế kỷ trước và hiện vẫn lạc hậu hơn so với cơ cấu kinh tế năm 2001 của những nước này. Tỷ trọng trong GDP của khu vực nông lâm nghiệp - thủy sản của Malaysia còn 8%, của Thái Lan còn 10%, của Philippines 15%, của Indonesia còn 16%; ngay của Trung Quốc cũng chỉ còn 15%, còn Hàn Quốc chỉ có 4%. Tỷ trọng trong GDP của khu vực công nghiệp - xây dựng của Malaysia đã đạt 49,6%, Indonesia đạt 46,5%; ấn Độ đạt 48,4%, Philippines đạt 53,6%, ngay Trung Quốc cũng đã đạt 52,2%.
Khu vực dịch vụ đang được các nước rất coi trọng và tìm mọi cách để nâng cao tỷ trọng của khu vực này trong GDP. Lý giải tình hình này, các chuyên gia kinh tế cho rằng:
Thứ nhất, khu vực dịch vụ thường có năng suất, hiệu quả cao hơn nhiều so với khu vực nông thôn, lâm nghiệp - thủy sản và cũng cao hơn khu vực công nghiệp - xây dựng. Chẳng hạn: du lịch, vừa không mất chi phí vận chuyển ra nước ngoài, không phải chịu thuế nhập khẩu của nước ngoài, không phải nhập nguyên vật liệu từ nước ngoài, vừa khai thác được thế mạnh của điều kiện tự nhiên, điều kiện lịch sử, vừa tạo công ăn việc làm cho nhiều lao động; hoạt động khoa học - công nghệ vừa là động lực của tăng trưởng kinh tế, vừa tạo điều kiện để đi tắt đón đầu, rút ngắn thời gian của nước đi sau; dịch vụ tài chính - tín dụng là hình thức mang lại nhiều lợi nhuận bởi sức mạnh vốn có của công cụ tiền tệ; xuất khẩu lao động vừa giải quyết được công ăn việc làm, vừa thu được ngoại tệ, vừa có thể nâng cao tay nghề, học tập tác phong công nghiệp...
Thứ hai, thị trường của sản phẩm dịch vụ còn rất rộng lớn, do nhu cầu gần như không có giới hạn của nó.
Thứ ba, ít phụ thuộc vào nguồn nguyên nhiên liệu nhập khẩu, phương tiện vận chuyển, tỷ giá đồng tiền, ít tác động xấu đến tài nguyên, môi trường sinh thái như hoạt động nông nghiệp, công nghiệp.
Tỷ trọng khu vực dịch vụ trong GDP theo mục tiêu do Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX của Đảng ta đề ra đến năm 2005 phải đạt 42 - 42%. Đây là mục tiêu không phải là cao, nếu không nói là thấp, nhưng lại có dấu hiệu không đạt được. Bởi các nguyên nhân dưới đây:
Một là, tỷ trọng khu vực này trong GDP sau khi đạt mức cao nhất (đạt 44,6% vào năm 1995) đã liên tục bị sụt giảm: năm 1996 còn 42,51%, năm 1998 còn 41,73%, năm 1999 còn 40,08%, năm 2000 còn 38,74%, năm 2001 còn 38,63%, năm 2002 còn 38,46% và năm 2003 chỉ còn 38%, năm 2004 nhích lên 38,15%.
Hai là, tốc độ tăng GDP do khu vực dịch vụ tạo ra cũng liên tục bị sút giảm và thường xuyên thấp hơn tốc độ tăng chung: năm 1996 là 8,8% so với 9,34%; năm 1997 là 7,14% so với 8,15%; năm 1998 là 5,08% so với 5,76%; năm 2002 là 6,54% so với 7,08%; năm 2003 là 6,57% so với 7,26%; năm 2004 là 7,47% so với 7,69%.
Ba là, ngay tại trung tâm kinh tế và dịch vụ lớn như Hà Nội, tỷ trọng của khu vực dịch vụ trong GDP cũng bị sút giảm.
Bốn là, một số ngành dịch vụ quan trọng còn chiếm tỉ trọng thấp và lại đang giảm dần: tài chính - ngân hàng năm 1995 chiếm 2,01% thì đến năm 2003 lại chỉ còn 1,79%; khoa học - công nghệ năm 1995 chiếm 0,16% nhưng đến năm 2004 cũng đạt 0,16% - bằng mức cách đây 10 năm.
Năm là, còn nhiều loại dịch vụ như nhà khách, bảo vệ, vệ sinh tạp vụ, kế toán, y tế, hội trường, đội xe... hiện còn đang được các cơ quan, đơn vị kiêm nhiệm, chưa được tách ra để các đơn vị chuyên nghiệp khác kinh doanh tập trung, nên một mặt đã hạn chế đến việc tập trung vào thực hiện nhiệm vụ chính, mặt khác hiệu quả hoạt động của các loại dịch vụ kiêm nhiệm này còn rất thấp.
Sáu là, trong tòan bộ khu vực dịch vụ, kinh tế nhà nước vẫn chiếm tỷ trọng lớn nhất (trên 55,4%), tiếp đến là kinh tế cá thể (29,6%), còn kinh tế tư nhân và kinh tế có vốn đầu tư nước ngòai chiếm tỷ trọng nhỏ (kinh tế tư nhân 11,1%, ĐTNN 2,3%).
Tỷ trọng của khu vực nông, lâm nghiệp - thủy sản giảm xuống nhưng cũng chứa đựng một số vấn đề đáng lưu ý. Sự sút giảm đó một phần quan trọng do giá cả nông sản trong nhiều năm còn thấp, có năm còn bị giảm. Nhiều sản phẩm nông nghiệp cung đã vượt cầu ở trong nước, xuất khẩu với khối lượng đứng thứ bậc cao trên thế giới nhưng phải bán qua nước khác nên không những không chi phối được giá cả mà còn phải bán với giá thấp hơn các nước khác.
Trong tổng giá trị sản xuất nông, lâm nghiệp - thủy sản, ngành lâm nghiệp chiếm tỉ trọng rất thấp, lại liên tục giảm xuống (năm 1990 còn chiếm 6,6%, đến năm 2004 chỉ còn chiếm 3,6%). Trong giá trị sản xuất nông nghiệp, chăn nuôi năm 2003 cũng mới chỉ chiếm 17,6%. Đã vậy, việc chuyển dịch cơ cấu trong những năm qua còn mang tính chất tự phát; công tác quy hoạch cũng như cơ chế và công cụ để điều hành theo quy hoạch chưa rõ ràng, còn lúng túng.
Trong cơ cấu công nghiệp cũng còn một số hạn chế. Tỷ trọng trong năm 2004 mới đạt 20,3% nhưng tiến độ tăng rất chậm; nếu 16 năm tới vẫn giữ tiến độ này thì đến năm 2020 vẫn còn đạt dưới 30%, còn thấp hơn ranh giới 37% mà một số nước chuyển từ nước nông nghiệp sang nước công nghiệp phải đạt được.
Ở một số địa phương, công nghiệp còn mang nặng tính gia công, thương mại còn mang nặng tính đại lý, sản phẩm công nghiệp lại khó tiêu thụ. Gia công, đại lý thực chất là làm thuê, thu nhập sẽ thấp, tích lũy sẽ ít.
Để chuyển dịch cơ cấu kinh tế tích cực hơn nữa, cần tập trung làm tốt các công việc lớn sau đây:
Thứ nhất, là vấn đề quy hoạch, kế hoạch - một tiền đề quan trọng để cơ cấu đầu tư và cơ cấu lại kinh tế. Công tác này đã sớm được đề ra và thực hiện, nhưng hiện vẫn còn vừa yếu, vừa thiếu tầm nhìn xa trông rộng. Sự phối hợp giữa các địa phương và giữa địa phương với ngành trong quy hoạch chưa tốt; tập trung vào kinh tế nhà nước, chưa bao quát hết tòan bộ nền kinh tế; quy hoạch chỉ tập trung các vấn đề chúng ta có thể làm được, mà thiếu dự báo về thị trường, thiếu các giải pháp thực hiện khả thi và các cân đối lớn; thiếu những quy hoạch cụ thể chuyên ngành...
Thứ hai, phải làm nhiều việc để đầu tư tạo nên cơ cấu kinh tế có hiệu quả cao. Chuyển đổi cơ cấu phải xét trong trạng thái động. Muốn vậy, một mặt phải xác định được trọng tâm của các ngành, cơ cấu sản phẩm (sản phẩm có thế mạnh, sản phẩm mũi nhọn, sản phẩm quốc gia); mặt khác phải xây dựng chính sách đầu tư hết sức linh hoạt, bắt đầu từ đầu tư sản phẩm, sau đó mới hình thành nên ngành và vùng... Hiện Nhà nước chỉ trực tiếp nắm 20% tổng vốn đầu tư phát triển tòan xã hội, còn 80% ngoài nhà nước, mà quy luật kinh tế là ở đâu có hiệu quả thì ở đó có đầu tư, nên Nhà nước cần có chính sách để thu hẹp khoảng cách giữa các ngành, các khu vực.
Thứ ba, trong ba khu vực cần dịch chuyển cơ cấu theo hướng khu vực công nghiệp - xây dựng và khu vực dịch vụ chiếm tỉ trọng ngày càng cao. Phát triển nông nghiệp chỉ tạo nên yếu tố quan trọng đầu tiên là nguyên liệu và cái ăn, chứ không thể làm giàu. Tuy không tăng mạnh cho đầu tư cho nông, lâm nghiệp - thủy sản sẽ không thể khai thác được tiềm năng, lợi thế, không rút được lao động từ nông nghiệp sang các ngành khác, nhưng chỉ có công nghiệp và dịch vụ mới làm giàu nhanh hơn cả.
Thứ tư, chuyển dịch mạnh cơ cấu lao động - một cơ cấu mà cho đến nay đã thấy rõ là khó thực hiện được mục tiêu đề ra năm 2005 và năm 2010. Năm 2001, 2002, 2003 đã có bước khởi động và đạt được kết quả bước đầu. Năm 2004 trở đi trọng tâm vẫn là chuyển dịch cơ cấu kinh tế, với tầm cao hơn trong lộ trình thực hiện cam kết hội nhập: cơ cấu lại để có hiệu quả cao hơn, và không bị thua trên sân nhà...
Cơ cấu nền kinh tế luôn là trọng tâm trong các mục tiêu và nhiệm vụ cụ thể của kế hoạch cũng như chiến lược phát triển kinh tế của đất nước, đòi hỏi các nhà hoạch định kế hoạch, chiến lược, chính sách cần hết sức quan tâm./.
Nguồn: Bài đăng trên Tạp chí Báo chí và Tuyên truyền số 4 (tháng 7+8)/2005
Bài liên quan
- Phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc - mục tiêu, quyết tâm của toàn Đảng và ý nguyện, khát vọng của người dân Việt Nam
- Phát huy bản lĩnh, trí tuệ và sức mạnh Việt Nam của Đại thắng mùa Xuân 1975 để lập nên những kỳ tích mới trong kỷ nguyên giàu mạnh, văn minh, thịnh vượng, vươn mình của dân tộc
- Đại thắng mùa Xuân năm 1975 - Chiến thắng của niềm tin, ý chí và khát vọng thống nhất đất nước của toàn dân tộc
- Ý chí Việt Nam từ Đại thắng mùa Xuân năm 1975 đến vững bước tiến vào kỷ nguyên vươn mình của dân tộc
- Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một
Xem nhiều
-
1
Mạch Nguồn số 66: LỜI HIỆU TRIỆU MÙA XUÂN
-
2
Mạch Nguồn số 68: LAN TỎA PHONG TRÀO THI ĐUA YÊU NƯỚC TẠI HỌC VIỆN BÁO CHÍ VÀ TUYÊN TRUYỀN
-
3
Mạch Nguồn số 65: NHÌN LẠI 2024 "CHUYỆN LÀNG, CHUYỆN NƯỚC"
-
4
Quản trị khủng hoảng truyền thông của các doanh nghiệp tổ chức sự kiện ở Việt Nam hiện nay
-
5
Đổi mới phương pháp dạy và học các môn lý luận chính trị ở các trường đại học tại Việt Nam hiện nay
-
6
Du lịch tỉnh Tây Ninh vươn mình trong bối cảnh hội nhập quốc tế
Liên kết
- Báo điện tử đảng cộng sản việt nam
- Báo nhân dân
- Báo Quân đội nhân dân
- Cổng thông tin điện tử Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Cổng thông tin điện tử Học viện Chính trị quốc gia hồ chí minh
- Tạp chí Cộng sản
- Tạp chí Giáo dục lý luận
- Tạp chí Giáo dục và Xã hội
- Tạp chí Khoa học xã hội và Nhân văn
- Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam
- Tạp chí Lý luận chính trị
- Tạp chí Nghiên cứu con người
- TẠP CHÍ Nghiên cứu dân tộc
- Tạp chí Người làm báo
- Tạp chí Nội chính
- Tạp chí Quản lý Nhà nước
- Tạp chí Tổ chức Nhà nước
- Tạp chí Tuyên giáo
- Tạp chí Xây Dựng Đảng
- Thư viện số Học viện Báo chí và Tuyên truyền
- Trang thông tin điện tử Hội đồng Lý luận Trung ương
Đổi mới phương pháp dạy và học các môn lý luận chính trị ở các trường đại học tại Việt Nam hiện nay
Đổi mới phương pháp dạy và học nói chung, dạy và học các môn lý luận chính trị nói riêng là xu thế tất yếu trong giáo dục đại học tại Việt Nam hiện nay. Chính vì vậy. trong những năm gần đây, các trường đại học trên cả nước đã tích cực triển khai thực hiện đổi mới phương pháp dạy và học các môn lý luận chính trị và bước đầu đã đạt được những kết quả nhất định, song trên thực tế, vẫn còn nhiều khó khăn, thách thức đặt ra, đặc biệt trong tình hình mới hiện nay. Bài viết tập trung làm rõ thực trạng quá trình đổi mới phương pháp dạy và học các môn học lý luận chính trị ở các trường đại học, trên cơ sở đó, đề xuất một số giải pháp tiếp tục đổi mới phương pháp dạy và học các môn học này, góp phần nâng cao chất lượng đào tạo của các trường đại học
Phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc - mục tiêu, quyết tâm của toàn Đảng và ý nguyện, khát vọng của người dân Việt Nam
Phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc - mục tiêu, quyết tâm của toàn Đảng và ý nguyện, khát vọng của người dân Việt Nam
Thời gian gần đây, các thế lực thù địch, phản động, cơ hội chính trị đưa ra các luận điệu xuyên tạc, chống phá chủ trương của Đảng ta về việc đưa đất nước tiến vào kỷ nguyên mới - kỷ nguyên vươn mình của dân tộc. Cần nhận diện rõ các luận điệu sai trái, thù địch đó; đồng thời, làm rõ nội dung liên quan, nhằm nâng cao nhận thức, củng cố niềm tin cho cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân, góp phần hiện thực hóa khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.
Phát huy bản lĩnh, trí tuệ và sức mạnh Việt Nam của Đại thắng mùa Xuân 1975 để lập nên những kỳ tích mới trong kỷ nguyên giàu mạnh, văn minh, thịnh vượng, vươn mình của dân tộc
Phát huy bản lĩnh, trí tuệ và sức mạnh Việt Nam của Đại thắng mùa Xuân 1975 để lập nên những kỳ tích mới trong kỷ nguyên giàu mạnh, văn minh, thịnh vượng, vươn mình của dân tộc
Sáng ngày 30-4-2025, tại Thành phố Hồ Chí Minh rực rỡ tên vàng, Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã tổ chức trọng thể Lễ kỷ niệm 50 năm Ngày Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (30-4-1975 - 30-4-2025). Tổng Bí thư Tô Lâm đọc diễn văn lễ kỷ niệm. Tạp chí Cộng sản trân trọng giới thiệu toàn văn diễn văn:
Đại thắng mùa Xuân năm 1975 - Chiến thắng của niềm tin, ý chí và khát vọng thống nhất đất nước của toàn dân tộc
Đại thắng mùa Xuân năm 1975 - Chiến thắng của niềm tin, ý chí và khát vọng thống nhất đất nước của toàn dân tộc
Đại thắng mùa Xuân năm 1975 là một trong những mốc son chói lọi trong lịch sử dân tộc Việt Nam, là biểu tượng của niềm tin, ý chí kiên cường và khát vọng độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam. Tinh thần đó cần tiếp tục được phát huy trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc để xây dựng nước Việt Nam giàu mạnh, phồn vinh, văn minh, hạnh phúc, sánh vai các cường quốc năm châu.
Ý chí Việt Nam từ Đại thắng mùa Xuân năm 1975 đến vững bước tiến vào kỷ nguyên vươn mình của dân tộc
Ý chí Việt Nam từ Đại thắng mùa Xuân năm 1975 đến vững bước tiến vào kỷ nguyên vươn mình của dân tộc
Đại thắng mùa Xuân năm 1975 đánh dấu mốc son chói lọi trong lịch sử vẻ vang của dân tộc Việt Nam, là minh chứng cho sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và sự ủng hộ của quốc tế. Thắng lợi này đã củng cố thành quả của kỷ nguyên độc lập, tự do và bước đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội Việt Nam do Đảng lãnh đạo; tiếp tục khẳng định hệ giá trị cho nhân loại về tính chính nghĩa của hòa bình, hữu nghị, hợp tác và vươn mình phát triển.
Bình luận